Tải bản đầy đủ (.doc) (238 trang)

điều tra đánh giá thực trạng đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã trên địa bàn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.7 MB, 238 trang )

Chủ nhiệm đề tài: Th.S PHAN VĂN HIẾU

Tháng 10/2011
MỞ ĐẦU
1
1. Sự cần thiết của đề tài:
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986), Đảng và Nhà nước
chủ trương nhất quán phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có phát
triển HTX. Chủ trương đó đã được toàn dân hưởng ứng và thực hiện, góp phần tạo
nên những thành tựu to lớn, đưa đất nước vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội, tạo ra thế và lực mới để đẩy mạnh CNH, HĐH. Trên cơ sở tiếp tục đổi mới và
phát triển các loại hình kinh tế tập thể, cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân, Nghị quyết Đại hội X của
Đảng yêu cầu: "Tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích
phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, HTX kiểu mới. Chú
trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX, liên hiệp HTX cổ
phần. Khuyến khích việc tăng vốn góp và các nguồn vốn huy động từng thành viên
để tăng nguồn vốn hoạt động của HTX, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và
quỹ không chia trong HTX. HTX và các loại hình kinh tế hợp tác hoạt động theo các
nguyên tắc: hợp tác tự nguyện; dân chủ, bình đẳng và công khai; tự chủ, tự chịu
trách nhiệm và cùng có lợi; hợp tác và phát triển cộng đồng"
1
. Một trong những đòi
hỏi bức thiết để thực hiện chủ trương này là phải điều tra đánh giá thực tế tình hình
chuyển đổi và xây dựng mới các HTX trên địa bàn cả nước nói chung, từng tỉnh nói
riêng.
Quảng Ngãi là tỉnh có phong trào hợp tác hóa tương đối phát triển. Chỉ mới
5 năm kể từ sau ngày giải phóng (năm 1975), toàn tỉnh đã cơ bản hoàn thành hợp
tác hóa, với 152 HTX, 122.722 hộ xã viên và 333 tập đoàn sản xuất, đưa 98% số
hộ nông dân và 95% diện tích ruộng đất vào làm ăn tập thể. Hoạt động của các


HTX đã đạt được những thành tựu kinh tế, xã hội quan trọng. Tuy nhiên, do việc
xây dựng các HTX theo tư duy của thời kỳ kế hoạch hóa tập trung nên kết quả đạt
được và hiệu quả hoạt động của các HTX còn nhiều hạn chế. Trong quá trình thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, không ít HTX trên địa bàn hoặc phải tan rã hoặc
vẫn tồn tại nhưng chỉ là hình thức làm mất lòng tin của một bộ phận người dân.
2
(1) Đảng Cộng Sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, tr 85-86
Kể từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương đổi mới mô hình HTX, nhất là từ
khi ban hành Luật HTX(1996) thay cho Điều lệ HTX đã ban hành từ trước, phong
trào hợp tác hóa mới từng bước được chuyển đổi và đi vào hoạt động. Đến cuối
năm 2010, toàn tỉnh đã có 274 HTX trong các ngành nghề với nhiều qui mô và
trình độ sản xuất, kinh doanh. Đã có trên 30% số HTX vươn lên làm ăn khá. Tuy
những con số đóng góp của HTX so với các thành phần kinh tế khác còn rất khiêm
tốn nhưng nó có ý nghĩa rất lớn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương,
thu hút lao động, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo trong nông nghiệp, nông thôn.
Đặc biệt, các quỹ tín dụng nhân dân bước đầu đã đáp ứng nhu cầu vốn cho người
dân, nhất là các hộ nghèo có điều kiện đầu tư cho sản xuất. Lúc này, HTX đã trở
thành nhân tố quan trọng, hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển hiệu quả, đồng thời tạo
việc làm thường xuyên cho hàng nghìn lao động.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy mạnh tăng trưởng, phát triển kinh tế theo chiều
sâu và bền vững theo chủ trương của Tỉnh ủy và UBND tỉnh, thì việc phát triển
các HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn nổi lên nhiều bất cập cần được tháo
gỡ. Đó là tình trạng việc chuyển đổi sang mô hình HTX kiểu mới còn chậm. Hầu
hết các HTX có quy mô nhỏ, thiếu vốn, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhiều yếu
kém, các HTX còn thiếu cán bộ có năng lực quản lý và điều hành các hoạt động
dịch vụ. Tập quán sản xuất, kinh doanh vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề của cơ chế
cũ nên chưa năng động, tích cực trong tìm kiếm nguồn thu nhập mới. Không ít
HTX chỉ tồn tại trên danh nghĩa, hình thức là chủ yếu, hiệu quả rất thấp, thu nhập
của xã viên trong các HTX còn thấp. Nói một cách khái quát, HTX của tỉnh chưa
thoát khỏi tình trạng yếu kém, chưa thực sự trở thành “bà đỡ” cho kinh tế hộ xã

viên. Tình hình đó, nếu không có những điều tra, đánh giá đúng thực tế để có giải
pháp thiết thực sẽ làm suy giảm vai trò của kinh tế HTX trước yêu cầu phát triển
kinh tế, xã hội theo định hướng XHCN.
Việc tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn và rút ra các bài học kinh nghiệm về
các loại hình HTX, từ đó đề xuất mô hình HTX hoạt động hiệu quả trong giai đoạn
tới ở Quảng Ngãi là cấp bách và thiết thực cả về lý luận và thực tiễn (Theo Quyết
3
định số 491/Q Đ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ xã đạt chuẩn nông
thôn mới phải có HTX hoặc tổ hợp tác hoạt động có hiệu quả).
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hợp tác xã là một hình thức tổ chức kinh tế tập thể đóng vai trò nòng cốt
trong phát triển kinh tế của nhiều quốc gia. Đặc biệt hiện nay, các HTX được coi
là lực lượng vững mạnh, nhất là trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở một số
nước châu Á như Nhật Bản, Ấn Độ, Thái Lan, Maylaysia… Ở nước ta, trong hơn
50 năm qua, hình thức kinh tế này tuy có quá trình phát triển với các nấc thang và
có bước thăng trầm khác nhau, nhưng thực tế đã chứng tỏ chủ trương phát triển
hình thức HTX của Đảng và Nhà nước là hoàn toàn đúng đắn.
Đến nay, đã có khá nhiều công trình khoa học nghiên cứu kinh tế tập thể nói
chung, về HTX nói riêng ở trong và ngoài nước. Dưới đây xin nêu một số công
trình chủ yếu đã được công bố:
- Yoshitada Nakaoka – Giám đốc Viện phát triển HTX nông nghiệp châu Á
– Nhật Bản (IDACA) Tokyo (1998), Lịch sử phát triển HTX nông nghiệp Nhật
Bản. Bài viết cho biết các thời kỳ phát triển nông nghiệp của Nhật Bản từ khi hình
thành (năm 1840) đến năm 1998, trong đó cho biết các loại hình HTX ở Nhật Bản
và những đánh giá về các thời kỳ phát triển này theo quan điểm của tác giả.
- Tổ chức hỗ trợ và phát triển các HTX Thụy Điển (1988), Giới thiệu Trung
tâm HTX Thụy Điển (SCC) là một tổ chức phi lợi nhuận hỗ trợ sự phát triển các
HTX, các tổ chức của nông dân và các tổ chức ở các nước đang phát triển; trong
đó giới thiệu các loại hình HTX ở Thụy Điển hiện nay.
- E. Mogensen, chuyên gia về HTX, Văn phòng lao động quốc tế ILO

