Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

lý luận về nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong TTDS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.21 KB, 8 trang )

NỘI DUNG
I- Những vấn đề lý luận về nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong
TTDS
1- Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
Nguyên tắc không phải là cái tự nhiên sinh ra mà là kết quả của cả một quá trình
phát triển và thích ứng với các điều kiện khách quan. Mặc dù từ điển tiếng việt có định
nghĩa nguyên tắc là “điều cơ bản đã định ra cần hải tuân theo trong 1 loạt việc làm”
nhưng nguyên tắc đó sẽ nhanh chóng bị thay đổi nếu nguyên tắc đó không phù hợp với
quy luật khách quan. Bởi vậy, nguyên tắc phải là kết quả của quá trình nhận thức nghiên
cứu thực tế khách quan.
Trong mỗi lĩnh vực khác nhau có những nguyên tắc khác nhau, nó trở thành
những yêu cầu bắt buộc, chỉ đạo trong xây dựng và thực hiện lĩnh vực mà nó điều chỉnh.
Trong phương diện pháp luật nó chung và pháp luật TTDS nói riêng có quy định: “
Nguyên tắc của luật TTDS Việt Nam là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho
việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS và ghi nhận trong các văn bản pháp luật.”
Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự có cội nguồn từ các
nguyên tắc trong giao lưu dân sự. Trong đó, các quan hệ dân sự được xác lập, thay đổi
hoặc chấm đứt trên cơ sở tự nguyện, tự thỏa thuận, tự chịu trách nhiệm và bình đẳng
giữa các chủ thể. Nhưng sự tự định đoạt của đương sự không phải được thể hiện 1 cách
tùy tiện mà phải thự hiện trong khuiin khổ theo quy định của pháp luật. Có như vậy mới
đảm bảo tính hợp pháp và hợp hiến, tạo tiền để cho quyền của đương sự được đảm bảo.
Cụ thể, nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự được thể hiện
trong BL TTDS như sau:”1. Ðương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa
án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự
khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn
khởi kiện, đơn yêu cầu đó.2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có
quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự
nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội.”( Điều 5 BLTTDS 2004). Như vậy
quyền tự định đoạt của đương sự là quyền tự quyết định tham gia tố tụng dân sự, tự
quyết dịnh quyền và lợi ích của họ trong tố tụng dân theo quy định của pháp luật và
trách nhiệm của tòa án giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự trừ trường hợp


pháp luật có quy định khác.
2- Cơ sở của nguyên tăc quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS
a) Cơ sở lý luận :
Theo quan điểm của PGS. TS Phạm Hữu Nghị: “Quyền tự định đoạt trong quy định
trong TTDS là sự phản ánh của quyền tự định đoạt của các chủ thể trong mối quan hệ
dân sự”. Quyền tự định đoạt của đương sự trong dân sự bao gồm các nguyên tắc:
Nguyên tắc tự do, tự cam kết, thỏa thuận( Điều 4 BLDS) Nguyên tắc tôn trọng và bảo
vệ quyền dân sự( Điều 9 BLDS) Nguyên tắc hòa giải ( Điều 12 BLDS). Trong TTDS
nguyên tắc quyền tự định đoạt thể hiện ở khả năng tham gia tố tụng, tự do định đoạt
quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm hại. Từ phân tích trên có thể thấy rằng nguyên tắc quyền tự định đoạt trong
tố tụng dân sự là cac quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức,
được phái sinh dựa trên các nguyên tắc giao lưu dân sự trong pháp luật nội dung.
Mặt khác, nguyên tắc quyền tự định đoạt được đặt ra do yêu cầu đảm bảo quyền bảo
vệ của đương sự. Theo quy định tại Điều 9 BLTTDS: “Ðương sự có quyền tự bảo vệ
hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của Bộ luật này bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình.Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự thực
1
hiện quyền bảo vệ của họ.”. Như vậy, pháp luật cho phép đương sự có quyền bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và muốn việc đảm bảo quyền và lợi ích của đương
sự thì cần có những quy định giúp đương sự thực hiện tốt điều này. Đương sự có quyền
khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự khi quyền và lợi ích của mình bị xâm
phạm. Việc yêu cầu và thay đổi yêu cầu này hoàn toàn dựa trên ý chí của đương sự. Hơn
nữa, để bảo đảm quyền tự bảo vệ của đương sự pháp luật còn quy định trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi, bổ sung yêu câu…
Nếu không có quyền tự định đoạt trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được nguyên
tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Bởi vậy quy đinh về quyền tự định đoạt của
đương sự tại điều 5 BLTTDS là rất cần thiết.
Mặt khác, các quan hệ dân sự bao trùm lên tất cả các mặt của đời sống xã hội nên
các tranh chấp xảy ra cũng rất nhiều. Vì vậy, nếu tòa án muốn giả quyết các vấn đề phát

