Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận quản lý nhà nước: Quỹ tín dụng nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.99 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Thành lập quỹ tín dụng nhân dân theo mô hình mới là phù hợp với
nguyện vọng của các tầng lớp dân cư trên địa bàn nông nghiệp nông thôn, làm
đa dạng hoá tổ chức tín dụng và cũng là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước
liên quan đến nhiều người. Do vừa trải qua sự đổ vỡ hàng loạt, Hợp tác xã tín
dụng nông thôn và Quỹ tín dụng nhân dân theo kiểu mới phải có bước chuẩn
bị kỹ lưỡng, thận trọng. Trong khi đó ta chưa có thực tế, đây là khó khăn cho
việc thành lập đưa Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động an toàn hiệu quả là trách
nhiệm của nhiều ngành, nhiều cấp.
Với hiểu biết của bản thân có hạn, lại chưa có kinh nghiệm, song tôi
mạnh dạn viết về mô hình này, chắc còn nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong
các Thầy, Cô giáo và bạn đồng nghiệp góp ý chân thành giúp đỡ tận tình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
1
PHẦN I
NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ THÀNH LẬP QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN
Đảng và Nhà nước ta đã xác định nông nghiệp, nông thôn có vị trí chiến
lược rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội. Tổ chức lại và phát
huy có hiệu quả của hoạt động, Hợp tác xã tín dụng là một trong những giải
pháp quan trọng trong việc đáp ứng yêu cầu vốn ngày càng lớn và cấp bách theo
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội cũng như yêu cầu triển khai thực hiện chính
sách tiền tệ, tín dụng ngân hàng trên địa bàn nông nghiệp, nông thôn.
Hợp tác xã tín dụng ở nước ta đã ra đời đầu thập kỷ 60, và tồn tại đến
cuối thập kỷ 80, chặng đường ấy nó đã làm được một số việc không nhỏ:
- Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi trong các tầng dân cư, và cho vay
vốn trở lại đối với những hộ có sức lao động nhưng thiếu vốn, nhằm phục vụ
sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt.
- Làm đại lý huy động tiền gửi tiết kiệm cho ngân hàng Nhà nước.
- Đã hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở vùng nông thôn.
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động của
Hợp tác xã tín dụng theo cơ chế cũ không chuyển hướng kịp thời, nên đã lâm


vào tính đổ vỡ hàng loạt, gây mất lòng tin với người dân. Ở nông thôn xuất
hiện hình thức tín dụng “chui”, huy động vốn và cho vay với lãi suất cao, gây
mất trật tự, ổn định. Từ đây phải đòi hỏi có một tổ chức tín dụng thích hợp
thay thế. Đó là Quỹ tín dụng nhân dân (thực chất đây là loại hình Hợp tác xã
tín dụng kiểu mới).
Cơ sở để thành lập Quỹ tín dụng nhân dân:
- Căn cứ theo Pháp lệnh ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty Tài
chính ngày 24 tháng 5 năm 1990.
- Căn cứ vào Quyết định số 390/TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng
Chính phủ triển khai đề án thí điểm thành lập Quỹ tín dụng nhân dân.
2
- Thành lập Quỹ tín dụng nhân dân theo mô hình phải đảm bảo các
nguyên tắc:
+ Là một tổ chức kinh tế theo mô hình Hợp tác xã, được thành lập trên
nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, nhằm mục tiêu tương trợ vì quyền
lợi của mỗi thành viên.
- Mỗi Quỹ tín dụng nhân dân là đơn vị kinh tế tự chủ, có tư cách pháp
nhân, hoạt động độc lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả tài chính, đồng thời
có sự quản lý hoạt động trong toàn hệ thống từ cơ sở đến Trung ương một
cách thông suốt, nhanh nhạy.
- Quy mô Quỹ tín dụng nhân dân được thành lập tuỳ theo môi trường
kinh tế và trình độ cán bộ ở mỗi nơi để tổ chức cho thích hợp, trên cơ sở địa
giới xã và vùng lân cận, không nhất thiết theo địa giới hành chính đơn thuần.
+ Được cấp uỷ địa phương nhất trí và phải thực hiện đúng các điều kiện
cần thiết theo quy định.
Thanh Hoá là một tỉnh đất rộng, người đông, trên 80% dân số sống ở
vùng nông nghiệp và nông thôn, các tổ chức tín dụng quốc doanh hoạt động
chủ yếu ở trung tâm huyện lỵ, thành phố. Đây là một trong những khó khăn
đối với cư dân. Người có vốn tạm thời nhàn rỗi không có nơi gửi, người cần
vốn cho sản xuất kinh doanh thì không có nơi để vay. Thấy rõ được vấn đề

