Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẶC XÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (405.3 KB, 29 trang )

























1
VĂN PHÒNG QUỐC HỘI

-

Thông tin chuyên đề-
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC


ĐẶC XÁ

TRUNG TÂM THÔNG TIN, THƯ VIỆN VÀ NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

- HÀ NỘI, THÁNG 03/2007 -

MỤC LỤC



I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .................................................................................3
1. Khái niệm, đặc điểm của đặc xá.......................................................................3
1.1. Đặc xá là hoạt động đặc biệt .....................................................................3
1.2. Đặc xá thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước............................................4
1.3. Đặc xá do người có thẩm quyền quyết định..............................................5
1.4. Về điều kiện, tiêu chuẩn của đối tượng được xét đặc xá...........................6
1.5. Về thời điểm quyết định đặc xá.................................................................7
2. Ý nghĩa của đặc xá............................................................................................8
2.1. Ý nghĩa tích cực........................................................................................8
2.2. Mặt hạn chế ............................................................................................ 10
3. Những nguyên tắc của đặc xá........................................................................ 11
3.1 Nguyên tắc pháp chế ............................................................................... 11
3.2. Nguyên tắc nhân đạo.............................................................................. 11
3.3. Nguyên tắc bảo đảm dân chủ, khách quan, công bằng, công khai và minh
bạch................................................................................................................ 12
3.4. Nguyên tắc bảo đảm kịp thời về thời gian ............................................. 12
4. Phạm vi, đối tượng đặc xá ............................................................................. 13
II- THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐẶC XÁ Ở NƯỚC TA ................................... 15
1. Về tiêu chuẩn, điều kiện đặc xá..................................................................... 15
1.1. Điều kiện cố định .................................................................................. 15

1.2. Tiêu chuẩn, điều kiện không cố định ..................................................... 16
2. Thẩm quyền, trình tự, thủ tục đặc xá............................................................. 20
2.1. Về thẩm quyền đặc xá ............................................................................ 20
2.2 Cơ quan, tổ chức giúp việc và trình tự, thủ tục đặc xá............................ 22
3. Những kết quả đã đạt được trong công tác đặc xá......................................... 25
3.1. Mặt tích cực............................................................................................ 25
3. 2. Những tồn tại, hạn chế .......................................................................... 26
3.3. Công tác tiếp nhận và giúp đỡ người được đặc xá còn hạn chế, tỷ lệ tái
phạm cao........................................................................................................ 27
4. Một số vấn đề về pháp luật về đặc xá............................................................ 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 29


2

I- NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Khái niệm, đặc điểm của đặc xá
Đặc xá là hoạt động đặc biệt, một hình thức thể hiện tính nhân đạo của Nhà
nước, do người có thẩm quyền quyết định theo quy định của Hiến pháp nhằm miễn
chấp hành hình phạt (hoặc thay đổi hình phạt khác nhẹ hơn) đối với người đang
chấp hành hình phạt với những điều kiện, tiêu chuẩn hoặc khi có những sự kiện
nhất định. Đặc xá thường được tổ chức nhân dịp những sự kiện trọng đại của đất
nước, của dân tộc và đáp ứng nhiệm vụ của Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể.
1.1. Đặc xá là hoạt động đặc biệt
Đặc xá là việc tha tù, trả tự do trước thời hạn cho người bị kết án đang chấp
hành hình phạt. Đây là hoạt động đặc biệt vì chỉ có người có thẩm quyền ra quyết
định làm chấm dứt việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội đang chấp hành
hình phạt (mà chủ yếu là hình phạt tù), hoặc áp dụng hình phạt khác nhẹ hơn hình
phạt người đó phải thực hiện theo bản án, quyết định hình sự đã có hiệu lực pháp
luật và đã đưa ra hoặc đang chờ thi hành. Đặc xá là hoạt động đặc biệt còn bởi vì,