(1995), Giới thiệu phong trào HTX tiêu dùng ở Đan Mạch kể từ khi bắt đầu thành
lập (năm 1866) đến năm 1995. Bài viết giới thiệu đây là một hình thức tổ chức
phát triển cộng đồng trong lĩnh vực lưu thông có sức cạnh tranh rất lớn trên thị
trường. Phân tích cơ chế vận hành và vai trò của Nhà nước, hình thức dân chủ đối
với sự phát triển hình thức kinh tế này.
- PGS, TS Hoàng Kim Giao (1997), HTX ở Ixraen, trong tài liệu phục vụ
4
nghiên cứu đề tài Kinh tế hợp tác, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, do Viện
Kinh tế HTX thuộc Liên minh các HTX Việt Nam chủ trì. Giới thiệu quá trình
phát triển của các loại hình HTX ở Thái Lan từ khi thành lập tổ chức đầu tiên
(năm 1916) đến nay, bao gồm HTX nông nghiệp, HTX định cư đất đai, HTX tiêu
dùng, HTX tín dụng và tiết kiệm…
- PGS, TS Hoàng Kim Giao (1997), HTX ở Indonexia, trong tài liệu phục
vụ nghiên cứu đề tài Kinh tế hợp tác, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, do Viện
Kinh tế HTX thuộc Liên minh các HTX Việt Nam chủ trì. Phân tích các chính
sách của chính phủ nước này về phát triển HTX từ năm 1958 đến những năm gần
đây, chỉ ra vai trò của chính phủ trong quản lý phát triển hình thức tổ chức này ở
Indonexia.
- Hội đồng Trung ương Liên minh các HTX Việt Nam, Viện Kinh tế HTX
(1997), Báo cáo nghiệm thu đề tài kinh tế hợp tác, một số vấn đề lý luận và thực
tiễn, do PGS, TS Hoàng Kim Giao làm chủ nhiệm. Phân tích một số vấn đề lý luận
về kinh tế hợp tác, các loại hình kinh tế hợp tác, vai trò của Nhà nước đối với khu
vực kinh tế hợp tác và một số kiến nghị phát triển phong trào hợp tác hóa ở nước
ta theo mô hình mới.
- Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã (1999), “Đổi mới tổ chức và quản lý
các Hợp tác xã trong nông nghiệp và nông thôn”, NXB Nông nghiệp, Hà Nội.
Cuốn sách phân tích thực trạng quản lý các HTX nông nghiệp ở Việt Nam kể từ
khi thành lập và kiến nghị giải pháp đổi mới phương thức quản lý đáp ứng yêu cầu
phát triển mô hình HTX theo Luật HTX ban hành năm 1996.
- Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003), “Kinh tế Hợp tác

trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay”, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nghiên
cứu tổng quan cơ sở lý luận và thực tiễn về HTX để phân tích đánh giá thực trạng
mô hình HTX ở nước ta từ khi thành lập đến nay, đề xuất giải pháp phát triển nó
trước yêu cầu đổi mới của đất nước.
- Cục HTX và phát triển nông nghiệp hợp tác với tổ chức JICA của Nhật
Bản (2007-2008), Điều tra về tình hình HTX nông nghiệp năm 2004 và công bố
5
“Dự án tăng cường chức năng HTX nông nghiệp, phân tích hoạt động tiêu thụ
sản phẩm của HTX nông nghiệp điển hình”.
- Chu Thị Hảo (2006), “Tổ hợp tác trong nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam”, NXB nông nghiệp, Hà Nội. Cuốn sách bàn về quá trình phát triển hình
thức tổ hợp tác trong nông nghiệp nước ta từ năm 1958 đến năm 2005.
- PGS, TS Nguyễn Đình Kháng (2009), Chính sách phát triển hợp tác xã ở
Việt Nam, đăng trên Tạp chí kinh tế và dự báo. Phân tích và đánh giá những nét cơ
bản trong chính sách phát triển HTX của Nhà nước ta trong 50 năm qua (1958 –
2008), đề xuất một số giải pháp phát triển của những năm tiếp theo.
- Hồng Vân (2010), Mô hình kinh tế hợp tác xã của một số nước châu Á,
Tạp chí Công nghiệp. Khái quát các mô hình kinh tế HTX ở một số nước: Ấn Độ,
Nhật Bản, Thái Lan và Malaixia mà Việt Nam có thể tham khảo để phát triển các
loại hình HTX kiểu mới hiện nay.
Ngoài ra, trên các phương tiện thông tin trong nước còn công bố một số bài
viết về HTX ở một số tỉnh (Quảng Nam, Bình Định, Quảng Trị, Thanh Hóa…)
như kinh nghiệm thành công trong phát triển, mô hình phát triển, giải pháp hay
“cú hích” cho phát triển HTX, sự liên kết 4 nhà trong phát triển HTX, vai trò của
Nhà nước trong phát triển kinh tế HTX v.v… Trong đó, có các bài như: Báo cáo
tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị TW5 (khóa IX) về tiếp tục đổi mới,
phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (10/12/2007) của Ban chỉ đạo tổng
kết thực hiện Nghị quyết TW5 về kinh tế tập thể số 1027-BC/BCĐTK (2007). Bỏ
quên nông dân, không thể công nghiệp hóa, hiện đại hóa vững chắc của GS, VS
Đào Thế Tuấn và TS Đào Thế Anh đăng tải trên , 17/7/2008

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nên trên đã khẳng định sự cần thiết
phát triển kinh tế HTX, nêu các mô hình và kinh nghiệm của một số nước, địa
phương về phát triển kinh tế HTX, vai trò của Nhà nước trong phát triển hình thức
kinh tế này. Đây là những tài liệu tham khảo rất bổ ích để nghiên cứu khảo sát
thực trạng và tìm giải pháp thúc đẩy kinh tế HTX ở tỉnh Quảng Ngãi mà nhóm
nghiên cứu rất coi trọng.
6
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào tiến hành nghiên
cứu khảo sát thực tiễn một cách hệ thống để hoàn thiện chính sách phát triển kinh
tế HTX trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ khi đổi mới, nhất là trong 5 năm trở lại
đây. Đề tài mà nhóm nghiên cứu lựa chọn nghiên cứu là mới, không trùng lặp với
một công trình khoa học nào đã được công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng hoạt động của các loại hình HTX trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX trên địa bàn
tỉnh Quảng Ngãi.
- Đề xuất mô hình HTX hoạt động có hiệu quả trong giai đoạn tới.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở hình thành, vai trò của kinh tế HTX và các nhân tố ảnh
hưởng tới quá trình đổi mới và phát triển HTX ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển kinh tế HTX ở các tỉnh trong nước làm
tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và đề xuất giải pháp phát triển kinh tế HTX
tỉnh Quảng Ngãi.
- Phân tích, đánh giá thực trạng HTX của tỉnh Quảng Ngãi (trong đó đi sâu
nghiên cứu một số HTX điển hình và một số HTX dịch vụ ở khu kinh tế Dung
Quất), đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững các HTX ở tỉnh
Quảng Ngãi trong thời gian đến.
4. Nội dung nghiên cứu