này, năm 1995 Thanh Hoá đã chuẩn bị một cách tích cực để thành lập Quỹ tín
dụng nhân dân.
Đến cuối năm 1996 Thanh Hoá đã thành lập được 22 Quỹ tín dụng
nhân dân, trên 11 huyện, thị xã. Bước đầu đã đáp ứng được nhu cầu vốn cho
sản xuất và đời sống đối với nông nghiệp, nông thôn, hạn chế và đẩy lùi từng
bước nạn cho vay nặng lãi.
Thành lập được Quỹ tín dụng nhân dân đã khó, nhưng để đảm bảo cho
Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động đúng hành lang pháp lý, ngăn chặn các
trường hợp xấu nhất có thể xảy ra càng khó khăn hơn. Đây là việc làm không
riêng của một cấp, một ngành. Khác hẳn với các loại hình hoạt động khác.
3
Nếu Quỹ tín dụng nhân dân trên 1 địa bàn xã, phường nào đó bị đổ vỡ, nó có
sức công phá rất lớn, ảnh hưởng cả hệ thống, không có khả năng chi trả,
người rút tiền không được, chắc chắn hệ thống chính trị xã hội sẽ không bình
thường. Đây là vấn đề đặt ra, buộc nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý
phải thấy được hai mặt của một vấn đề.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân cả
hai phương diện Quy mô vốn và chất lượng vốn, ngay trong năm 1997 – 1998
Quỹ tín dụng nhân dân chịu sự điều chỉnh cơ bản của 2 Luật:
- Luật Hợp tác xã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khoá IX, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 20/3/1996 và Luật Các tổ chức tín
dụng được Quốc hội nước Cộng xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, Kỳ họp
thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997. Như vậy về công tác tổ chức Quỹ tín dụng
nhân dân phải tuân thủ Luật Hợp tác xã, về lĩnh vực hoạt động tiền tệ tín
dụng, Quỹ tín dụng nhân dân phải tuân thủ Luật các tổ chức tín dụng.
Phải đánh giá cho được Quỹ tín dụng nhân dân hoạt động theo 2 Luật
này đâu là thuận lợi, đâu là khó khăn, từ đó để các ngành chức năng, mà trực
tiếp là Ngân hàng Nhà nước quản lý, giúp đỡ Quỹ tín dụng nhân dân. (Khoản
2 Điều 42 Nghị định số 42/CP, ngày 29/4/1997 của Chính phủ ban hành Điều
lệ mẫu Quỹ tín dụng nhân dân và Điều 72 Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày

13/8/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân
dân). Thực tế đã ghi nhận điều đó. Ngay từ những ngày đầu thành lập Quỹ tín
dụng nhân dân đến nay, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đào tạo, hướng dẫn
và kiểm tra, thanh tra hoạt động Quỹ tín dụng nhân dân, nhằm đưa hoạt động
của loại hình này mở rộng quy mô nhưng chắc chắn, bền vững.
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá bước đầu Quỹ tín dụng nhân dân hoạt
động vì mục đích tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, phục vụ phát triển sản xuất,
kinh doanh và phục vụ đời sống giữa các thành viên.
Số liệu cuối năm 1997 so với tháng đầu năm 1998.

4

5
Danh mc 6 thỏng u
So nm 1997
S tuyt i
tng (+) gim (-)
T l %
tng (+) gim (-)
1 2 3 4
1. S Qu tớn dng nhõn dõn 32 qu. + 10 qu. + 45,5
2. Tng thnh tin. 11.260 thnh viờn. + 5.120 thnh viờn. + 83,3
3. Tng ngun vn hot ng. 20.300 triu ng. + 7.700 triu ng. + 61,1
Trong ú:
- Vn iu l. 2.100 triu ng. + 700 triu ng. + 50,1
- Vn huy ng. 11.800 triu ng. +5.100 triu ng. + 76,1
- Ngun vn i vay. 5.600 triu ng. + 2.600 triu ng. + 86,6
- Vn khỏc 800 triu ng. + 300 triu ng. + 60,0
4. S lt thnh viờn vay vn. 7.500 lt. + 2.756 lt. + 58,4
5. Tng d n. 18.743 triu ng. + 6.881 triu ng. + 59,4%