thông thường theo quy định của Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự thì các bản
án, quyết định về hình sự của TAND đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang và mọi công
dân tôn trọng, công dân và các đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Để
thực hiện nội dung trên, Nhà nước đã ban hành pháp luật và thiết lập cơ quan thi
hành án hình sự cùng với việc đầu tư hệ thống trại giam, tạm giam để thực hiện có
hiệu quả, phù hợp với tính chất, mức độ từng loại hình phạt. Vì vậy, người có hành
vi phạm tội bị Nhà nước quyết định buộc họ phải chịu một mức hình phạt tương
ứng với tính nguy hiểm mà họ gây ra cho xã hội, Nhà nước đã áp dụng biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất (mà các loại cưỡng chế khác như dân sự, hành chính,
lao động không có) là tước bỏ hoặc hạn chế trong một thời hạn hay vĩnh viễn một
số hoặc tất cả các quyền, lợi ích cơ bản của công dân như về chính trị, kinh tế,
như: quyền bầu cử, ứng cử vào cơ quan, tổ chức; không được tự do kinh doanh; bị
cách ly khỏi xã hội, hạn chế các quyền tự do của công dân, quyền tự do hôn nhân,
đi lại, cư trú, tài sản; bị hạn chế các sở thích chính đáng về vật chất, tinh thần…
trong thời gian chấp hành hình phạt, thậm chí bị tước bỏ quyền được sống khi bị
tuyên phạt tử hình. Lẽ ra theo bản án đã có hiệu lực thi hành thì Nhà nước buộc
người phạm tội phải chấp hành hình phạt đúng với các nội dung bản án đã quyết

3
định… Tuy nhiên, Hiến pháp cũng quy định người có thẩm quyền được quyết định
tha một phần hay toàn bộ cho những người phải chấp hành hình phạt và khôi phục
một số quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân. Khi có quyết định đặc xá thì bản án
đã có hiệu lực pháp luật đang được thi hành sẽ không có hiệu lực (người bị kết án
tử hình thì sẽ không phải thi hành loại hình phạt đó nữa mà chuyển sang loại hình
phạt khác nhẹ hơn), đồng thời những tình huống có lợi cho người được đặc xá sẽ
được thực hiện.
1.2. Đặc xá thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước
Tính nhân đạo được thể hiện trên nhiều phương diện, từ chính sách hình sự
đến việc trừng phạt kết hợp giáo dục cải tạo, chế độ giam giữ, chương trình giáo

dục, cải tạo người bị kết án đang chấp hành hình phạt; chế độ thăm nuôi … Riêng
về hoạt động giảm án, tha tù trước thời hạn cho người đang chấp hành hình phạt
cũng có nhiều hình thức khác nhau do nhiều cơ quan và người có trách nhiệm thực
hiện với thẩm quyền, thủ tục và trình tự khác nhau, cụ thể là:
- Đại xá: Là việc tha, trả tự do cho những người đang chấp hành hình phạt
với những loại tội nhất định. Đại xá thường có quy mô lớn được thực hiện trong
những sự kiện chính trị pháp lý lớn của đất nước: như giành được chính quyền,
ngày thống nhất đất nước, việc đại xá do Quốc hội quyết định trên cơ sở của Hiến
pháp. Hoặc đại xá được đặt ra trước những thay đổi của Nhà nước trong chính
sách hình sự, chẳng hạn như hành vi trước đó là tội phạm nhưng sau đó không bị
coi là phạm tội… Thí dụ, tại điểm c, khoản 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 được
Quốc hội khoá X thông qua ngày 21/12/1999 về thi hành Bộ luật hình sự năm
1999 đã quy định : “ …trong trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt
hoặc đang được tạm đình chỉ thi hành án thì họ được miễn chấp hành phần hình
phạt còn lại; trong trường hợp người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang
được hoãn thi hành án thì họ được miễn toàn bộ hình phạt”.
- Đặc xá: Là việc tha tù, trả tự do trước thời hạn do Chủ tịch nước quyết
định trên cơ sở của Hiến pháp, còn ân giảm án tử hình cũng do Chủ tịch nước
quyết định dựa trên cơ sở của Hiến pháp và pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự,
với trình tự, thủ tục khác nhau, cơ quan giúp việc và tổ chức thực hiện cách thức
khác nhau.
Có thể phân chia đặc xá trên cơ sở quy mô: Đặc xá được thực hiện cho
nhiều người (quy mô lớn) đối với những đối tượng có điều kiện, tiêu chuẩn nhất
định. Hoặc đặc xá được thực hiện theo yêu cầu đột xuất trong những trường hợp