- Cơ sở lý luận và thực tiễn về vị trí, vai trò của HTX: làm rõ vị trí, vai trò
và bản chất của HTX trong giai đoạn hiện nay; phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến sự phát triển HTX.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của các loại hình HTX trên địa bàn tỉnh
hiện nay và những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các loại hình HTX.
7
- Đề xuất mô hình HTX hoạt động hiệu quả.
5. Cách tiếp cận, phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cách tiếp cận:
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài luôn chú trọng đến góc độ tiếp cận thông
tin đánh giá vấn đề độc lập, bằng phương pháp điều tra xã hội học, thu thập ý kiến
đánh giá của cộng đồng và chính bản thân HTX về tình hình phát triển và hiệu quả
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các HTX trên địa bàn; cách tiếp cận kinh
nghiệm tổ chức sản xuất, kinh doanh của HTX ở một số tỉnh trong khu vực; cách
tiếp cận thông tin tài liệu thứ cấp qua các văn bản pháp quy của tỉnh, Trung ương;
tổ chức phản biện và những hội thảo chuyên đề nghe ý kiến đầy đủ toàn diện
nhằm đáp ứng yêu cầu khoa học của vấn đề nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học kinh tế
(phương pháp trừu tượng hóa, logic kết hợp với lịch sử …) và khảo sát thực tế,
thống kê, xã hội học, phân tích - tổng hợp, so sánh đối chiếu, qui nạp và diễn giải,
khái quát hóa vấn đề, phương pháp chuyên gia, phương pháp làm việc nhóm để rút
ra kết luận.
Phương pháp điều tra và tổ chức điều tra (khảo sát 250/274 HTX và phỏng
vấn sâu đối với 380 cán bộ HTX; phỏng vấn trực tiếp 180 cán bộ lãnh đạo xã – Bí
thư Đảng ủy, CT UBND, CT UBMTTQVN xã về vai trò lãnh chỉ đạo, sự quan tâm
của địa phương đối với việc phát triển HTX trên địa bàn; điều tra xã hội học và
phỏng vấn trực tiếp 390 xã viên HTX); tổng hợp kết quả điều tra khảo sát thực
trạng phát triển HTX của tỉnh Quảng Ngãi.

6. Ý nghĩa của đề tài
6.1. Ý nghĩa khoa học.
Đề tài góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về quan điểm, đường
lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển
HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn.
8
Kết quả nghiên cứu của đề tài là luận cứ khoa học phục vụ cho sự lãnh đạo,
chỉ đạo, điều hành quản lý của tỉnh và việc thực thực hiện chủ trương về đổi mới,
nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững HTX của Đảng và Nhà nước.
Đề tài góp phần làm thay đổi nhận thức của cán bộ, đảng viên, các tổ chức
chính trị xã hội và nhân dân về HTX kiểu mới trên địa bàn toàn tỉnh. Đây là một
trong những giải pháp quan trọng nhất cho phong trào HTX phát triển và hoạt
động có hiệu quả trong giai đoạn xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Đề tài làm cơ sơ lý luận và thực tiễn cho các HTX trong tỉnh tham khảo để
đưa ra những giải pháp phát triển HTX của mình trong thời gian tới. Đồng thời
giúp cho cấp ủy Đảng, Chính quyền các cấp có luận cứ khoa học trong việc xây
dựng Chính sách, Chương trình đào tạo và bồi dưỡng cán bộ HTX ở tỉnh Quảng
Ngãi đến năm 2020.
7. Kết cấu báo cáo
Ngoài phần đặt vấn đề, nội dung và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phục lục, đề tài có 3 chương và 8 tiết.

NỘI DUNG
9
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
MÔ HÌNH HỢP TÁC XÃ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
I. PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ HIỆN NAY Ở NƯỚC TA LÀ TẤT
YẾU KHÁCH QUAN VÀ CẦN THIẾT

1. Hợp tác xã và bản chất của nó
1.1. Khái niệm về hợp tác xã
HTX là một hình thức tổ chức kinh tế được ra đời rất sớm ở các nước. Tiền
thân là các HTX ở nước Anh được thành lập vào năm 1761 do những người thợ
dệt vải rủ nhau lập ra với tên gọi: “Hội làm vải cho tốt và bán giá trung bình trong
làng xóm”. Năm 1769, tại làng Feujun ở Bắc Scotland, 12 thợ dệt đã hùn vốn tổ
chức một HTX tiêu dùng đầu tiên buôn bán bột lúa mạch. Sau đó, hàng trăm HTX
tiêu dùng được ra đời. Những HTX này thành lập trên cơ sở cổ phần của các thành
viên thợ thủ công, công nhân và các công chức cấp thấp. Họ thành lập HTX một
cách tự nguyện nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng trong tổ chức mình trước
nạn tăng giá, làm hàng giả của bọn tư sản thương mại. Trong thời gian này, các
HTX được thành lập và đi vào hoạt động trên cơ sở ý thức tự nguyện của người
dân, chưa có pháp luật, chưa có điều lệ HTX để ràng buộc các thành viên. Đến
giữa thế kỷ XIX, vào năm 1844, vẫn ở nước Anh, 28 thợ dệt trong làng Rochdale
tiến hành thành lập HTX tiêu dùng gọi là “Hội của những người khởi đầu về sự
công bằng ở Rochdale”. Những người này đã đưa ra các nguyên tắc và điều lệ cơ
bản cho hoạt động của HTX, gọi là “những nguyên tắc Rochdale”. Về sau, Liên
minh các HTX quốc tế (International Coopative Alliance – ICA) được thành lập
vào ngày 19/8/1895 tại London với sự tham gia của 82 nước, gần 700 triệu xã
viên, đã đưa vào phê chuẩn và sử dụng những nguyên tắc Rochdale cho hoạt động
của mình tới ngày nay.
Trong thời kỳ này, ở Đức cũng thành lập một loại hình kinh tế hợp tác gọi
là “Hiệp hội nguyên liệu của những người thợ mộc và thợ giày ở Delitzach”. Liên
tục trong thời gian đó, ở Pháp, Thụy Điển, Italia v.v…, nhiều HTX thuộc các lĩnh
10
vực kinh tế khác nhau được hình thành như: HTX chế biến nông sản thực phẩm do
nông dân Thụy Điển và Pháp thành lập; HTX kinh doanh điện, điện thoại; HTX
tín dụng; HTX xây dựng nhà được thành lập bởi những người lao động ở Đức…Ở
nước Nga, các HTX cũng được phát triển rất mạnh kể từ cuối thế kỷ XIX.
Tại châu Á, các HTX được hình thành và phát triển kể từ cuối thế kỷ XIX,

đầu thế kỷ XX. Năm 1900, Luật HTX được ban hành ở Nhật Bản; năm 1904, Luật
này được ban hành ở Ấn Độ thuộc Anh, đến nay những nội dung cơ bản của Luật
này vẫn được sử dụng trong Luật HTX Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh và Mianma.
Năm 1915, Luật HTX cũng được ban hành ở Thái Lan nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho sự ra đời và phát triển các HTX. Có thể nói đến nay, hình thức HTX đã trở
thành rất phổ biến trong các nền kinh tế kể cả các nền kinh tế phát triển và đang
phát triển.
Tuy hình thức tổ chức và tên gọi không giống nhau, nhưng mục đích hoạt
động của các tổ chức trên đều hướng vào giúp đỡ lẫn nhau, bỏ thói cạnh tranh, làm
sao cho ai trồng được cây thì được ăn trái, ai muốn ăn trái thì phải trồng cây.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến phong trào hợp tác
hóa. Người đã có những bài phát biểu và tham luận về HTX. Người nhắc đến câu
tục ngữ Việt Nam: “Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó” và “Một cây làm
chẳng nên non, nhiều cây hợp lại thành hòn núi cao” và khẳng định lý luận HTX
đều ở những điều ấy. Nếu chúng ta đứng riêng ra, thì sức nhỏ mà làm không nên
việc. Thí dụ, mỗi người mang một cái cột, một tấm tranh ở riêng mỗi người một
nơi thì lều chẳng ra lều, nhà chẳng ra nhà. Nhóm những cột ấy, tranh ấy, sức ấy
làm ra một cái nhà rộng rãi, thế rồi anh em ở chung với nhau, ấy là hợp tác. Người
ví dụ, mười người muốn ăn cơm, mỗi người ăn riêng một nồi, riêng một bếp, nấu
rồi ăn riêng, ăn rồi ai nấy dọn dẹp riêng của người ấy, thế thì mất bao nhiêu củi,
nước, công phu và thì giờ. HTX là “góp gạo thổi cơm chung” cho khỏi hao của,
tốn công mà lại có nhiều phần vui vẻ.
Ở nước ta, đến đầu những năm 60, miền Bắc đã có trên 40.400 HTX theo
quy mô thôn, xóm, thu hút 85,8% số hộ nông dân và 68,1% diện tích đất canh tác.
11
Mục tiêu cao cả của HTX lúc bấy giờ là huy động sức người, sức của cho giải
phóng dân tộc thống nhất Tổ quốc. Sau ngày giải phóng miền Nam (năm 1975),
phong trào hợp tác hóa được lan rộng ra phạm vi cả nước dưới hình thức tập đoàn
sản xuất, HTX trong các ngành, lĩnh vực kinh tế
1

