Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

ĐẶC TRƯNG THI PHÁP THỂ LOẠI PHÚ TRONG văn học VIỆT NAM THỜI TRUNG đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.22 KB, 7 trang )

ĐẶC TRƯNG THI PHÁP THỂ LOẠI PHÚ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI
TRUNG ĐẠI
Nông Văn Ngoan
TÓM TẮT
Văn học trung đại Việt Nam hay văn học Việt Nam thời trung đại là tên gọi để chỉ giai
đoạn văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX ở nước ta. Thời kỳ văn học chịu sự chi phối của
hệ tư tưởng phong kiến và thi pháp văn học trung đại với những thể loại văn học chủ yếu
mượn từ Trung Quốc được sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm. Phú là một thể loại như vậy.
Ở bài viết này, chúng tôi sẽ khái quát quá trình du nhập và phát triển của thể loại Phú
vào Việt Nam. Đồng thời, chỉ ra những khác biệt của thể loại này trong văn học Việt Nam và
văn học Trung Quốc – nơi nó đã sinh ra. Và đặc biệt, chúng tôi sẽ tập trung đi sâu phân tích
những đặc trưng về thi pháp thể loại của Phú trung đại Việt Nam trên cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật.
Từ khoá: văn học trung đại, Phú, thi pháp, đặc trưng, thể loại.
1. MỞ ĐẦU
Thể loại Phú trong văn học Việt Nam thời trung đại là một thể loại mà dân tộc ta vay
mượn của văn học Trung Quốc. Trong quá trình phát triển ở nước ta, thể loại này đã đạt được
những thành tựu rực rỡ và có sự vận động, biến đổi khác với thể loại ở nơi mà nó đã sinh ra.
Nghiên cứu đặc trưng thi pháp của thể loại là một vấn đề quan trọng từ đó có thể hiểu
sâu hơn bản chất và quy luật phát triển của thể loại. Thể loại Phú trong văn học Việt Nam thời
trung đại không phải là trường hợp ngoại lệ.
2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài những đặc trưng thi pháp của thể loại Phú trong văn
học Việt Nam thời trung đại.
Phạm vi nghiên cứu là Phú chữ Hán và Phú chữ Nôm trong văn học Việt Nam từ thế
kỷ X đến hết thế kỷ XIX.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Bài viết sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp lịch sử: Thể loại Phú trong văn học Việt Nam thời trung đại là một thể
loại mang tính lịch sử - xã hội. Nó ra đời và phát triển trong những điều kiện lịch sử - xã hội


nhất định và có một quá trình vận động và phát triển cùng với quy luật vận động và phát triển
của thể loại trong văn học Việt Nam thời trung đại.
Thạc sĩ, Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên
Email: , Tel: 0984.414.922
1
Phương pháp so sánh: Phương pháp này có ý nghĩa trong việc so sánh thể loại Phú
trong văn học Trung Quốc và thể loại Phú trong văn học Việt Nam thời trung đại.
Thi pháp học: Thi pháp học đặc biệt là thi pháp thể loại là phương pháp quan trọng
và không thể thiếu trong việc nghiên cứu những đặc trung của thi pháp thể loại Phú – nội
dung chính của đề tài này.
Phương pháp thống kê phân loại: Nhằm tập hợp các sáng tác, phân loại theo từng
bộ phận Phú chữ Hán và Phú chữ Nôm để thuận tiện cho quá trình nghiên cứu, phục vụ mục
đích nghiên cứu.
Phương pháp tổng hợp, phân tích: Để có cái nhìn trên phương diện tổng thể, tìm ra
những đặc trưng về thi pháp của thể loại Phú trong văn học Việt Nam thời trung đại.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khái quát về văn học Việt Nam thời trung đại
Thời trung đại là một thuật ngữ chưa có những nhận định hoàn toàn thống nhất trong
các công trình nghiên cứu đã được công bố. Tuy nhiên, hầu hết đều cho rằng, thời trung đại
tương ứng với thời kỳ phong kiến trong lịch sử. Ở Việt Nam, thời trung đại được tính từ khi
Ngôn Quyền đánh thắng quân Nam Hán mở ra một thời kỳ độc lập lâu dài của dân tộc cho
đến khi thực dân Pháp tiến hành xong công cuộc bình định Việt Nam. Tức là trong giai đoạn
từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX. Văn học trung đại Việt Nam nằm trọn trong giai đoạn này.
Văn học Việt Nam trung đại chịu sự chi phối của ý thức hệ phong kiến và thi pháp văn
học trung đại. Đó là một giai đoạn văn học chịu ảnh hưởng của văn học Trung Quốc từ thể
loại đến ngôn ngữ để sáng tác văn học. Trong đó, thể loại có tính quy phạm rất chặt chẽ. Tuy
nhiên, sự xuất hiện của chữ Nôm từ cuối thế kỷ XIII đã mang đến một diện mạo mới cho văn
học dân tộc. Nói đến văn học trung đại Việt Nam là nói đến nền văn học Hán và Nôm tạo
thành tính song ngữ, một đặc trưng tiêu biểu của văn học Việt Nam thời trung đại.
3.2. Khái quát về thể loại Phú