4
cụ thể, đối với những đối tượng cụ thể (thường là đơn lẻ) để phúc đáp chính sách
đối nội, đối ngoại, chẳng hạn tha bổng cho người phạm tội, bất kể người đó phạm
tội và bị áp dụng hình phạt gì hoặc việc ân giảm cho người bị kết án tử hình …Tuỳ
theo tính chất, mức độ quy mô đặc xá để giúp Chủ tịch nước thực hiện quyền hạn

của mình. Nếu đặc xá có quy mô lớn thì thông thường thành lập Hội đồng tư vấn
đặc xá ở trung ương và cấp tỉnh, Hội đồng này hoạt động có tính chất lâm thời,
bao gồm đại diện lãnh đạo của các cơ quan Nhà nước làm tư vấn.
- Hoạt động giảm án tha tù, miễn chấp hành hình phạt chính, hình phạt bổ
sung …: Hoạt động này do Tòa án nhân dân quyết định theo quy định của pháp
luật hình sự và tố tụng hình sự. Đó là hoạt động tư pháp chịu sự kiểm sát của
VKSND. Những đối tượng được giảm án cũng phải có những điều kiện, tiêu
chuẩn nhất định, nhiều khi giống điều kiện được đặc xá, tuy nhiên hoạt động này
được thực hiện thường xuyên, thời gian được giảm cũng hạn chế.
Về việc thực hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo, người ta sử dụng
nhiều thuật ngữ khác nhau như ra ân (do Nhà nước ban), ân xá (tha, trả tự do), ân
giảm (giảm thời hạn), phóng thích tội đồ, phóng thích (tù binh chiến tranh), giảm
án tha tù trước thời hạn.... Giảm án và tha tù có nhiều điểm giống nhau về bản chất
và điều kiện, nhưng cũng có những điểm không đồng nhất. Điểm giống nhau là
đều thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước, là tạo ra hậu quả có lợi hơn cho người
đang chấp hành hình phạt. Sự không đồng nhất thể hiện là việc giảm án thì rút
ngắn thời gian chấp hành hình phạt (mức giảm án ít hơn hình phạt tù đã tuyên, nên
mặc dù được giảm án nhưng vẫn phải tiếp tục thi hành cho đến hết thời hạn mới
được trả tự do), còn tha tù là trả tự do cho người đang chấp hành hình phạt tù. Việc
ân giảm án tử hình là việc đặc xá tha cho người bị kết án tử hình (người bị tước bỏ
cuộc sống) được chuyển xuống hình phạt khác nhẹ hơn là hình phạt tù.
1.3. Đặc xá do người có thẩm quyền quyết định
Người có thẩm quyền quyết định đặc xá được quy định bởi Hiến pháp.
Thẩm quyền quyết định đặc xá của mỗi quốc gia được quy định khác nhau, tuy
nhiên thông thường là người có thẩm quyền cao nhất của đất nước, đại diện cho
Nhà nước đặc xá cho phạm nhân trong phạm vi lãnh thổ của mình. Thẩm quyền
đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay có sự khác nhau do phân công, tổ chức thực
hiện quyền lực của Nhà nước trong từng giai đoạn trên cơ sở của Hiến pháp và
pháp luật.