. Tuy nhiên, HTX thời kỳ này
được thành lập và hoạt động theo mô hình kiểu cũ.
Từ năm 1986, nước ta bước vào công cuộc đổi mới. Trong thời gian này,
những nhận thức mới về HTX dần dần được hình thành làm cơ sở cho đổi mới
phương thức thành lập và hoạt động của các loại hình kinh tế HTX. Đại hội IX của
Đảng (năm 2001) khẳng định mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì
quá độ lên CNXH là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;
kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc
của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của các thành viên và sở
hữu tập thể, liên kết rộng rãi người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, với kinh tế nhà nước và các thành phần kinh tế khác,
không giới hạn về qui mô, lĩnh vực và địa bàn hoạt động.
Trước đổi mới, kinh tế HTX hoạt động theo Điều lệ HTX bậc thấp ban hành
tháng 12/1954, sau đó hoạt động theo Điều lệ HTX bậc cao ban hành tháng
4/1969. Mặc dù trước và sau khi đổi mới kinh tế HTX, mô hình mà nước ta chủ
trương xây dựng đều có đặc điểm chung là do những người lao động tự nguyện
liên kết với nhau, đều dựa trên sở hữu tập thể của những người lao động và là hình
thức thấp của kinh tế XHCN, nhưng xét về bản chất giữa chúng vẫn có những sự
khác biệt, đó là:
1) Về sở hữu, nếu trong mô hình cũ toàn bộ tài sản trong HTX thuộc sở hữu
tập thể, xã viên không có sở hữu, thì trong mô hình mới ngoài phần sở hữu tập
thể, một bộ phận tài sản trong HTX còn thuộc sở hữu của xã viên với tư cách là
cổ đông của HTX, phần khác là của Nhà nước và các thành phần kinh tế khác do
tác động của cơ chế thị trường và sự phát triển các hình thức liên kết kinh tế.
Chẳng hạn, đất đai mà các HTX sử dụng là tài sản của Nhà nước giao cho HTX
12
(1) Đổi mới tổ chức và quản lý các HTX trong nông nghiệp, nông thôn; Nxb nông nghiệp, Hà Nội (1999), tr 52
để phát triển sản xuất, kinh doanh; phần vốn trong HTX có thể vay từ ngân hàng
và huy động từ các tổ chức và cá nhân khác. Quan hệ kinh tế trong mô hình cũ là

tập thể hóa, còn trong mô hình mới là hợp tác hóa chứ không phải tập thể hóa
như trước.
2) Về tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, trong mô hình cũ HTX được
tổ chức thống nhất trên phạm vi cả nước theo cùng một quy mô, theo ngành nghề
và theo địa giới hành chính (ví dụ HTX nông nghiệp, HTX đúc, HTX mua bán,
HTX tín dụng…); còn trong mô hình mới, kinh tế tập thế có thể được tổ chức theo
nhiều quy mô, nhiều trình độ (tổ, nhóm, HTX…), có thể ở ngay trong một khâu
của quá trình sản xuất, kinh doanh, còn khâu khác vẫn tồn tại kinh tế cá thể; việc
tổ chức kinh tế tập thể cũng không nhất thiết phải theo địa giới hành chính hoặc
theo quy mô thôn, xã như trước, có thể kinh doanh tổng hợp, đa ngành hoặc
chuyên ngành trong đó HTX là nòng cốt. Trong mô hình cũ, chủ nhiệm HTX là
người thừa hành các nhiệm vụ do Ban quản trị HTX đề ra theo nguyên tắc tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách, quyền quyết đoán của người đứng đầu bị xem nhẹ;
còn trong mô hình mới quản lý HTX theo nguyên tắc chỉ huy: Trưởng ban quản trị
có toàn quyền quyết định hoạt động của HTX, chịu trách nhiệm trước xã viên về
quyết định của mình, do vậy, tính quyết đoán của người đứng đầu được coi trọng.
3) Về quan hệ phân phối, trong mô hình cũ phân phối theo sản phẩm làm ra
và theo nguyên tắc bình quân theo định suất, không có phân phối theo tài sản và
vốn; còn trong mô hình mới ngoài nguyên tắc phân phối thu nhập trả công bằng
tiền lương, trong HTX còn phát triển hình thức phân phối theo vốn (theo lợi tức
vốn góp) và qua mức độ tham gia dịch vụ.
Trong mô hình mới, mục tiêu HTX là phối hợp và liên kết giữa những
người lao động cá thể nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn so với không hợp
tác. Hiệu quả mong muốn quyết định nội dung hợp tác. Hiệu quả mong muốn càng
nhiều thì nội dung và động cơ hợp tác càng lớn. Thực chất sự ra đời của HTX là
tạo cơ hội để những người lao động tìm kiếm cơ may làm giàu tốt hơn so với
khi họ chỉ đơn thuần làm kinh tế cá thể. Đây chính là điều kiện quan trọng để
13
HTX ra đời và phát triển. Điều này có nghĩa là nếu việc xây dựng và tổ chức hoạt
động của kinh tế HTX mà không tạo ra được hiệu quả kinh tế cao hơn kinh tế cá

thể thì HTX không có điều kiện để tiếp tục tồn tại và phát triển, không thể có sự
phát triển bền vững.
Trong mô hình mới, tổ chức kinh tế HTX không chỉ bó hẹp trong khuôn
khổ các thành viên là hộ gia đình, người lao động mà còn có thể có các thể nhân
khác. Với cách thức tổ chức và phát triển như vậy, HTX thực sự trở thành một
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh liên kết với các mô hình sản xuất, kinh
doanh khác nhau trong nền kinh tế thị trường. Theo quan điểm của Đảng, kinh tế
tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng cho sự phát triển
của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Bảng 1.1: So sánh HTX trước đổi mới và HTX kiểu mới
HTX trước đổi mới HTX kiểu mới
Cách thức
thành lập
Áp đặt, “Từ trên xuống” Tự nguyện, “Từ dưới lên”
Cơ chế hoạt
động của
HTX
HTX hoạt động theo cơ chế mệnh
lệnh, hành chính, tập trung bao
cấp. Các quan hệ giải quyết đầu
vào, đầu ra trong hoạt động kinh tế
của HTX chủ yếu thông qua các tổ
chức kinh tế nhà nước (công ty vật
tư nông nghiệp, công ty lương
thực, công ty giống…) tức là được
độc quyền hoá và hành chính hoá.
Môi trường hoạt động đã khác hẳn, quan
hệ hành chính, độc quyền được thay bằng
quan hệ kinh tế đa phương, tự nguyện.
HTX phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự

bù đắp, bảo toàn và phát triển vốn, phải
hoạt động trong môi trường cạnh tranh
của nền kinh tế nhiều thành phần, giao lưu
kinh tế, từng bước phát triển trên cơ sở
luật pháp của Nhà nước.
Thành viên
tham gia
Thể nhân Thể nhân, pháp nhân
Sở hữu
Sở hữu tập thể trên cơ sở tập thể
hoá tư liệu sản xuất.
Sở hữu chung trên cơ sở góp vốn, đan xen
giữa sở hữu tập thể và sở hữu cá thể của
xã viên.
Tổ chức bộ
máy quản lý
HTX
Chức năng quản lý và điều hành
trong HTX được lồng ghép. Bộ
máy quản lý của HTX bao gồm:
Ban quản trị, Ban kiểm soát,
Trưởng ban quản trị kiêm chủ
nhiệm HTX. Công tác cán bộ HTX
được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp
của Đảng uỷ và chính quyền địa
phương, các chức danh chủ chốt
của HTX do Đảng uỷ chỉ định và
người trong nội bộ HTX nắm giữ.
Chức năng quản lý và điều hành được tách
biệt, rõ ràng. Bộ máy quản lý của HTX

bao gồm Ban quản trị, Ban kiểm soát, Ban
chủ nhiệm. Chủ nhiệm HTX có thể do
Trưởng ban quản trị kiêm nhiệm hoặc là
người do HTX thuê. HTX được quyền tự
chủ trong công tác cán bộ của mình, các
chức danh chủ chốt không nhất thiết phải
do đảng viên hay người trong nội bộ HTX
nắm giữ.
Phân phối
Bình quân, bao cấp Theo vốn, lao động và mức độ sử dụng
dịch vụ của HTX.
14
Nội dung hoạt
động
Trực tiếp tổ chức sản xuất, lao
động tập trung, thủ tiêu sự độc lập
của kinh tế hộ.
Nội dung hoạt động đa dạng có thể làm
dịch vụ, hoặc vừa làm dịch vụ vừa sản
xuất kinh doanh đa ngành nghề, song đều
hướng vào hỗ trợ kinh tế xã viên phát
triển.
Phạm vi hoạt
động
Theo địa giới hành chính Không bị giới hạn bởi địa giới hành chính
Thực hiện các
nguyên tắc
HTX
Các nguyên tắc HTX bị vi phạm Các nguyên tắc HTX được thực hiện và
giá trị HTX được phát huy.

Như vậy, trên thế giới, HTX xuất hiện trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa và
đầu tiên là ở nước Anh vào giữa thế kỉ XVIII. Để có thể tồn tại và phát triển trong
nền kinh tế tự do cạnh tranh, những người sản xuất nhỏ cần phải hợp tác, hợp vốn
với nhau theo tôn chỉ mục đích chung để nương tựa nhau chống lại sự chèn ép,
bóc lột và bần cùng hoá của các nhà tư bản lớn. Quá trình đó đã cho ra đời và hình
thành các hình thức liên kết, hợp tác tổ chức của những người lao động với
nguyên tắc: dân chủ, bình đẳng và cùng có lợi nên có nhiều đóng góp vào phúc lợi
của dân chúng trong nhiều nước. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của HTX là một
tất yếu cả về phương diện kinh tế và lịch sử.
Liên minh HTX quốc tế (ICA) ra đời đến nay hơn 100 năm, đã xây dựng và
đưa ra định nghĩa và các nguyên tắc HTX để làm cơ sở cho hoạt động của HTX,
các giá trị cơ bản và các nguyên tắc đã sửa đổi của HTX nhằm hướng dẫn hoạt
động của tổ chức HTX trong giai đoạn đầu của thế kỷ XX. Theo đó, HTX là một
hiệp hội tự chủ của những người tự nguyện liên kết với nhau để đáp ứng những
nguyện vọng và nhu cầu chung về kinh tế, xã hội, văn hoá của họ, hoạt động
thông qua một số tổ chức sở hữu chung, được quản lí và kiểm soát dân chủ bởi
các thành viên và: HTX trên ý nghĩa tự giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng,
công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập HTX, các xã
viên HTX xã tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách
nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác. Thực tế lịch sử phát triển của
HTX 200 năm qua cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, trong bất kỳ thể chế chính trị,
hoàn cảnh xã hội nào, ngay cả trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, HTX cũng
là công cụ hữu hiệu để người dân, đặc biệt là người thiếu vốn, thiếu năng lực sản
15
xuất, những nhóm yếu thế trong xã hội liên kết, hỗ trợ lẫn nhau phát huy các
nguồn lực, nâng cao khả năng cạnh tranh nhằm phát triển kinh tế, thực hiện các
nhu cầu văn hoá, xã hội và phát triển cộng đồng. Theo thống kê, hiện nay HTX đã
và đang phát triển ở hơn 100 quốc gia và thu hút gần 1 tỷ thành viên, tạo ra hàng
trăm triệu việc làm và đảm bảo cuộc sống cho 3 tỉ người, bằng 1/2 dân số thế
giới. HTX đóng vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế-chính trị-xã

hội của nhiều quốc gia, ngay cả các nước tư bản phát triển như Mỹ, Anh, Pháp,
Nhật, Thụy Điển… HTX tạo công ăn, việc làm cho phụ nữ và nam giới nhiều hơn
các công ty đa quốc gia- một trong những đại diện và những đối tượng chính
hưởng thụ lợi ích từ toàn cầu hoá. Mặc dù, HTX tập trung vào việc phục vụ và đáp
ứng các nhu cầu của thành viên nhưng HTX cũng gắn kết và hợp tác trên qui mô
toàn cầu. HTX chia sẻ những giá trị và nguyên tắc đã được cộng đồng quốc tế
thừa nhận. Bởi tính dân chủ và sự kết hợp riêng có giữa các mục tiêu kinh tế- xã hội,
HTX đóng vai trò quan trọng trong việc làm cho quá trình toàn cầu hoá trở nên bình
đẳng hơn- đó là điều mà HTX đã và đang làm cho các thế hệ tiếp theo.
2
Tại phiên họp gần đây nhất về HTX của Liên hiệp quốc vào năm 2005, Tổng
thư ký Liên hiệp quốc đã có báo cáo tổng hợp về trò của HTX trong giảm nghèo
thông qua đóng góp vào việc tạo thu nhập và việc làm, góp phần vào việc gắn kết
và hoà nhập xã hội. Báo cáo đã nêu bật những đóng góp trực tiếp của HTX trong
xóa nghèo thông qua việc đem lại những tiến bộ kinh tế - xã hội cho xã viên và
người lao động trong HTX, cũng như những đóng góp gián tiếp thông qua việc thúc
đẩy kinh tế địa phương và nâng cao tính cấu kết xã hội của cộng đồng nơi mà HTX
hoạt động. Trên cơ sở tổng kết thực tế minh chứng từ các quốc gia thành viên, Tổng
thư ký Liên hiệp quốc đã khuyến nghị đối với các Chính phủ, các tổ chức quốc tế
rằng: Cần tăngcường sự tham gia của các HTX, các tổ chức đại diện của HTX vào
công cuộc xóa nghèo đói; tăng cường thu nhập và phổ biến các thông tin về vai trò
của HTX trong xoá nghèo đói và đóng góp của HTX trong sự phát triển kinh tế - xã
hội; xem xét, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật nhằm thúc đẩy sự tăng
trưởng và bền vững của HTX, nhằm giúp HTX có thể tiếp cận và gần gũi với một
16
(2) Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tài liệu Hội thảo khoa học cấp quốc gia (9/2007), tr 501
bộ phận lớn người nghèo, đặc biệt là những người sống ở khu vực nông nghiệp,
nông thôn; xây dựng và hỗ trợ các chương trình giúp tăng cường khả năng tiếp cận
của HTX với công nghệ, tăng cường năng lực của HTX thông qua việc nâng cao kỹ
năng tổ chức, quản lý và tài chính của xã viên HTX; tạo lập môi trường kinh tế,

