Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Những vấn đề liên quan đến tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích nói riêng thông qua những tình huống cụ thể đã được đưa ra.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.62 KB, 12 trang )

Lời mở đầu
Trong thời đại kinh tế thị trường với sự phát triển như vũ bão của
khoa học – kỹ thuật, tình hình tội phạm trên thế giới nói chung và ở
Việt nam nói riêng ngày càng diễn biến phức tạp. Trong xã hội xuất
hiện thêm nhiều loại tội mới, tỷ lệ những loại tội phạm như trộm cắp
tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, giết người, cố ý gây thương tích…
ngày càng cao, gây thiệt hại không nhỏ cho các cá nhân, tổ chức, Nhà
nước và xã hội. Vì vậy, vấn đề tội phạm ngày càng trở nên cấp bách
và được quan tâm đặc biệt.
Các tội xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của người khác là
một trong những nhóm tội được quy định sớm trong Luật Hình sự
nước ta. Trong đó tội cố ý gây thương tích là một trong những tội xâm
phạm tới sức khỏe của người khác mà trong những năm trở lại đây đã
và đang diễn biến hết sức phức tạp, ngày càng có nhiều chiều hướng
gia tăng, Hậu quả mà tội cố ý gây thương tích gây ra là rất lớn, có thể
ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe của người bị hại. Mỗi năm, tội
cố ý gây thương tích gây ảnh hưởng rất nhiều tới tình hình trật tự, an
ninh của xã hội; nhiều người bị xâm hại rất nghiêm trọng tới sức
khỏe; nhiều vụ án cố ý gây thương tích mà Bị cáo bị đưa ra xét xử
tuổi đời còn rất trẻ, có người chưa thành niên…Đăc biệt,trong mấy
năm gần đây dưới sự ảnh hưởng nhiều của phim ảnh bạo lực và nhiều
yếu tố khác tình hình tội cố ý gây thương tích ngày càng diễn biến
phức tạp, người phạm tội ngày càng liều lĩnh, coi thường tính mạng
con người cũng như coi thường pháp luật, sử dụng ngày càng nhiều
hơn các loại vũ khí nóng, vũ khí nguy hiểm…Nhiều vụ cố ý gây
thương tích có quy mô tổ chức lớn, nhiều người tham gia, có tính chất
xã hội đen.
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cố ý gây
thương tích trong thời gian qua của nước ta tuy đã được các cấp, các
ngành, các cơ quan tư pháp chú trọng nhưng do những nguyên nhân
chủ quan cũng như khách quan mà kết quả chưa thực sự như mong


muốn, tình hình tội phạm của loại tội này ngày càng gia tăng nhiều
hơn. Với những vấn đề thực tế này, có thể thấy việc tìm hiểu, nghiên
cứu để hoàn thiện luật pháp về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là vấn đề
cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, bài luận sẽ đi sâu vào việc tìm hiểu những vấn đề liên
quan đến tội phạm nói chung, tội cố ý gây thương tích nói riêng thông
qua những tình huống cụ thể đã được đưa ra.
I. Khái niệm tội phạm và các vấn đề liên quan:
1. Khái niệm tội phạm:
Điều 8 – Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
nam năm 1999 quy định: “ tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an
toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật
tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.”
2.Các dấu hiệu (đặc điểm) của tội phạm:
Tội phạm, theo Luật Hình sự của Việt nam, phải là hành vi của
con người. Những gì chỉ mới tồn tại trong tư tưởng, chưa thể hiện ra
bên ngoài bằng hành vi thì không phải là tội phạm. Chỉ qua hành vi
của mình, con người mới có thể tác động vào khách thể, gây thiệt hại
và nguy hiểm nhất định cho xã hội đồng thời, những ý nghĩ, tư tưởng
chỉ có thể xác định qua những biểu hiện bên ngoài mà trước hết là
hành vi. Theo Luật Hình sự Việt nam, hành vi bị coi là tội phạm được
phân biệt với hành vi không phải là tội phạm qua 4 dấu hiệu:
a.Tính nguy hiểm cho xã hội:
Đây là dấu hiệu cơ bản, quan trọng nhất, quyết định các dấu hiệu