sinh một cách nhanh chóng và kịp thời, nâng cao hiệu quả cũng như sự tín nhiệm của
nhân dân thì việc quy định. Chính vì lẽ đó pháp luật quy định cho các cá nhân, cơ quan,
tổ chức một số quyền lợi nhất định để họ có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình khi bị người khác xâm phạm. Cụ thể, đương sự( cơ quan, tổ chức, cá nhân) có
quyền tự mình thực hiện khởi kiện và yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự tùy vào tính
chất của vụ việc. Đây là một trong những quyền tố tụng quan trọng của đương sự, nhờ
vào quyền tự định đoạt mà đương sự được quyền chủ động trong việc khởi kiện, yêu
cầu giải quyết vụ việc dẫn tới vụ việc dân sự được giải quyết nhanh chóng, đúng đắn,
khách quan hơn.
b) Cơ sở thực tiễn
Về tính chất, các tranh chấp dân sự không mang tính chất nguy hiểm như vi phạm
quy phạm pháp luật hình sự và chư đến mưc bị coi là tội phạm. Các tranh chấp trong
dân sự là trách nhiệm giữa các công dân với nhau. Khi các tranh chấp xảy ra, các đương
sự được quyền tự do thể hiện ý chí của mình, tự bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của
mình bằng cách yêu cầu tòa án giải quyết vụ việc dân sự của mình. Và tòa án chỉ đươc
giải quyết khi có yêu cầu của đương sự và khi nhận được yêu cầu của đương sự thì tòa
án cần phải tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc một cách nhanh chóng, kịp thời để
bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự.
II- Nội dung của nguyên tắc quyền tự định đoạt cả đương sự trong TTDS
1- Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc
dân sự
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS 2004 đương sự có quyền tự định đoạt trong việc
đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo Điều 60 BLTTDS bị đơn
có quyền định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố. Theo điều 61 BLTTDS 2004
người có quyền và lợi ích quan có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu đối với
nguyên đơn, bị đơn.
a) quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải
quyết dân sự
Quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự được ghi nhận tại điều
161: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp

pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền
để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.”. Bên cạnh đó tại Điều162
BLTTDS 2004 quy định quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước do các cơ quan tổ chức
thực hiện. Như vậy, nhà nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức trong việc yêu cầu tòa án bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của mình và
2
của các chủ thể khác khi họ cảm thấy quyền và lợi ích hợp pháp của họ khi họ cho rằng
quyền lợi của mình bị xâm phạm trong lúc tham gia các quan hệ pháp luật dâ sự. Quyền
tự định đoạt của đương sự là một trong những quyền quan trọng của các chủ thể khi
tham gia tố tụng dân sự. Bởi vì tòa án dân sự chỉ thực hiện hoạt động xét xử khi có yêu
cầu khởi kiện của các đương sự, quyền tự định đoạt của đương sự có thể được xem là
cơ sở đầu tiên để tiến hành các thủ tục tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của họ.
Quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Như ta đã biết,
việc dân sự không mang tính chất tranh chấp như vụ án dân sự mà phần lớn là yêu cầu
hay bác bỏ quyền lợi nào đó. Vì vậy, chỉ tồn tại khái niệm người yêu cầu và người bị
yêu cầu thay thế cho nguyên đơn và bị đơn. Người yêu cầu là người chủ động đưa yêu
cầu về giải quyết vụ việc dân sự và khi tham gia hoạt động tố tụng họ được chủ động
như nguyên đơn để bảo vẹ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nhưng phạm vi yêu cầu
của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu tòa án công nhận hay không công nhận một
sự kiện pháp lý là phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của họ. Điều này đã
góp phần bổ sung thêm cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích của các cá nhân, tổ chức khi
mà họ cảm thấy quyền và lợi ích của mình chưa đúng hoặc chưa đủ và mức độ chưa tới
mức trở thành tranh chấp.
Các quy định trên của BLTTDS đã thể hiện được quan tâm của Nhà nước đối với
mỗi cá nhân trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Nhưng sự quan tâm
vẫn dựa trên nguyên tắc tôn trọng và không can thiệp vào cuộc sống riêng, Nhà nước chỉ
trao quyền và người quyết định vẫn là mỗi cá nhân khi họ bị xâm phạm, chỉ trong 1 số
trường hơp đặc biệt thì các cá nhân, tổ chức không bị xâm phạm hoặc người đại diện