chính trị, xã hội nhằm bảo đảm và bảo vệ tính tự chủ và các nguyên tắc của HTX…
Đối với nước ta, trong quá trình cải tạo XHCN, phát triển kinh tế HTX là vấn
đề hết sức to lớn và quan trọng đã được khẳng định trong nhiều nghị quyết của
Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước. Thời kì 1958- 1980 kinh tế hợp tác với
HTX phát triển mạnh trong phạm vi cả nước và đã có nhiều đóng góp to lớn trong
xây dựng nông thôn, phát triển cộng đồng, đặc biệt trong công cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước và bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc. Tuy nhiên, một
thời gian dài do nhận thức chủ quan nóng vội, bất chấp các quy luật kinh tế, chúng
ta đã đồng nhất cải tạo HTX với tập thể hoá, đã xây dựng các HTX không hoàn
toàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện mà thực hiện bằng các biện pháp hành chính,
xem nhẹ các biện pháp kinh tế, coi thường các bước quá độ trung gian trong cải
tạo XHCN. Do vậy, đã tạo nên nhiều bước thăng trầm trong lịch sử phát triển
HTX mà hậu quả của nó là hàng loạt HTX bị đổ vỡ khi đất nước bước vào công
cuộc đổi mới kể từ năm 1986. Song, từ nhu cầu thực tế và quá trình thực hiện Chỉ
thị 100 của BBT(1981), Nghị quyết 10 của BCT (1988) và các giải pháp hữu hiệu
của Chính phủ đề ra để vực dậy khu kinh tế tập thể đã nảy sinh nhiều hình thức
kinh tế hợp tác, liên kết sản xuất nhưng chưa được định hình về mặt tổ chức. Ở
các địa phương, một số HTX đã tìm tòi thử nghiệm các giải pháp thiết thực để
củng cố và chuyển đổi hình thức tổ chức quản lí nhằm thích ứng với cơ chế mới.
Tổng kết 10 năm đổi mới đất nước, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ VIII (1996) đã đề ra nhiệm vụ phải xây dựng HTX kiểu mới, HTX cổ phần.
Tháng 3/1996, Quốc hội khóa IX đã ban hành Luật HTX với những nội dung về tổ
chức quản lí, về phương thức hoạt động của HTX kiểu mới. Luật HTX năm 1996
đã định nghĩa về HTX như sau: HTX là tổ chức kinh tế tự chủ, do những người
lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo
17
qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên
nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
Nhằm cụ thể hoá tư tưởng của Đại hội IX, Hội nghị lần thứ năm của Ban

chấp hành Trung ương khoá IX đã ra nghị quyết “Tiếp tục đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Đây là cơ sở để Quốc hội khoá X thông qua
Luật HTX sửa đổi năm 2003. Theo Luật HTX năm 2003, HTX được định nghĩa :
“HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây
gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra
theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham
gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất,
kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước; HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách
pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi
vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật”.
1.2. Bản chất, nguyên tắc và giá trị của HTX.
Nhận thức đúng về bản chất HTX là vấn đề đặc biệt quan trọng trong phát
triển HTX ở nước ta hiện nay. Thực tiễn phát triển HTX ở Việt Nam trong thời
gian qua nổi lên một hiện tượng khá phổ biến là: nhận thức của nhiều người về
bản chất HTX chưa rõ và lệch lạc, họ cho rằng HTX là do một số cá nhân góp vốn
như doanh nghiệp và kinh doanh theo Luật doanh nghiệp kết hợp với một số
nguyên tắc HTX (tham gia tự nguyện, quản lý dân chủ…) và không ít người còn
quan niệm HTX kiểu mới chẳng khác gì nhiều so với HTX kiểu cũ. Đây là những
nhận thức sai lầm về bản chất của HTX, từ đó làm cho HTX phát triển thiếu bền
vững và không thể hiện được bản chất tốt đẹp của nó trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Qua việc sơ lược về nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển của HTX
trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, có thể nhận thấy bản chất của HTX
nằm gọn trong ba chữ “hợp tác xã”. Trong đó, chia làm hai thành tố có quan hệ
18
biện chứng với nhau: “hợp tác” và “xã”-chữ “xã” trong “xã hội” (hoạt động không
chỉ vì mục tiêu lợi nhuận mà còn phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội đối với xã
viên và cộng đồng; khi đánh giá HTX là toàn diện về kinh tế, xã hội, văn hóa).
Đây là sự khác biệt cơ bản giữa HTX với doanh nghiệp.

Trước hết, về bản chất của “hợp tác” trong HTX.
Hợp tác theo cách hiểu thông thường chỉ đơn giản là “cùng làm việc với
nhau”, là sự liên kết, phối hợp nhằm đạt được mục tiêu chung, hoặc riêng. Còn
“hợp tác” trong HTX là liên kết lại với nhau, đoàn kết lại với nhau, tương trợ lẫn
nhau, giúp đỡ lẫn nhau, đùm bọc lẫn nhau, tương thân tương ái, tạo điều kiện phát
triển lẫn nhau nhằm tổng hợp các sức mạnh đơn lẻ thành một sức mạnh lớn hơn
nhằm đạt mục tiêu chung.
Vậy, sự khác nhau thể hiện bản chất tốt đẹp, tính nhân văn của “hợp tác”
trong HTX so với hợp tác thông thường và cũng là một yếu tố thể hiện tính “xã”
trong HTX, là: trong khi hợp tác thông thường chỉ đơn giản là “cùng làm việc với
nhau”, trong hợp tác có thể mang cả sự lợi dụng lẫn nhau cho mục đích riêng, sai
lầm, thiếu sót của chủ thể này là điểm, là cơ hội cho chủ thể kia lợi dụng, hợp tác
theo kiểu “không có bằng hữu vĩnh hằng, cũng không có kẻ thù vĩnh hằng, chỉ có
lợi ích là vĩnh hằng”, là liên kết nhưng chưa hẳn đã đoàn kết, thống nhất. Hợp tác
trong HTX không chỉ “cùng làm việc với nhau” một cách đơn thuần, không chỉ là
liên kết đơn thuần, mà là cùng làm việc, là liên kết với tinh thần đoàn kết, thống
nhất, tương trợ, giúp đỡ, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, tương thân tương ái, bổ
khuyết cho nhau, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng hướng đến mục tiêu chung. Hợp
tác trong HTX mang trong mình giá trị từ nguồn gốc hình thành, đó là tình hữu ái
giữa những người vô sản, mà nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trên đời này chỉ
tồn tại một tình hữu ái là có thực mà thôi, đó là tình hữu ái vô sản”.
Như vậy, trong xu thế hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế khu vực
và thế giới thì nhu cầu hợp tác giữa các chủ thể kinh tế là tất yếu và cần thiết. Vì
không hợp tác với nhau thì sức nhỏ sẽ không làm nên việc, không hợp tác sẽ
không phát huy hết được tiềm năng vốn có, sẽ không tăng lên được nguồn lực theo
19
một cấp số nhân, không hợp tác sẽ không thể khắc phục được những khiếm
khuyết, thiếu sót và sai lầm, từ đó dẫn đến thiệt hại, thất bại.
Với Việt Nam hiện nay, hợp tác trong HTX là sự hợp tác chủ yếu của
những chủ thể kinh tế (cá nhân, hộ gia đình) – là những chủ thể mà đời sống còn