khác của tội phạm. Hành vi nào đó sở dĩ bị quy định trong Luật Hình
sự là tội phạm và phải chịu trách nhiệm hình sự vì nó có tính nguy
hiểm cho xã hội, có nghĩa là gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã
hội được Luật Hình sự bảo vệ. Khi một hành vi nguy hiểm cho xã hội
gây nên thiệt hại đáng kể cho các lợi ích của cá nhân, Nhà nước và xã
hội với tính chất là khách thể được bảo vệ bằng pháp luật Hình sự thì
hành vi đó bị luật Hình sự cấm.
b.Tính có lỗi:
Lỗi là thái độ chủ quan của con người đối với hành vi nguy hiểm
cho xã hội của mình và đối với hậu quả của hành vi đó, thể hiện dưới
dạng vô ý hoặc có ý. Người được coi là có lỗi khi người đó thực hiện
hành vi gây hại cho xã hội nếu hành vi ấy là kết quả của sự tự lựa
chọn và quyết định của chủ thể trong khi có đủ điều kiện quyết định
thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
c. Tính trái pháp luật Hình sự:
Đây là đặc điểm pháp lý của tội phạm được gi nhận trong bộ
Luật Hình sự(khoản 1 điều 8), tức là chỉ có hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị Luật Hình sự cấm thì việc thực hiện nó một cách có lỗi mới bị
coi là tội phạm, nó phản ánh trực tiếp nội dung của nguyên tắc chung
quan trọng nhất của Luật Hình sự - nguyên tắc pháp chế - trong việc
tội phạm hóa những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Tính trái pháp
luật Hình sự là sự ngăn cấm việc thực hiện tội phạm bởi một quy
phạm pháp luật Hình sự tương ứng bằng việc đe dọa áp dụng sự trừng
phạt về hình sự đối với người phạm tội.
d. Tính phải chịu hình phạt:
Là dấu hiệu kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái
pháp luật Hình sự. Bất cứ hành vi phạm tội nào, do tính nguy hiểm
cho xã hội cũng đều bị đe dọa phải chịu hình phạt là biện pháp cưỡng
chế Nhà nước có tính nghiêm khắc nhất trong hệ thống những biện
pháp cưỡng chế Nhà nước.

3. Phân loại tội phạm:
Tội phạm tuy có chung các dấu hiệu như đã trình bày nhưng
những hành vi phạm tội cụ thể có tính chất và mức độ nguy hiểm cho
xã hội rất khác nhau. Bởi vậy, vấn đề phân hóa và cá thể hóa hình
phạt đã được đặt ra và coi là nguyên tắc của Luật Hình sự Việt nam.
Thể hiện nguyên tắc này, Luật Hình sự Việt nam phân loại tội phạm
thành 4 nhóm tội khác nhau: Tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng và được quy định tại Khoản 3 Điều 8 Bộ Luật Hình sự. Như
vậy, các nhóm tội phạm được phân biệt với nhau bởi các dấu hiệu về
mặt nội dung chính trị, xã hội và hậu quả pháp lý. Việc phân loại tội
phạm có ý nghĩa rất lớn trong việc áp dụng nhiều quy định của Bộ
Luật Hình sự như các nguyên tắc xử lý, quy định tuổi chịu trách
nhiệm hình sự, quy định thời hiệu thi hành bản án…Phân loại tội
phạm còn là cơ sở để cụ thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt.
Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa đối với việc quy
định một số chế định tạm giam, tạm giữ trong Bộ luật Tố tụng hình
sự.
4. Cấu thành tội phạm:
Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính
đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong Luật Hình sự.
Về mặt cấu trúc, tội phạm được hợp thành bởi 4 yếu tố:
- Chủ thể: Là người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị luật cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
- Khách thể: Là quan hệ xã hội được pháp luật Hình sự bảo vệ
tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm nhưng bị tội phạm xâm
hại đến và gây thiệt hại nhất định.
- Mặt chủ quan: Là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội
phạm, bao gồm: Lỗi, mục đích và động cơ phạm tội.