hợp pháp của các chủ thể này mới có quyền khởi kiện. Việc khởi kiện, yêu cầu giải
quyết vụ án một cách kịp thời sẽ giúp các quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ, thiệt
hại sớm được khắc phục, ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật.
b)Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn.
Việc khởi kiện của nguyên đơn như đã phân tích nói trên thể hiện được quyền tự
định đoạt của nguyên đơn. Nhưng không phải lúc nào việc khởi kiện đó cũng đúng, và
trong nhiều trường hợp khi nguyên đơn khởi kiện bị đơn lại cảm thấy quyền lợi của
mình bị xâm phạm. Do đó BLTTDS 2004 đã quy định thêm quyền phản tố của bị đơn,
cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS có quy định như sau: “ Ðưa ra yêu cầu
phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị
đối trừ với nghĩa vụ mà nguyên đơn yêu cầu”. Ngoài ra bị đơn còn có quyền bác bỏ yêu
cầu của nguyên đơn. Có thể là bác bỏ về nội dung( khi bị đơn đưa ra lập luận không có
căn cứ yêu cầu khởi kiện như nguyên đơn nêu trong đơn xảy ra trong thực tế); bác bỏ
về tố tụng( khi bị đơn chứng minh yêu cầu của nguyên đơn đã vi phạm thủ tục tố tụng).
Như vây, BLTTDS 2004 không chỉ ghi nhận quyền tự định đoạt cảu nguyên đơn mà còn
ghi nhận quyền tự định đoạt của bị đơn. Đây là một điểm quan trọng và phù hợp để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các công dân khi tham gia quan hệ dân sự.
c) Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền và nghĩa vụ
liên quan
Khái niệm người có quyền và nghĩa vụ liên quan được quy định tại khoản 4 Điều
56 BLTTDS 2004 và họ cũng có quyền thể hiện sự tự định đoạt của mình được quy
định tại điều 177 BLTTDS 2004. Theo đó, trong trường hợp người có quyền, nghĩa vụ
không liên quan đến nguyên đơn hoặc bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có
các điều kiện nhất đinh. Trong vụ án dân sự lợi ích hợp pháp của người có quyền và lợi
ích liên quan tham gia tố tụng độc lập với lơi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn nên
3
yêu cầu của họ có thể chống lại cả nguyên đơn và bị đơn.Việc cho người có quyền,
nghĩa vụ được tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khi đáp ứng được những điều kiện
nhất định cũng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích của những người này, tránh việc giải quyết
các vấn đề liên quan tới 1 vụ việc dân sự đã xét xử nhiều lần.

2) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu và
thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ việc dân sự.
a) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu
Nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết vụ án dân sự, nhưng trong
quá trình giải quyết nguyên đơn có thể muốn bổ sung hoặc sửa đổi yêu cầu của mình.
Nhưng tùy vào từng giai đoạn tố tụng mà yêu cầu đó được chấp nhận hay không chấp
nhận. Trước khi mở phiên tòa thì quyền này là quyền tuyệt đối( tức là trong giai đoạn
này BLTTDS không giới hạn phạm vi thay đổi, yêu cầu, bổ sung của nguyên đơn).
Nhưng sau khi mở phiên tòa sơ thẩm việc thay đổi, bổ sung, yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn bị giới hạn không vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu(Điều 218 BLTTDS
2004). Mục 6 phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ- HĐTP ngày 12/05/2006 có quy định:
“Việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự tại phiên toà chỉ được Hội đồng xét xử
chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ không vượt quá phạm vi yêu cầu
khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu được thể hiện trong đơn khởi
kiện của nguyên đơn, đơn phản tố của bị đơn, đơn yêu cầu độc lập của người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan...”Ví dụ: Ban đầu nguyên đơn khởi kiện về bồi thường thiệt hại
và phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng, tại phiên tòa nguyên đơn có thể rút mứt yêu cầu,
chỉ yêu cầu bồi thường thiệt hai sẽ được chấp nhận. Nhưng không phải nguyên đơn là
người duy nhất có quyền thể hiện ý chí trong giai đoạn này mà quyết định của bị đơn và
người cói quyền và lợi ích liên quan cũng sẽ ảnh hưởng tới chiều hướng phát triển của
vụ việc dân sự.
Đối với việc rút đơn khởi kiện, rút đơn trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thế
được tòa án chấp nhận . Theo nguyên tắc chung, rút đơn khởi kiện, yêu cầu là hành vi
định đoạt của nguyên đơn, người được yêu cầu được biểu hiện ở hai khía cạnh đó là sự
từ bỏ yêu cầu( dựa trên mặt nội dung) và sự từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con
đường tố tụng.
Nguyên đơn có thể rút 1 phần yêu cầu hoặc rút toàn bộ yêu cầu( điểm b khoản 1
Điều 59). Trước phiên tòa, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước phiên tòa, thẩm
phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án( điểm c khoản 1 Điều 192). Tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm, bị đơn rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình và việc rút đơn