gặp nhiều khó khăn, ở vị trí yếu thế, thiếu vốn, thiếu khoa học kỹ thuật, thiếu
thông tin thị trường, thiếu kinh nghiệm quản lý, hợp tác với nhau để khắc phục
mặt hạn chế, cùng nhau xây dựng để thoát nghèo, cải thiện cuộc sống, để vươn lên
làm giàu, xóa bỏ mặt cảm, tự ti. Đây mới chính là những chủ thể mang bản chất
của HTX.
Hai là, mục đích hợp tác trong HTX đã thể hiện rõ nhất tính “xã” của
HTX.
Đứng trên quan điểm của Luật Hợp tác xã năm 2003, bước đầu ta có thể nhận
thấy: bản chất của HTX là những thành viên HTX vừa là đồng sở hữu, vừa là
khách hàng sử dụng sản phẩm, dịch vụ của HTX; hoặc vừa là đồng sở hữu vừa là
người lao động trong HTX; đồng thời, tổ chức của HTX là một tổ chức kinh tế và
xã hội đi liền với nhau, bản thân HTX là một tổ chức mang tính xã hội hoặc một
hiệp hội hợp tác. Còn doanh nghiệp thuộc HTX là tạo ra sản phẩm, dịch vụ chung
cung cấp cho tất cả xã viên HTX và thị trường bên ngoài HTX.
Mục đích của HTX không chỉ đem lại những lợi ích cho xã viên mà còn đảm
bảo an sinh xã hội như: xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, từ đó góp phần
giảm bất bình đẳng trong xã hội; khắc phục ô nhiễm môi trường; giúp đỡ một cách
thành tâm những người nghèo khổ, yếu thế. Tóm lại, là khắc phục mặt tiêu cực
của nền kinh tế thị trường và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân
tộc.
Ba là, về đối tượng hợp tác trong HTX.
Hợp tác về vốn, vốn có thể là tiền mặt, quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí
tuệ hay các tài sản có giá trị khác. Vốn góp trong HTX có thể linh động về hình
thức, mức góp và thời hạn góp.
20
Hợp tác về lao động, tức là góp sức, đây chính là sự khác nhau giữa HTX so
với doanh nghiệp và cũng một phần thể hiện tính “xã” của HTX. Những chủ thể
vào HTX phần đông là ít vốn, hợp tác trong HTX chú trọng sự hợp tác về lao
động. Vào HTX phần đông xã viên là dựa trên cơ sở những đối tượng hợp tác
khác để tận dụng sức lao động của chính mình làm giàu cho chính mình. HTX có

thể thuê, mướn lao động. Tuy nhiên, lao động của xã viên trong HTX là ưu tiên và
chủ yếu.
Hợp tác về khoa học kỹ thuật, sự thiếu thốn về khoa học kỹ thuật là một
trong những lý do để hợp tác. Trong HTX, với nguồn vốn được huy động, sẽ là cơ
sở để đầu tư mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất, Xã viên có
thể thay nhau sử dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật này thông qua việc thuê
của HTX hoặc cũng có thể được HTX cung cấp miễn phí.
Hợp tác về kinh nghiệm: mỗi xã viên đều mang trong mình những kinh
nghiệm riêng trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Thông qua HTX, các xã viên
có thể trao đổi kinh nghiệm cho nhau, bổ khuyết cho nhau, từ đó mà hoàn thiện
những tri thức kinh nghiệm, bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp và mang tầm thời
đại.
Hợp tác về thông tin thị trường: HTX bằng tổ chức quản lý của chính mình,
cũng như tận dụng tính đa dạng của xã viên để kịp thời nắm bắt thông tin thị
trường, cung cấp kịp thời cho xã viên, đảm bảo tính phù hợp cho vấn đề đầu ra sản
phẩm.
Hợp tác về giá cả, về thị trường: Nếu đứng riêng lẻ, mỗi xã viên có thể phải
cạnh tranh với nhau về giá cả và có nguy cơ bị “ép” giá. Khi cùng trong HTX, xã
viên sẽ thống nhất về số lượng hàng hóa, dịch vụ, thỏa thuận, thống nhất về giá cả
hàng hóa- dịch vụ, từ đó có thể bán sản phẩm với giá cao. Bên cạnh đó, HTX sẽ
đảm bảo vấn đề đầu ra cho sản phẩm của xã viên khi trực tiếp thu mua hay kí hợp
đồng với các doanh nghiệp, trong đó có cả các hợp đồng về bao tiêu sản phẩm.
Hợp tác về xây dựng thương hiệu: mỗi xã viên đứng riêng lẻ sẽ rất khó
trong vấn đề xây dựng thương hiệu. Vào HTX, với tư cách pháp nhân và quy mô
21
sản xuất lớn cộng với một cơ cấu tổ chức, quản lý có hệ thống, chặt chẽ, HTX sẽ
đứng ra cùng xã viên trong việc xây dựng thương hiệu cho những sản phẩm của
mình.
“Hợp tác” trong HTX dựa trên cơ sở tự nguyện: tự nguyện liên kết, tự nguyện
gia nhập do nhu cầu tự thân; hợp tác trên cơ sở dân chủ: “HTX là nhà, xã viên là

chủ”. HTX phục vụ cho xã viên, là phương tiện để xã viên đạt được những lợi ích
cần thiết; hợp tác trên cơ sở công bằng nhưng không “cào bằng”; hợp tác trên cơ
sở bình đẳng: mọi xã viên đều có quyền ngang nhau trong khả năng hưởng thụ các
chính sách ưu đãi của HTX dành cho xã viên, có quyền ngang nhau trong việc
biểu quyết để quyết định các vấn đề quan trọng của HTX mà không phụ thuộc vào
phần vốn góp, bình đẳng về nghĩa vụ- mọi xã viên đều có nghĩa vụ cống hiến, lao
động vì sự phát triển chung của HTX, không mang tâm lý trông chờ, ỷ lại; hợp tác
trên cơ sở đoàn kết, thống nhất, tương trợ, giúp đỡ, đùm bọc, chia sẻ, tương thân
tương ái, giúp nhau cùng tiến bộ.
Thực tiễn ở Việt Nam trong thời gian gần đây cho thấy HTX chính là nơi mà
những người yếu thế dựa vào nhau để sống, tồn tại và phát triển; là nơi mà những
thiếu sót, sai lầm, hạn chế, những khó khăn được khắc phục, được chia sẻ, được
giúp đỡ, được động viên, được an ủi để hoàn thiện, có niềm tin vào cuộc sống và
vào bản thân và cũng là nơi mà sự hạn chế về tri thức và thể chất, sự nghèo khổ
không bị khinh rẻ.
Qua phân tích như trên, chúng tôi có thể khẳng định rằng: HTX là nơi thể
hiện rõ nét nhất bản chất của chủ nghĩa xã hội trong trong mô hình kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
2. Đặc điểm của mô hình HTX kiểu mới.
HTX kiểu mới đang được xây dựng ở nước ta có những đặc điểm chủ yếu
như sau:
Một là, xét góc độ kinh tế, nó là một tổ chức kinh tế cơ bản và quan trọng
nhất của thành phần kinh tế tập thể, “kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của các xã
viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất
22
kinh doanh, doanh nghiệp nhỏ và vừa, thuộc các thành phần kinh tế, không giới
hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn”. Như vậy, đặc trưng của HTX là hình thức sở
hữu tập thể và dựa trên sở hữu của các xã viên HTX, từ đó mà phát sinh các quan
hệ tổ chức quản lý và phân phối tương ứng.
HTX là một hình thức của quan hệ kinh tế hợp tác tự nguyện, phối hợp, hỗ trợ,