5
Theo quy định tại Hiến pháp năm 1992, đặc xá thuộc thẩm quyền của Chủ
tịch nước – là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại – là Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An
ninh. Chủ tịch nước có những nhiệm vụ và quyền hạn rất lớn, có liên quan và tác
động đến hoạt động lập pháp, đến tổ chức và hoạt động hành pháp, đến hoạt động
kiểm sát và xét xử trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đất nước nhằm thực hiện tốt
chức năng đối nội và đối ngoại. Các cơ quan hữu quan có trách nhiệm giúp Chủ
tịch nước thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình. Quyết định của Chủ tịch
nước có giá trị pháp lý cao, các cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm phải
nghiêm chỉnh thi hành. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước
Quốc hội, trong đó có công tác đặc xá.
1.4. Về điều kiện, tiêu chuẩn của đối tượng được xét đặc xá
Cùng là quyết định về đặc xá nhưng nội dung về các điều kiện, tiêu chuẩn
được quy định trong quyết định hàng năm thường khác nhau, trên cơ sở tình hình,
yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể tại thời điểm ban hành. Đặc biệt, đối với việc đặc xá cho
từng đối tượng cụ thể thì các trường hợp này sẽ khác nhau về các điều kiện, tiêu
chuẩn.
Qua nghiên cứu về đặc xá ở nước ta từ năm 1945 đến nay thấy rằng, việc
quy định về điều kiện và tiêu chuẩn của người chấp hành hình phạt để được xét
đặc xá là nội dung trọng tâm, là yếu tố quyết định về số lượng đặc xá tha tù có quy
mô lớn. Các điều kiện và tiêu chuẩn do Nhà nước đặt ra có những điều kiện khá cố
định (đối với bản thân người đang chấp hành án) và có những điều kiện thường
xuyên thay đổi được ghi ngay trong quyết định đặc xá hằng năm hay từng đợt. Cụ
thể là:
Các điều kiện cố định: Trong các lần đặc xá hằng năm đều quy định điều
kiện này, đó là người chấp hành hình phạt nhận ra lỗi lầm của mình, phải có sự
rèn luyện, phấn đấu tích cực lao động, học tập để được hưởng sự khoan hồng.
Các điều kiện không cố định: Các điều kiện này luôn thay đổi, do Nhà nước
quy định dựa trên tình hình, yêu cầu, phúc đáp nhiệm vụ hàng năm. Cụ thể là:

Người phạm vào loại tội được xét và loại tội không được xét đặc xá; Thời gian đã
chấp hành hình phạt (đối với những loại tội khác nhau thì thời gian hàng năm cũng
khác nhau, chẳng hạn đối với tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình..); Các điều
kiện ngoại lệ (là thương binh, gia đình liệt sỹ, nuôi con nhỏ, được thưởng huân
huy chương, lập công, dũng cảm…). Đặc xá trong trường hợp đặc biệt thì tiêu