đó là tự nguyện thì Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu
hoặc toàn bộ yêu cầu nguyên đơn đã rút( khoản 2 Điều 218).
Người yêu cầu trong việc dân sự có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của
mình. Tại phiên họp giải quyết việc dân sự trường hợp người yêu cầu rút một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu của mình và yêu cầu đó là tự nguyện thì tòa án chấp nhận và đình chỉ
giải quyết đối với phần yêu cầu hoặc toàn bộ yêu cầu của người yêu cầu.
Trường hợp nguyên đơn, người yêu cầu rút đơn kiện, yêu cầu trước khi mở vài
tại phiên tòa phuc thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự, để bảo đảm lợi ích hợp pháp
của 2 bên đương sự. Điều 269 BLTTDS 2004 Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị
đơn có đồng ý hay không và tùy vào từng trường hợp mà ra quyết định. Trong trường
hợp này đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án sơ thẩm và
phải chịu nửa án phí phúc thẩm.
Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của đương sự là những quyền tố tụng rất
quan trọng của đương sự. Nhưng việc thay đổi, bổ sung, rút yêu có được tòa án chấp
4
nhận hay không phụ thuộc vào ý chí tự nguyện của chủ thể. Theo đó ý chí cũng như
quyền tự dịnh đoạt của đương sự được thể hiện một cách đầy đủ.
b) quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thận giải quyết vụ việc dân
sự.
Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ việc dân sự các bên vẫn có quyền thương
lượng, hòa giải với nhau.Điều này xuất phát từ bản chất quan hệ dân sự, các bên bình
đẳng với nhau, tự do cam kết, xác lập thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Trong TTDS thỏa thuận mang ý nghĩa quan trọng, bởi vụ việc dân sử được tòa án giải
quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Vì vậy, đương sự
với tư cách 2 bên tham gia TTDS nếu cảm thấy sau khi hòa giải quyền lợi của mình đã
được bảo đảm thì phiên tòa hay phiên họp giải quyết sẽ không còn ý nghĩa, nếu tiếp tục
xét xử thì vừa tốn kém lại có thể không đem lại kết quả như mong muốn của các chủ
thể. BLTTDS 2004 đã tạo ra 1 khung pháp lý quan trọng về vấn đề này khi quy định:
“Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.

Mọi tác động bên ngoài ý chí của chủ thể dều bị coi là trái pháp luật và không
được công nhận“ Tôn trọng sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, không được
dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận không
phù hợp với ý chí của mình”( điểm a khoản 2 Điều 180). Việc hòa giải của các đương
sự cần kể tới vai trò quan trọng của tòa án trong việc tạo điều kiện và giải quyết những
vướng mắc trong tâm tư, tình cảm của đương sự và tòa án phải tuân theo các quy định
của pháp luật. Nhưng người quyết định vẫn là các đương sự.
Theo quy định tại Điều 220 BLTTDS tại phiên tòa so thẩm, Hội đồng xét xử sẽ
hỏi các đương sự có thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án hay không, nếu đương
sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và thỏa thuận của họ là tự nguyện,
không trái đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra quyết định công nhận việc thỏa thuận
của đương sự. Trong giai đoạn phúc thẩm, tuy BLTTDS không quy đinh tòa án cấp phú
thẩm phải hòa giải trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm nhưng
nếu tại tòa phú thẩm các đương sự thỏa thuận được với nhauvề việc giải quyết vụ án( tự
nguyện, không trái đạo đức xã hội) Hội đồng xét xử phúc thẩm ra bản án phúc thẩm, sủa
bản án sơ thẩm, công nhận sự hòa giải của các đương sự( Mục 5.1 , phần III Nghị quyết
05/2005/NQ- HĐTP)
Nguyên tắc tự định đoạt của đương sự trong việc hòa giải còn thỏa thuận ở
quyền tự thỏa thuận của đương sự. Theo đó, các đương sự có quyền tụ thỏa thuận không
thông qua tòa án, trong trường hợp Tòa án không phải người chủ động đưa vụ án ra hòa
giải mà các đương sự tự khỏa thuận với nhau
Như vậy, quyền tự định đoạt của đương sự thể hiện sự tôn trọng các quyền cơ
bản của con người, trong đó vai trò của đương sự luôn được đề cao trông tất cả các giai
đoạn tố tụng. Công dân có quyền tự bảo vệ mình trong khuôn khổ pháp luật và đạt được
kết quả phù hợp nhất đối với đương sự và xã hội. Đồng thời, nguyên tắc này đã góp
phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức và hiểu biết pháp luật, nâng cao trình độ
dân trí, giáo dục nếp sóng và làm theo pháp luật trong nhân dân.
3) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của tòa án
a) Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Xét trên phương diện tố tụng, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì quyền cử người đại
diện, quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cũng thuộc nội dung quyền
5

×