giúp đỡ lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế, kết hợp sức mạnh của tập thể để giải quyết
tốt hơn những vấn đề của sản xuất kinh doanh cũng như đời sống kinh tế và mục tiêu
xa hơn là nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi xã viên.
Hai là, xét góc độ xã hội, mô hình HTX kiểu mới mang tính nhân văn sâu
sắc. Nó thể hiện trong toàn bộ nguyên tắc tổ chức, hoạt động của HTX. Với việc
tạo điều kiện cho những người lao động, những người sản xuất nhỏ chẳng những
trụ vững trong thị trường cạnh tranh mà còn đẩy mạnh sự phát triển, xóa bớt một
số gánh nặng về thất nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống… Ngoài ra, hoạt
động của HTX còn góp phần giáo dục, nâng cao tinh thần tập thể, tính cộng đồng
cho các xã viên. Tuy nhiên, những hoạt động có ý nghĩa như trên sẽ chỉ đạt hiệu
quả khi nó được đặt trên nền tảng hoạt động kinh tế có hiệu quả.
Ba là, xét về góc độ pháp lý, HTX là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp
nhân. Về tổ chức, HTX bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người nhiều vốn và
người ít vốn (thực hiện nguyên tắc đối nhân, khác với nguyên tắc đối vốn trong công
ty cổ phần ), cùng góp vốn góp sức trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và
quản lý dân chủ. HTX là tổ chức kinh tế được thành lập theo thủ tục pháp lý nhất
định, có đăng ký kinh doanh tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ, có tài sản tách biệt so với tài sản của các xã viên, có thẩm quyền nhân danh
mình tham gia các hoạt động pháp luật. Tuy nhiên, HTX có một số đặc trưng khác
với các loại hình doanh nghiệp là: HTX được quyết định không phải bởi số vốn góp
mà là yếu tố xã viên HTX. Ngoài ra, nguyên tắc “xã viên HTX có quyền ngang nhau
trong biểu quyết”
1
là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và giúp đỡ lẫn
nhau trong tổ chức sản xuất, kinh doanh, không thuần tuý để thu lợi nhuận trên vốn
góp. Về hình thức sở hữu tài sản trong HTX gồm hai phần: sở hữu tập thể và sở hữu
mang tính chất cổ phần.
Bốn là, về tổ chức quản lý, các HTX hoạt động theo nguyên tắc tự chủ, tự
23
(1) Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn…Hệ thống hóa các văn bản về HTX…

chịu trách nhiệm. HTX hoạt động lấy lợi ích kinh tế là chính bao gồm lợi ích của
các xã viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội của các xã viên.
Đánh giá hiệu quả kinh tế tập thể dựa trên cơ sở quan điểm toàn diện cả kinh tế,
chính trị, xã hội. Mối quan hệ giữa các xã viên HTX với HTX dựa trên vị trí tương
đối độc lập nhưng lại gắn bó với nhau sâu sắc. HTX luôn tôn trọng quyền độc lập,
tự chủ về kinh tế của xã viên. Sự hình thành và phát triển của HTX không phá vỡ
tính độc lập, tự chủ kinh tế của mỗi xã viên.
Năm là, về phân phối, kinh tế HTX thực hiện phân phối theo lao động, theo
vốn góp và theo mức độ tham gia dịch vụ.
Qua những đặc điểm trên cho thấy HTX kiểu mới có nhiều điểm khác biệt
so với HTX kiểu cũ và các loại hình doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Sự khác
biệt đó không chỉ nói lên bản chất của HTX mà còn khẳng định ưu thế, vị trí, vai
trò của HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đó chính là một
hình thức kinh tế giúp cho xã viên HTX phát huy mọi tiềm năng kinh tế chưa được
khai thác hoặc chưa được khai thác hết .
3. Nhận diện tính vượt trội của mô hình HTX ở Việt Nam hiện nay.
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường và có sự quản lý của Nhà nước. Trong quá trình vận động, cơ chế
thị trường luôn tồn tại tính hai mặt vốn có của nó và tính định hướng XHCN trong
nền kinh tế được bộc lộ rõ nét khi Nhà nước hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường. Trong thời đại toàn cầu hóa, mặt hạn chế của cơ chế thị
trường được giải quyết tốt nhất trong tổ chức kinh tế HTX. Bởi lẽ, HTX có nhiều
ưu thế so với kinh tế hộ và các loại hình doanh nghiệp đang hoạt động trong nền
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay. Vấn đề này được chúng tôi tường
minh như sau:
3.1. Tính vượt trội của HTX so với kinh tế hộ.
Trong nền kinh tế thị trường, kinh tế hộ là một chủ thể kinh tế và hoạt động
mang tính độc lập, được Nhà nước khuyến khích phát triển. Tuy nhiên, khi nền
kinh tế hội nhập, kinh tế hộ đã bộc lộ nhiều hạn chế so với HTX.
24

Một là, về tính tổ chức và quản lý. Theo lý thuyết hệ thống, tổ chức có
chức năng liên kết và hỗ trợ các thành viên để thực hiện một mục tiêu chung; còn
quản lý là quá trình sử dụng tri thức, kỹ thuật và phương pháp chuyên môn để lập
kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và điều khiển hoạt động của tổ chức nhằm thực hiện
mục tiêu một cách hữu hiệu. Quản lý “cũng là sức sản xuất” và nó là yếu tố thứ tư
của sản xuất, tồn tại song song với ba yếu tố khác là ruộng đất, lao động và tiền
vốn. Như vậy, tổ chức và quản lý là một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại,
phát triển và nâng cao năng suất lao động của chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị
trường hội nhập. Trong thực tế, mỗi chủ thể kinh tế luôn có nhu cầu được quản lý
để đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh, với một cơ chế quản lý chuyên
nghiệp và khoa học thì chỉ có ở tổ chức HTX, bởi vì, HTX với tư cách là một pháp
nhân có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và khi phát triển đúng tầm nó có đầy đủ các
phòng, ban thực hiện chức năng chuyên môn như tín dụng nội bộ, chuyển giao
tiến bộ KH-CN, thông tin thị trường… và các doanh nghiệp của HTX nhằm thỏa
mãn tốt nhất mọi nhu cầu của kinh tế xã viên, còn kinh tế hộ không có được cách
thức quản lý vừa nêu.
Hai là, nền kinh tế thị trường luôn yêu cầu một lượng vốn nhất định cho
kinh doanh. Những chủ thể đứng riêng lẻ và không có tư cách pháp nhân sẽ rất
khó khăn trong vấn đề huy động vốn. Với một số vốn hạn chế, những chủ thể này
khó có điều kiện ứng dụng các tiến bộ khoa học-công nghệ trong tổ chức và quản
lý sản xuất kinh doanh, do đó, họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng sản
xuất, tiếp cận khách hàng để có thông tin đầy đủ về thị trường, hay trong việc
nâng cao trình độ cho bản thân, hay trong việc thụ hưởng các ưu đãi từ các chính
sách của Nhà nước… Khắc phục được những khó khăn đó, HTX thực hiện được
chức năng liên kết, có đủ các điều kiện trong việc huy động vốn từ thị trường tài
chính, các thành viên và Nhà nước. Với nguồn vốn lớn đã giúp cho HTX thực hiện
có hiệu quả cao hoạt động kinh doanh và phát triển HTX. Đồng thời, hiệu quả
đồng vốn trong HTX được sử dụng có hiệu quả hơn kinh tế hộ và chính đồng vốn
ấy đã giúp cho xã viên HTX có ý thức lao động cao hơn.
25

×