6
chuẩn, mức độ hàng năm rất khác nhau; thành phần cơ quan giúp việc và thủ tục
cũng khác.
Có thể thấy rằng, lĩnh vực đặc xá rất quan trọng trong đời sống xã hội, được
ghi nhận trong Hiến pháp và sớm được Nhà nước thực hiện ngay từ khi mới giành
được chính quyền năm 1945 và suốt hơn 60 năm qua công tác này luôn được Nhà
nước quan tâm và ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, xuất phát từ những biến đổi
liên tục, không ổn định thuộc nội dung quan trọng là tiêu chuẩn, điều kiện của đối
tượng (và một số nội dung khác) nên khó ban hành văn bản quy phạm pháp luật có
hiệu lực pháp lý cao, mang tính ổn định, lâu dài để điều chỉnh lĩnh vực này như Bộ
luật, Luật của Quốc hội hoặc Pháp lệnh của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, mà tuỳ
theo tình hình thực tế của mỗi năm Nhà nước có chủ trương đặc xá thông qua các
văn bản pháp luật như các sắc lệnh, quyết định, nghị quyết … của Chủ tịch nước,
Hội đồng Nhà nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Trên cơ sở đó lại giao cho các
bộ, ngành liên quan hoặc cơ quan tư vấn đặc xá ban hành các văn bản khác qui
định hướng dẫn cụ thể.
1.5. Về thời điểm quyết định đặc xá
Đặc xá được nhiều nước trên thế giới thực hiện. Mỗi quốc gia có những
mốc thời gian ấn định ngày trọng đại khác nhau, sự kiện khác nhau nhưng nhìn
chung vẫn coi ngày độc lập là ngày lễ trọng đại nhất. Hiện nay, ở nước ta tuy
không có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về những thời điểm đặc xá,
nhưng từ năm 1945 đến nay thời điểm đặc xá được thực hiện theo tiền lệ hàng năm
cứ đến ngày trọng đại của đất nước khi ban hành quyết định đặc xá. Thời điểm
được quy định tại phần căn cứ ban hành, cụ thể là: Theo Sắc lệnh số 148 ngày

10/8/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt nam dân chủ cộng hoà thì: “Xét nhân dịp
nhất chủ niên cuộc Cách mạng tháng Tám nay ra ân cho các phạm nhân đã bị kết
án nhất định”. Trong Sắc lệnh số 11-SL ngày ngày 22/1/1950 của Chủ tịch nước
Việt nam dân chủ cộng hoà có ghi “Xét nhân ngày kỷ niệm lần thứ tư cuộc Cách
mạng tháng Tám và ngày Độc lập 2/9/1945 nên ra ân cho phạm nhân đã bị kết án
nhất định”.. Trong Thông tư số 313/TTG ngày 19/7/1957 của Thủ tướng Chính
phủ về việc ân xá, ân giảm nhân dịp ngày 2/9/1957 đã nêu rõ “ Nhân dịp Quốc
khánh ngày 2/9/1957, theo lệ thường Chính phủ sẽ ân xá, ân giảm cho những
phạm nhân xét ra đã được cải tạo…”. Nghị quyết số 4 NQ/TVQH ngày 29/8/1960
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định đặc xá cho một số phạm nhân “Nhân
dịp kỷ niệm lần thứ 15 ngày thành lập nước Việt nam dân chủ cộng hoà”... Gần
đây nhất, tại Quyết định số 797/2006/QĐ-CTN ngày 7/7/2006 của Chủ tịch nước

7
quyết định về đặc xá năm 2006 cũng quy định tại Điều 1 là: “ Thực hiện đặc xá
tha tù cho những người bị kết án phạt tù nhân dịp kỷ niệm Quốc khánh nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( 02/9/2006)”…
Qua các dẫn chứng trên có thể khẳng định rằng, thời điểm đặc xá ở nước ta
từ năm 1945 đến nay được thực hiện chủ yếu nhân sự kiện trọng đại của đất nước,
của dân tộc, đó là những ngày Quốc khánh 2/9, ngày 30/4 thống nhất đất nước và
ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Nhất là vào những năm chẵn thì đặc xá được thực
hiện với quy mô lớn; chẳng hạn năm 2000 đã đặc xá cho 23.827 người.
2. Ý nghĩa của đặc xá
2.1 Ý nghĩa tích cực
Đặc xá có nhiều ý nghĩa tích cực trên nhiều lĩnh vực quan trọng của đời
sống xã hội.
- Về chính trị: Đặc xá thể hiện Nhà nước luôn luôn quan tâm đến người
dân, kể cả trong trường hợp họ phạm tội, đang bị trừng phạt, qua quá trình cải tạo
họ đã tiến bộ, đạt được tiêu chuẩn, điều kiện nhất định thì Nhà nước thay đổi chính
sách trừng phạt đối với họ, khôi phục quyền, lợi ích cơ bản của công dân. Thực tế