- Trong ú n quỏ hn. 130 triu ng. + 37 triu ng.
Tuy vậy điều đáng tiếc xảy ra. Các Quỹ tín dụng nhân dân đi vào khai
trơng hoạt động từ năm 1996, đến năm 2005 trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá đã
phải rút giấy phép hoạt động 3 Quỹ tín dụng nhân dân vào cuối năm 1998 một
quỹ, năm 1999 hai quỹ.
6
PHẦN II
RÚT GIẤY PHÉP HOẠT ĐỘNG QUỸ TÍN DỤNG NHÂN DÂN
HOẰNG NGỌC, HUYỆN HOẰNG HOÁ, TỈNH THANH HOÁ
Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc được Chi nhánh Ngân hàng Nhà
nước tỉnh Thanh Hoá cấp giấy phép hoạt động cuối năm 1995. Đến đầu năm
1996 đi vào khai trương hoạt động. Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc là
một pháp nhân, có vốn điều lệ, có bảng tổng kết tài sản, có con dấu riêng.
1. Bộ máy hoạt động.
- Hội đồng quản trị Quỹ tín dụng có 3 thành viên, được Đại hội thành
viên bầu ra theo thể thức bầu cử trực tiếp, bỏ phiếu kín; các thành viên Hội
đồng quản trị bầu Chủ tịch Hội đồng quản trị.
- Có một kiểm soát viên do Đại hội thành viên bầu.
- Điều hành Quỹ tín dụng nhân dân là Giám đốc do Hội đồng quản trị
bổ nhiệm.
(Ba chức danh trên đã được Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh
Thanh Hoá chuẩn y).
- Một số chức danh khác gồm:
+ Cán bộ kế toán, cán bộ tín dụng, và thủ quỹ.
Như vậy bộ máy hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc đã
thực hiện đúng Quyết định số 155/QĐ-NH 17 ngày 16/8/1993 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Ban hành quy chế tổ chức, hoạt động của Quỹ tín dụng
nhân dân.
2. Vốn hoạt động.
-Ban đầu khai trương hoạt động vốn điều lệ bắt buộc phải đủ. Quỹ tín

dụng nhân dân Hoằng Ngọc đã hội đủ 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng).
- Vốn huy động: Vốn huy động thời điểm đầu đặc biệt khó khăn, mới
đáp ứng được trên dưới 40 triệu đồng; không riêng gì Quỹ tín dụng nhân dân
Hoằng Ngọc, mà bất cứ một tổ chức tín dụng nào thu hút vốn huy động thấp
7
thì không thể mở mang được thành viên, được khách hàng. Hơn nữa sau năm
tài chính sẽ gặp khó khăn. Nguồn vốn khai thác tại chỗ bao giờ cũng sinh lời
cao, và nó bảo đảm cân đối giữa huy động vốn và cho vay.
- Vốn vay: Vốn vay là cần thiết khi thành lập vốn “mồi” mang lại lòng
tin cho khách hàng. Đặc biệt trong công tác thanh toán để đảm bảo sự tín
nhiệm của Quỹ đối với người gửi tiền. Khách hàng rút tiền gửi có những
trường hợp có thể xảy ra:
- Rút đúng cam kết thời gian gửi, thời gian rút.
- Rút trước thời hạn.
Dù rút đúng kỳ hạn hay rút trước kỳ hạn Quỹ tín dụng nhân dân đều
phải trả. Nếu khất khách hàng thì chắc chắn tiền gửi sẽ bị rút hàng loạt. Vậy
nếu vốn vay đáp ứng:
- Giải quyết trả tiền gửi cho khách.
- Cho vay thành viên để phát triển sản xuất kinh doanh.
Tuy vậy vốn vay ràng buộc một số điều kiện nhất định. Vốn huy động
tại chỗ được nhiều thì được vay tỷ lệ tương ứng và ngược lại. Hơn nữa vốn
vay khả năng sinh lời thấp do: phải trả lãi vay cao; và chi phí vận chuyển trên
đường đi.
Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc sau hơn 2 năm hoạt động đã có
dấu hiệu đi xuống. Mặc dù Chi nhánh ngân hàng Nhà nước đã cảnh báo nhiều
lần bằng văn bản, song không những không khắc phục được mà tiếp tục vi
phạm chế độ.
Ngày 13/7/1998 Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh Thanh
Hoá đã có Quyết định số 412 về việc rút Giấy phép hoạt động Quỹ tín dụng
nhân dân Hoằng Ngọc huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá (Quyết định có