- Mặt khách quan: Là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm,
bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã
hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cũng như những
điều kiện bên ngoài khác(công cụ, phương tiện, thời gian, địa điểm,
hoàn cảnh phạm tội…)
Mỗi yếu tố trên đều có mặt quan trọng của nó và sự thống nhất
giữa 4 yếu tố này tạo thành hình thức cấu trúc, thể hiện đầy đủ nôi
dung chính trị, xã hội của tội phạm. Những hành vi phạm tội có tính
chất và mức độ nguy hiểm choc ho xã hội khác nhau thì về mặt cấu
trúc, 4 yếu tố cấu thành tội phạm cũng có những nội dung biểu hiện
khác nhau. Chính sự khác nhau này quyết định tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
II. Tội cố ý gây thương tích.
Theo Luật Hình sự quy định, tội cố ý gây thương tích được thực
hiện bởi hành vi tác động đến than thể người khác làm cho người này
bị thương, bị tổn hại đến sức khỏe như: Đâm, chem, đấm đá, đốt cháy,
đầu độc tùy các thủ đoạn…
Đó là những hành vi có khả năng gây ra những thương tích nhất
định làm tổn hại cho sức khỏe của người khác. Đây là hình thức làm
tổn hại sức khỏe của người khác bằng cách tác động vào cơ thể con
người, gây tổn thương cho một bộ phận hay toàn bộ cơ thể hoặc gây
tổn hại hay mất chức năng của một cơ quan nào đó trong cơ thể con
người: Gây mù mắt, điếc tai, liệt chân, liệt tay…
Hành vi phạm tội có thể được thực hiện dưới dạng hành động
phạm tội. Nghĩa là người phạm tội làm một việc bị pháp luật nghiêm
cấm không được làm nhằm làm biến đổi tình trạng bình thường cho
sức khỏe của người khác, như đấm đá bằng tay, chân, sử dụng các loại
vũ khí hay xúc vật. Hành vi phạm tội cũng có thể được thực hiện dưới
dạng không hành động nghĩa là người phạm tội không làm một việc
mà pháp luật yêu cầu phải làm mặc dù có đủ điều kiện để làm cùng

với mục đích làm biến đổi tình trạng bình thường cho sức khỏe của
người khác như: Bác sĩ cố ý không cấp cứu cho người bệnh hoặc có
thể do người phạm tội dung sức ép nào đó bắt người bị hại phải tự gây
thương tích cho mình như bắt cắt một bộ phận nào đó trên cơ thể bệnh
nhân, bắt cắt ngón tay, hay phải uống thuốc trụy thai…
Theo quy định của Pháp luật Hình sự Việt nam thì bất cứ tội
phạm nào cũng có 4 yếu tố cấu thành tội phạm. Vì vậy, cấu thành tội
của tội cố ý gây thương tích cũng gồm 4 yếu tố sau:
+ Chủ thể của tội có ý gây thương tích cho người khác là một
con người cụ thể đã thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác
có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự(như:có khả năng nhận thức
được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng
điều khiển được hành vi đó) và đạt độ tuổi theo quy định của pháp
luật Hình sự(căn cứ theo Khoản 2 Điều 8 và Điều 58 Bộ luật Hình sự
thì phải đủ 16 tuổi trở lên tính đến ngày phạm tội)
+ Khách thể: là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của
công dân.
+ Mặt chủ quan: Lỗi cố ý là dấu hiệu bắt buộc, kẻ phạm tội nhận
thức rõ hành vi gây thương tích cho người khác của mình có tính chất
nguy hiểm cho xã hội thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra. Lỗi cố ý trong tội
này, là lỗi cố ý trực tiếp hoặc cũng có thể là lỗi cố ý gián tiếp. Lỗi cố
ý trực tiếp là lỗi của người phạm tội khi thực hiện hành vi gây thương
tích cho người khác nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi của mình, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn
cho hậu quả xảy ra. Còn lỗi cố ý gián tiếp là lỗi của người phạm tội
khi thực hiện hành vi gây thương tích thấy trước hậu quả của hành vi
đó tuy không mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
Người phạm tội thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác
bằng lỗi cố ý trực tiếp có tính chất nguy hiểm cao hơn người thực hiện

hành vi bằng lỗi cố ý gián tiếp thông qua thái độ tâm lý của họ.
Mục dích và động cơ phạm tội cố ý gây thương tích không phải
là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm này mà nó chỉ có ý
nghĩa trong việc lượng hình.
+ Mặt khách quan: Là hành vi có khả năng gây ra thương tích
hoặc tổn thương khác làm tổn hại đến sức khỏe của con người. Trái
pháp luật hành vi này gây ra những thiệt hại đó là những thương tích
hoặc tổn hại cho sức khỏe.

×