là Nhà nước cho họ được hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo, thể hiện rõ sự
quan tâm của Nhà nước với công dân. Công tác đặc xá đã có tác dụng quan trọng
giáo dục, động viên người phạm tội tích cực cải tạo và hoàn lương, góp phần vào
việc ổn định tình hình đất nước trong điều kiện chính quyền còn non trẻ, cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ rất gian khổ và kéo dài, toàn
quốc phải huy động toàn bộ sức người, sức của phục vụ nhiệm vụ chính trị xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần ổn định an ninh, trật tự xã hội, thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới của đất nước. Đặc xá cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự chú
ý, quan tâm của dư luận xã hội, đặc biệt là thân nhân gia đình của những người
được đặc xá, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ.
- Về đối ngoại: Trước tình hình quốc tế có những diễn biến phức tạp thì
công tác đặc xá đã thể hiện bản chất nhân đạo, truyền thống nhân ái của dân tộc
Việt Nam, chính sách khoan hồng của Đảng, Nhà nước ta đối với người phạm tội.
Kết quả các đợt đặc xá đã được nhân dân trong nước đồng tình, được dư luận thế
giới hoan nghênh và đánh giá cao về tính nhân đạo, công khai và minh bạch trong
chủ trương cũng như trong quá trình triển khai thực hiện. Kết quả công tác đặc xá
cùng với những biện pháp tích cực tuyên truyền có tác dụng làm cho bạn bè hiểu
rõ chính sách nhân đạo của Nhà nước ta, đồng thời đập tan nhiều âm mưu, hành

8
động của thế lực nước ngoài và tay sai phản động luôn rêu rao, nói xấu, bịa đặt
vấn đề tôn giáo, nhân quyền ở nước ta.
- Về kinh tế: Làm tốt công tác đặc xá có tác dụng về kinh tế đối với Nhà
nước, xã hội. Kết quả thực hiện đặc xá với việc hàng năm tha cho một số lượng
đáng kể phạm nhân đang chấp hành phạt tù có ý nghĩa quan trọng trong việc giảm
chi cho ngân sách Nhà nước, vì phải đầu tư cho hệ thống các trại giam, trại tạm
giam, giảm những khoản chi mua sắm trang thiết bị phục vụ, các chế độ bảo đảm
để nuôi dưỡng phạm nhân, đặc biệt là chi phí để đào tạo, tuyển dụng và duy trì lực
lượng cán bộ quản lý, canh gác phạm nhân. Đây là khoản ngân sách không nhỏ,
nếu giảm được khoản chi đó thì Nhà nước có thêm điều kiện tập trung kinh phí