hiệu lực từ ngày 01/8/1998).
Cơ sở rút giấy phép:
a. Qua công tác giám sát từ xa, kiểm tra tại chỗ và công tác thanh tra
của các phòng ban chức năng cho thấy:
8
- Cấp uỷ chính quyền xã Hoằng Ngọc hiểu sai về loại hình này. Họ cho
rằng thành lập Quỹ tín dụng nhân dân để nhằm vay vốn của Nhà nước, vậy
nên không coi trọng khai thác nguồn vốn tại chỗ; can thiệp quá sâu vào công
việc của Hội đồng quản trị.
- UBND xã đã gây sức ép với Quỹ để vay 60.000.000đ (Sáu mươi triệu
đồng) để xây dựng trường học. (Đây là điều cấm).
- Vốn điều lệ đã giảm xuống mức quá thấp 20.000.000đ. Theo Quyết
định số 26/QĐ/NH 17 ngày 29/01/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
“V/v bổ sung, sửa đổi một số điểm về quy chế, tổ chức hoạt động của Quỹ tín
dụng nhân dân” thì mức vốn điều lệ tối thiểu phải đạt 50.000.000đ (Năm
mươi triệu đồng).
- Nợ quá hạn chiếm tới 20% khó có khả năng thu hồi.
b. Căn cứ vào Điều 37 giải thể Quỹ tín dụng nhân dân Điều lệ Quỹ
tín dụng nhân dân Ban hành kèm theo Nghị định số 42/CP ngày 29/4/1997
của Chính phủ.
c. Căn cứ vào Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được Quốc hội
khoá X, Kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/12/1997 (Luật số 01/1997/QH10)
quy định Nhiệm vụ quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước. “Cấp thu hồi
Giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín dụng, trừ trường hợp
do Thủ tướng Chính phủ quyết định; cấp giải thể, chấp nhận chia, tách, hợp
nhất, sáp nhập các tổ chức tín dụng theo quy định của pháp luật; và Điều 29
Luật các tổ chức tín dụng”.
3. Những công việc phải làm, để tránh hậu quả xấu có thể xảy ra.
Việc Chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh Thanh Hoá rút giấy phép
hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc có nghĩa là Quỹ tín dụng

nhân dân Hoằng Ngọc giải thể bắt buộc.
Việc giải thể bắt buộc một Quỹ tín dụng nhân dân khác hẳn với giải thể
một doanh nghiệp. Công việc phải làm tuần tự, thận trọng, không được coi
nhẹ bất cứ một khâu nào, dù đó là nhỏ nhất. Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước
9
tỉnh Thanh Hoá đã làm được việc này không gây ồn ào, xáo trộn tình hình
kinh tế, xã hội, chính trị tại xã Hoằng Ngọc và các xã liền kề.
a. Kiểm kê và thu hồi ấn chỉ quan trọng chưa phát hành, đây là loại
ấn chỉ bảo quản cẩn thận, chu đáo như tiền.
* Số vốn góp gồm:
+ Vốn cổ phần xác lập do thành viên góp theo quy định của Điều lệ
mức tối thiểu là 50.000 đồng.
+ Vốn cổ phần thường xuyên là số vốn góp của những người đã góp
vốn cổ phần xác lập. Mỗi một số này được phát hành mức tối đa không quá
30% vốn điều lệ ở thời điểm đó. Như vậy Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc
có thể phát hành ở thời điểm vốn điều lệ là 50 triệu đồng, thì cổ phần này tối
đa 15 triệu.
Phải kiểm kê chính xác 2 loại sổ góp vốn này. Xác định sổ đã nhận từ
Ngân hàng Nhà nước về quỹ; sổ đã phát hành cho thành viên. Tổ chức đối
chiếu công khai đến tận từng thành viên. Những sổ do viết sai, nhầm lẫn cũng
phải được kiểm kê.
Nếu kiểm kê để sót lọt ra một vài sổ, hậu quả xảy ra khôn lường. Người
có sổ có thể gian lận đòi tiền Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc ở thời điểm
sau, mặc dù Quỹ đó đã giải thể.
* Số tiền gửi tiết kiệm gồm:
+ Sổ tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn.
+ Sổ tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Hai loại sổ này đều phải kiểm kê, giải quyết cụ thể tương tự như sổ góp
vốn. Vì nó cũng có sự nguy hiểm khôn lường như sổ góp vốn. Riêng số tiền
thì lại không khống chế như sổ góp vốn.