làm những việc cần thiết khác. Đồng thời, khi người được đặc xá về với gia đình,
địa phương để lao động sản xuất sẽ có hiệu quả cao hơn, góp phần làm ra nhiều
của cải cho bản thân, gia đình và xã hội; đồng thời sẽ giảm được nhiều công sức,
thời gian và tiền của do gia đình, thân nhân của họ phải bỏ ra khi đi thăm nom.
- Đặc xá góp phần tích cực trong công tác thi hành án phạt tù. Một trong
những nguyên nhân đề nghị Chủ tịch nước đặc xá cho người chấp hành hình phạt
tù vì việc đặc xá tha tù cũng góp phần giảm áp lực tại các trại giam, trại tạm giam
trong điều kiện giam giữ quá tải đang là tình trạng khá phổ biến hiện nay. Số
lượng phạm nhân đông, điều kiện kinh tế của đất nước còn khó khăn, ngân sách
dành cho công tác giam giữ, giáo dục, cải tạo còn eo hẹp thì đặc xá sẽ góp phần
vào việc tạo điều kiện thuận lợi về vật chất cho những người chưa có điều kiện đặc
xá vì khi người được đặc xá được trả tự do thì diện tích nơi ở dành cho người khác
sẽ rộng hơn theo đúng quy định. Điều này cũng có nghĩa là giúp cho cơ quan thi
hành án không vi phạm chính sách, đồng thời Nhà nước sẽ tập trung cải thiện nâng
cao chế độ vật chất cho người đang chấp hành hình phạt..
Đặc xá là động lực quan trọng giúp người chấp hành hình phạt tích cực cải
tạo. Một trong những nguyên nhân về thành tích của cơ quan thi hành án phạt tù
trong việc quản lý giam, giữ giáo dục, cải tạo người chấp hành án trong thời gian
qua là do chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta, trong đó việc đặc xá
góp phần rất quan trọng. Công tác quản lý giáo dục, cải tạo các đối tượng phạm tội
phải chấp hành hình phạt là vấn đề rất phức tạp, vì những người phạm tội rất khác
nhau về nhiều mặt, như: điều kiện, hoàn cảnh, tính cách của từng người khác nhau,
người giàu, người nghèo; người có trình độ, nhận thức khác nhau, người phạm tội
nhất thời, do hoàn cảnh xô đẩy, người lưu manh chuyên nghiệp, tái phạm nguy
hiểm; động cơ, mục đích phạm tội cũng khác nhau với các lỗi vô ý, cố ý; nơi giam

9
xa xôi đi lại thăm hỏi khó khăn, tình hình bệnh tật, điều kiện sinh hoạt về vật chất,
tinh thần khác xa với cuộc sống tự do… Do đó việc quản lý họ để thực hiện mục
đích hình phạt là rất khó khăn. Về thực trạng và tâm lý của người phạm tội cũng

diễn biến rất phức tạp, nhiều người trong thời gian đầu rất bi quan, tuyệt vọng khi
nhìn về cuộc sống thực trạng và tương lai bất lợi, nhất là đối với những người có
mức hình phạt cao, ở giai đoạn này không ít trường hợp vi phạm pháp luật. Tuy
nhiên được sự quan tâm, giáo dục của cán bộ, chiến sĩ làm công tác quản lý giải
thích, tuyên truyền chính sách nhân đạo, khoan hồng của Đảng, Nhà nước; tấm
gương của những người được hưởng chính sách đặc xá trước đó đã làm cho họ
thấy rằng cuộc sống của họ vẫn còn tương lai nếu nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật trong quá trình cải tạo sẽ được hưởng lượng khoan hồng, nhân đạo của Nhà
nước. Đây là động lực, mục đích của họ để ra sức lao động, học tập, cải tạo, nhiều
trường hợp là con đường duy nhất thúc đẩy phạm nhân rèn luyện, phấn đấu cải tạo
tiến bộ để sớm được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước. Thực tế đã
chứng minh những người được đặc xá đều tự giác phấn đấu đạt tiêu chuẩn, điều
kiện, nhiều người lập công trong quá trình cải tạo được đặc xá, khi trở về địa
phương đại đa số đều hòa nhập vào cộng đồng, không ít người đã đã lập được
thành tích được Nhà nước khen thưởng.
Gia đình nói chung đặc biệt gia đình người Việt nam nói riêng luôn luôn có
mối liên hệ tình cảm, luôn quan tâm đến nhau, từ lâu người Việt Nam có câu:” con
ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Bởi vậy còn gì vui hơn khi trong gia đình có người
thân lầm lỗi đã nhận ra lỗi lầm của mình, tích cực cải tạo được đặc xá hưởng sự
khoan hồng của Nhà nước được sum họp cùng gia đình. Đối với những trường hợp
đang phải chấp hành hình phạt thì qua công tác tuyên truyền về đặc xá có tác dụng
làm cho phạm nhân và gia đình phạm nhân phấn khởi, tin tưởng vào đường lối,
chính sách nhân đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước và bản chất chế độ xã hội
chủ nghĩa. Bởi vậy nhiều gia đình luôn động viên người thân của mình cải tạo tốt
để được hưởng sự khoan hồng. Đây cũng là một nguyên nhân chính giúp công tác
quản lý thi hành phạt tù đạt được nhiều thành tích trong thời gian qua.
2.2 Mặt hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực là cơ bản, chủ yếu thì việc đặc xá cũng có
tính hạn chế là ít nhiều cũng làm giảm tính nghiêm minh của pháp luật, theo đó thì
đáng ra người phạm tội phải chấp hành đầy đủ sự trừng phạt của Nhà nước được