Sau khi kiểm kê khớp, đúng 2 loại ấn chỉ này thì được thu về Ngân hàng.
b. Tổ chức đối chiếu công khai tới từng thành viên bao gồm:
- Vốn điều lệ.
- Tiền gửi tiết kiệm.
10
- Tiền vay.
Quá trình đối chiếu đảm bảo tính khớp.
11
c. Thu hồi con dấu:
d. Thành lập ban thu nợ:
Để đảm bảo việc giải thể Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc đúng tinh
thần chỉ đạo của Ban chỉ đạo thí điểm thành lập Quỹ tín dụng nhân dân do
đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phạm Minh Đoan làm trưởng ban; đó là
thu hồi công nợ để chi trả ưu tiên số 1: là trả tiền gửi tiết kiệm.
2: là trả vốn góp.
3: trả nợ tiền vay Quỹ tín dụng khu vực.
Theo chế độ thì vốn góp trả sau cùng. Nhưng đây là mặt lý thuyết.
Thậm chí còn phải trả không những đủ gốc mà phải có một phần lãi suất cho
họ. Nếu không làm được việc này chắc chắn lòng thành viên không yên.
(thành viên chính là dân) và sinh ra kiện cáo.
Quả vậy sau 2 tháng kể từ ngày rút giấy phép đã giải quyết được công
tác tài chính của Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc đó là thu hồi toàn bộ nợ
gốc 80 triệu đồng, trong đó của UBND xã 60 triệu đồng, thành viên 20 triệu
đồng và thu đủ lãi để chi trả: Tiền gửi tiết kiệm bao gồm gốc và lãi gồm 30
triệu đồng, tiền vốn góp trên 20 triệu đồng, trả nợ vày Quỹ kvu 40 triệu đồng
(riêng Quỹ khu vực phải xin lãi vay).
Sau gần 8 năm rút giấy phép hoạt động Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng
Ngọc, đến nay chưa hề phát sinh trường hợp khiếu kiện. Người có tiền gửi tiết
kiệm, có vốn góp được thanh toán sòng phẳng; người có nợ trả đầy đủ. Thực tế
không để lại dư âm xấu làm ảnh hưởng đến những quỹ tín dụng nhân dân lân cận.

4. Bài học kinh nghiệm.
Việc rút giấy phép hoạt động Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc tuy
không để lại hậu quả xấu đáng kể, nhưng phải nhìn thẳng vào nó để đánh giá
đúng sai, rút kinh nghiệm cho loại hình này mà trực tiếp là Ngân hàng Nhà
nước, Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân xã Hoằng Ngọc.
a. Công tác cán bộ:
12
Công tác cán bộ để bố trí vào bộ máy Quỹ tín dụng nhân dân thiếu cân
nhắc, thậm chí sai lầm. Đó là đã cơ cấu một cán bộ ngân hàng bị thải hồi vào
chức danh cán bộ chủ chốt, một số cán bộ khác thiếu bản lĩnh, thậm chí vay
tiền của quỹ để quá hạn.
b. Đối với Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND xã Hoằng Ngọc
không làm tốt công tác nhân sự, không theo dõi, giáo dục tư tưởng cho đội
ngũ cán bộ Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc, dẫn đến cán bộ trong quỹ vi
phạm đạo đức nghề nghiệp.
Ngay chủ tịch UBND xã đã hiểu sai về mô hình này. Cho rằng thành
lập Quỹ tín dụng nhân dân để vay vốn Nhà nước, và dùng vốn này vào xây
dựng cơ sở hạ tầng, không coi trọng phát huy nội lực, dẫn đến người có tiền
không dám gửi, người thiếu vốn không có tiền để được vay; coi Quỹ tín dụng
nhân dân Hoằng Ngọc là của xã Hoằng Ngọc là sai lầm.
c. Đối với Ngân hàng Nhà nước.
Chúng ta phải xác định đúng mức, Quỹ tín dụng nhân dân tuy quy mô
vốn thấp nhưng nó hoạt động trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng, thao tác các
nghiệp vụ kế toán, kiểm ngân, cho vay vô cùng phức tạp. Hệ thống ngân hàng
đã có thâm niên trên 50 năm (thành lập năm 1951) nhưng khi bước vào cơ chế
thị trường đã phải trả giá, điển hình vụ TAMEXCO thành phố Hồ Chí Minh,
Tổng giám đốc, phó Tổng giám đốc Ngân hàng ngoại thương Việt Nam phải
lĩnh án tù giam, một số cán bộ chủ chốt của Ngân hàng ngoại thương Chi
nhánh thành phố Hồ Chí Minh và Ngân hàng Công thương Chi nhánh thành
phố Hồ Chí Minh chịu mức án cao nhất, hàng chục tỷ đồng không có khả

năng thu hồi. Trong khi đó cán bộ của Quỹ tín dụng nhân dân chỉ đào tạo
được 45 ngày để cấp chứng chỉ hành nghề làm sao có thể tránh được sai lầm
(ở đây chưa đề cập đến cố ý làm trái pháp luật).
d. Đối với các ngành, các cấp:
Việc rút giấy phép hoạt động Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc trong
thời gian thí điểm thành lập Quỹ tín dụng nhân dân. Theo Quyết định số
13
260/TTg ngày 02/6/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Ban chỉ
đạo Trung ương thí điểm thành lập Quỹ tín dụng nhân dân tại Điều 4 quy định
thành viên Ban chỉ đạo tỉnh, thành phố gồm:
- Một phó Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố - Trưởng ban.
- Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố - Phó
trưởng ban thường trực.
- Một phó Giám đốc Sở tài chính tỉnh, thành phố - Uỷ viên.
- Một phó Giám đốc Sở tư pháp tỉnh, thành phố – Uỷ viên.
- Một phó Hội trưởng Hội nông dân tỉnh, thành phố – Uỷ viên.
- Một phó Chủ tịch Hội hội các doanh nghiệp ngoài quốc doanh làm Uỷ
viên.
Thực chất Ban chỉ đạo chỉ mang tính danh nghĩa. Hầu như khoán trắng
cho Ngân hàng Nhà nước. Ngay từ ngày đầu năm 1998, qua công tác giám sát
các loại báo cáo, kiểm tra tại chỗ Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc, Ngân
hàng Nhà nước đã có văn bản báo cáo đồng chí trưởng Ban chỉ đạo, cùng các
Uỷ viên những yếu kém, nhưng không có phương án củng cố.
Đến đây có thể nói rằng việc rút giấy phép hoạt động Quỹ tín dụng
nhân dân Hoằng Ngọc trách nhiệm này cũng phải thuộc vào các ngành, các
cấp. Thậm chí đến năm 2000 tổng kết thí điểm thành lập Quỹ tín dụng nhân
dân mà nhiều thành viên trong Ban chỉ đạo không biết tỉnh Thanh Hoá có bao
nhiêu Quỹ tín dụng nhân dân được thành lập, bao nhiêu quỹ bị rút giấy phép.
c. Đối với đơn vị cho vay vốn: Vô trách nhiệm, cho Quỹ tín dụng nhân
dân Hoằng Ngọc vay không kiểm tra sử dụng vốn vay. Nếu kiểm tra sử dụng

vốn vay kịp thời sẽ không xảy ra tình trạng UBND xã vay 60 triệu đồng sử
dụng xây dựng hạ tầng cơ sở. Đúng ra số tiền đó cho thành viên vay để phát
triển sản xuất kinh doanh, cải thiện nâng cao đời sống.
Suy cho cùng Quỹ tín dụng nhân dân Hoằng Ngọc bị rút giấy phép hoạt
động, người chịu thiệt thòi, mất mát lớn nhất là thành viên Quỹ tín dụng nhân
14
dân Hoằng Ngọc, các tầng lớp dân cư xã Hoằng Ngọc và dân cư vùng lân cận;
Trong khi đó các cấp, các ngành bình chân như vại.
15
PHẦN III
NHẬN XÉT VÀ KIẾN NGHỊ
1. Nhận xét: Thành lập Quỹ tín dụng nhân dân là điều tất yếu, nó phù
hợp với xu thế phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. (Ở một số nước
phát triển như Canada; Cộng hoà Liên bang Đức, mô hình này đã có ngót một
trăm năm).
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá từ năm 1996 đến năm 2005 đã thành lập
được 35 Quỹ tín dụng nhân dân, hiện còn 32 Quỹ tín dụng nhân dân hoạt
động (3 Quỹ bị rút giấy phép). Số liệu đến 31/12/2005 như sau:
- Đã kết nạp được 29.437 thành viên.
- Tổng nguồn vốn hoạt động đạt 227.892 triệu đồng.
Trong đó:
- Vốn điều lệ 12.984 triệu đồng.
- Vốn huy động 114.025 triệu đồng.
- Vốn vay 83.369 triệu đồng.
- Vốn khác 17.514 triệu đồng.
- Thành viên dư nợ 213.614 triệu đồng.
Trong đó nợ quá hạn 556 triệu đồng chiếm tỷ lệ 0,26%.
Đây là tỷ lệ lý tưởng mà không có một tổ chức tín dụng nào có được kể
cả Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng cổ phần.
- Lãi đạt 2.882 triệu đồng.