quyết định trong bản án đã có hiệu lực pháp luật. Nhưng khi có quyết định đặc xá
thì người đó được tha và được khôi phục một số quyền cơ bản (đối với người bị

10
kết án tử hình thì được ân giảm xuống phạt tù chung thân và quá trình chấp hành
hình phạt tù chung thân họ có thể được giảm xuống hình phạt tù có thời hạn, khi
hết thời hạn thì họ được trả tự do…). Mặt khác việc phát hiện điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án đối với người có hành vi phạm tội được các cơ quan tiến hành tố
tụng, cơ quan tư pháp thực hiện rất công phu, tốn kém. Việc trừng phạt họ với
mức hình phạt tuyên công khai được dư luận đồng tình và ủng hộ. Bởi vậy khi họ
chưa chấp hành đầy đủ theo quyết định của bản án mà đã được trả tự do sẽ ít nhiều
có sự ảnh hưởng trong dư luận xã hội, nhất là đối với trường hợp được đặc xá lại
phạm tội cũ với lỗi cố ý. Do đó, cơ quan, tổ chức giúp việc thực hiện đặc xá cần
bảo đảm tính chính xác trong công tác tư vấn giúp việc là biện pháp tích cực nhất
để khắc phục hữu hiệu mặt hạn chế.
3. Những nguyên tắc của đặc xá
Mặc dù chưa có văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao như luật,
pháp lệnh về đặc xá để quy định những vấn đề chung, bao gồm cả những nguyên
tắc trong đặc xá, nhưng qua những văn bản pháp luật hàng năm quy định, hướng
dẫn và trong quá trình tổ chức thực hiện đặc xá đã thể hiện công tác đặc xá có
những nguyên tắc nhất định, những người và cơ quan có trách nhiệm phải luôn
tuân thủ, đó là:
3.1 Nguyên tắc pháp chế
Đây là nguyên tắc có vị trí rất quan trọng xuất phát từ những luận điểm
chung về pháp chế trong lĩnh vực hình sự tư pháp vốn đã chặt chẽ còn có những
đặc điểm riêng. Yêu cầu đòi hỏi của nguyên tắc này trước hết cần phải có văn bản
pháp luật đầy đủ và phù hợp, kịp thời để tổ chức thực hiện. Mặt khác, các cơ quan
Nhà nước, các tổ chức, các chủ thể liên quan trong phạm vi, trách nhiệm của mình
phải tuân thủ đầy đủ những quy định của pháp luật liên quan về trình tự, thủ tục,
thời hạn, về nội dung... Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ, tình hình công tác đấu

tranh phòng chống tội phạm hàng năm rất đa dạng nên việc ban hành văn bản của
người có thẩm quyền và các văn bản hướng dẫn cũng như quá trình thực hiện đặc
xá ... phải thực hiện đúng, đầy đủ nguyên tắc pháp chế. Điều này sẽ đáp ứng cơ
bản yêu cầu, mục đích của đặc xá.
3.2. Nguyên tắc nhân đạo
Mặc dù người phải chấp hành hình phạt đã có hành vi gây nguy hiểm cho
xã hội, bị Nhà nước trừng phạt, nhưng với bản chất nhân đạo của Nhà nước ta vẫn
có trách nhiệm là cải tạo, giáo dục họ thành người lương thiện, khi họ đã có những

11

×