Bình quân một thành viên dư nợ 7.256.000 đồng, đây là một con số
không nhỏ đối với vùng nông nghiệp và nông thôn, giúp cho họ có vốn để sản
xuất kinh doanh, giải quyết việc làm, mở rộng ngành nghề truyền thống, hạn
chế nạn cho vay nặng lãi, và các tệ nạn xã hội khác.
Sau 10 năm Thanh Hoá mới thành lập được 32 Quỹ tín dụng nhân dân
trên 627 xã, phường, thị trấn đạt tỷ lệ 5,1% là quá thấp. Đến nay chưa một
cấp, một ngành nào đánh giá một cách đầy đủ về tính ưu việt của loại hình
16
này, và cũng không đưa ra được kế hoạch, chương trình thành lập Quỹ tín
dụng nhân dân cho những năm tiếp theo.
2. Kiến nghị.
2.1. Công tác tuyên truyền.
Để cho Quỹ tín dụng nhân dân phát triển, hoạt động an toàn, có hiệu
quả, đi vào cuộc sống ở vùng nông nghiệp, nông thôn công tác tuyên truyền
phải được coi trọng đến các cấp, các ngành.
2.2. Về công tác đào tạo.
Chính phủ nên giao cho một số ngành như Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài
chính chịu trách nhiệm đào tạo đội ngũ cán bộ Quỹ tín dụng nhân dân. Thời gian
đào tạo tối thiểu là 24 tháng, chứ không như 45 ngày hiện nay. Vì đây là lĩnh vực
nhạy cảm khác hẳn với các loại hình doanh nghiệp khác, hợp tác xã khác.
Không chỉ thế, hàng năm phải mở lớp tập huấn, đào tạo và đào tạo lại.
Nếu cứ như hiện nay chế độ tín dụng, chế độ kho quỹ, chế độ kế toán và các
văn bản khác chỉ gửi qua con đường bưu điện, Quỹ tín dụng nhân dân tự
nghiên cứu là không được. Vì trình độ của từng quỹ bị hạn chế; hiểu không
hết, cập nhật không kịp thời dẫn đến họ làm sai, vi phạm chế độ dẫn đến mất
cán bộ, mất vốn, thành viên mất lòng tin.
2.3. Chính sách thuế.
Trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá có 11 huyện thị có Quỹ tín dụng nhân dân
hầu như 11 huyện thu thuế thu nhập mức khác nhau. Nếu thuế thu nhập doanh
nghiệp quá cao thì ảnh hưởng trực tiếp đến chia lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ

phần về chế độ quy định lời ăn, lỗ chịu nhưng đây là sách vở. Thực tế bằng
cách này cách khác, người góp vốn được hưởng khoản lợi tức tối thiểu bằng
lãi suất tiền gửi có kỳ hạn 12 tháng. Nếu không giải quyết được quyền lợi này
thì vốn điều lệ của 32 Quỹ tín dụng nhân dân chỉ đạt 1.471.850.000 đồng
(50.000 đồng x 29.437 thành viên) thực tế vốn điều lệ đến 31/12/2005 đạt
12.984.000.000 đồng, số chênh lệch 11.512.000.000 đồng là của những người
17
có tiền, số người này họ không vay. Vốn điều lệ thấp thì bị hạn chế rất lớn về
huy động vốn, về cho vay thành viên.
Vậy đề nghị Bộ Tài chính tham mưu do Chính phủ có khung thu thuế
thu nhập đúng mức, dễ thực hiện, thực hiện thống nhất trên toàn quốc, bảo
đảm được quyền lợi người góp vốn, và hạch toán của Quỹ tín dụng nhân dân
bảo đảm khách quan trung thực.
2.4. Quỹ tín dụng nhân dân phải được bình đẳng như các tổ chức tín
dụng khác.
* Về vay vốn:
Luật các tổ chức tín dụng quy định: “Các tổ chức tín dụng được vay
vốn của nhau và của tổ chức tín dụng nước ngoài”.
Nhưng khoản 2 Điều 37 Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/8/2001
của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân quy định:
“Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở được vay vốn của Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương, vay vốn của các tổ chức tín dụng không phải là Quỹ tín dụng
nhân dân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước”.
Quy định này có nghĩa là Quỹ tín dụng nhân dân A không được vay
vốn của Quỹ tín dụng nhân dân B và ngược lại.
Quy định này không bình đẳng, Quỹ tín dụng nhân dân gặp nhiều khó
khăn. Đó là:
Quỹ tín dụng nhân dân A thừa vốn thì mang lên Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương gửi theo mức lãi suất tiền gửi, lãi suất này bao giờ cũng thấp,
không bù đắp nổi chi phí ban đầu và chi phí vận chuyển trên đường đi; Quỹ

tín dụng nhân dân B thiếu vốn phải lên Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương
vay chênh lệch nhau không đáng kể thậm chí hoà vốn, mặc dù hai quỹ đó liền
kề nhau, vẫn không được cho nhau vay.
Như vậy quy định này không những không bình đẳng mà còn tạo nên
lãng phí tiền của xã hội (chi phí vận chuyển trên đường đi của mỗi quỹ 2 lần;
đi gửi, đến hạn đi lĩnh về; đi vay đến hạn đi trả), tạo nên một lớp trung gian
18
Quỹ tín dụng Trung ương ngồi hưởng chênh lệch của Quỹ tín dụng nhân dân
A và Quỹ tín dụng nhân dân B, trong khi đó tại Điều 3 và Điều 4 của Nghị
định này đều quy định Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở và Quỹ tín dụng nhân dân
Trung ương đều là tổ chức tín dụng hợp tác.
* Về cho vay vốn:
Tổ chức tín dụng Nhà nước cho khách hàng vay vốn các trường hợp
thiên tai địch hoạ thì được Chính phủ cho giản nợ, khoanh nợ, xoá nợ; được
giảm lãi suất tiền vay. Nhưng Quỹ tín dụng nhân dân không được Nhà nước
ưu đãi như Ngân hàng thương mại Quốc doanh.
Thực tế đã xảy ra: Một cánh đồng có 2 thửa ruộng trồng cây lương thực
hoặc cây công nghiệp khi bị thiên tai địch hoạ thì thửa ruộng vay vốn Ngân
hàng Quốc doanh được cơ quan có thẩm quyền xác nhận đề nghị Nhà nước có
chế độ ưu đãi. Còn thửa ruộng vay vốn của Quỹ tín dụng nhân dân thành viên
phải lo trả nợ cả gốc và lãi; cùng lắm thì được gia hạn nợ thời gian bằng 1 chu
kỳ nữa.
2.5. Về công tác hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra, thanh tra.
Từ khi được thành lập mô hình Quỹ tín dụng nhân dân đến nay, Ngân hàng
Nhà nước vừa là cơ quan hướng dẫn nghiệp vụ, vừa là cơ quan quản lý, kiểm tra,
thanh tra Quỹ tín dụng nhân dân; điều này phản ánh không khách quan.
Để cho Quỹ tín dụng nhân dân phát triển bền vững, lâu dài, đề nghị
Chính phủ nên phân cấp.
Đã hướng dẫn nghiệp vụ thì không được làm công tác kiểm tra thanh tra.
2.6. Đối với Đảng uỷ, chính quyền xã có Quỹ tín dụng nhân dân.

- Không được can thiệp quá sâu vào công tác tổ chức, hoạt động của Quỹ
tín dụng nhân dân; phải tôn trọng quyền của Quỹ tín dụng nhân dân đã được Luật
Hợp tác xã, Luật các tổ chức tín dụng và các văn bản pháp luật khác quy định.
- Tạo điều kiện thuận lợi về nhân sự để cán bộ trong Quỹ tín dụng làm
việc lâu dài mới có hiệu quả, tránh sự xáo trộn không cần thiết, dẫn đến người
19
mới chưa biết nghiệp vụ lại cơ cấu vào quản lý hoạt động Quỹ tín dụng nhân
dân sẽ bị hạn chế.
20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Luật Hợp tác xã thông qua Khoá IX Kỳ họp thứ 9 ngày 20/3/1996.
- Luật Hợp tác xã Khoá I Quốc hội XI Kỳ họp thứ 4 từ 21/10 đến
26/11/2003.
- Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quốc hội Khoá X Kỳ họp thứ 2
ngày 12/12/1997 (số 01/1997/QH10).
- Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quốc hội Khoá XI Kỳ họp thứ 3
ngày 17/6/2003 (số 10/2003/QH11).
- Luật Các tổ chức tín dụng Quốc hội Khoá X Kỳ họp thứ 2 ngày
12/12/1997 (số 02/1997/QH10).
- Luật Các tổ chức tín dụng Quốc hội Khoá XI ngày 15/6/2004 (số
20/2004/QH11).
- Pháp lệnh Ngân hàng, Hợp tác xã tín dụng và Công ty Tài chính ngày
24/5/1990.
- Nghị định số 42/CP ngày 29/4/1997 của Chính phủ ban hành điều lệ
mẫu Quỹ tín dụng nhân dân.
- Nghị định số 48/2001/CP ngày 13/8/2001 của Chính phủ về tổ chức
và hoạt động của Quỹ tín dụng nhân dân.
- Quyết định số 390/TTg ngày 27/7/1993 của Thủ tướng Chính phủ quyết
định triển khai đề án thí điểm thành lập Quỹ tín dụng nhân dân (kèm đề án).
- Quyết định số 26/QĐ/NH17 ngày 29/01/1996 của Thống đốc Ngân

hàng Nhà nước “V/v bổ sung, sửa đổi một số điểm về quy chế tổ chức, hoạt
động của Quỹ tín dụng nhân dân”.
21

×