Phú là một thể văn cổ của Trung Quốc, có thể nảy sinh từ thời Chiến Quốc, định hình
và thịnh hành từ đời Hán, tiếp tục phát triển và có sự thay đổi qua các thời Đường, Tống.
Phú được du nhập vào Việt Nam từ khá sớm, có thể từ thời Đường (giai đoạn phong
kiến phương Bắc đô hộ Việt Nam), đến thời Trần, Phú đã trở thành thể loại khá thông dụng.
Trong quá trình phát triển, Phú được chia thành các loại: “tao phú” (Phú ly tao – chỉ
Sở từ do Khuất Nguyên và Tống Ngọc sáng tác), “Hán phú” (Phú thời Hán), “Biền phú” (Phú
biền ngẫu), “luật phú” (Phú luật Đường), “văn phú” (phú văn – thời Tống có xu hướng văn
xuôi hoá thể loại Phú). Nhưng nhìn chung, Phú được chia thành Phú cổ thể và Phú cận thể.
Thạc sĩ, Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên
Email: , Tel: 0984.414.922
2
Về nội dung, Phú vốn nghĩa là phô bày mô tả: “Phú giả, phô dã” (Phú là trình bày)
(Lưu Hiệp – Văn tâm điêu long). Nếu thơ thiên về tả tình thì phú thiên về tả cảnh. Tuy nhiên,
Phú “tả vật nói chí” nên bên cạnh tả cảnh, phú còn chú ý đến việc nói chí, thông qua miêu tả
sự vật mà bày tỏ tình, chí. Về điểm này phú thống nhất với quan niệm “thi ngôn chí” của văn
học thời trung đại. Ví dụ, bài Bạch Đằng giang phú (phú sông Bạch Đằng) của Trương Hán
Siêu, thông qua việc tả cảnh “Giương buồm going gió chơi vơi/ Lướt bể chơi trăng mải miết”
tác giả muốn bày tỏ “tráng chí bốn phương vẫn còn tha thiết”.
Về nghệ thuật, Phú chú trọng việc “phô trương văn vẻ”. Trong phú thường có nhiều từ
ngữ, hình ảnh hoa mĩ, diễm lệ, chú trong cái đẹp về thanh điệu, vần điệu, tiết tấu, sử dụng
nhiều biện pháp tu từ. Tất cả những điều này làm cho phú trở thành một thể văn vừa linh hoạt
vừa chặt chẽ, vừa phô bày sự vật vừa nói chí, vừa đậm chất trữ tình, vừa đậm chất triết lý.
Thể loại phú trong văn học Việt Nam thời trung đại với tư cách là một thể tài tiếp thu
từ phú Trung Quốc, thế nên về mặt đặc trưng, hai loại này cơ bản không khác nhau. Ngoài sự
khác biệt không nhiều về mặt không gian, điểm sáng tạo lớn nhất của Phú Việt Nam là về mặt
chất liệu, tức từ một chất liệu đơn nhất là Hán tự, người Việt đã vận dụng chính lời ăn tiếng
nói của mình để viết phú, tạo nên một thể đặc sắc với chất liệu đặc biệt – phú Nôm.
Một hiện tượng độc đáo của thể loại Phú trong văn học Việt Nam thời trung đại là
chùm phú Diệp mã nhi phú (Phú con ngựa lá) của Nguyễn Phi Khanh và Đoàn Xuân Lôi và
chùm Phú núi Chí Linh của các tác giả thời Lê Sơ. Sách Quần hiền phú tập của Nguyễn Trù

chép các bài Chí Linh sơn phú (phú núi Chí Linh) của Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý
Tử Tấn, Trình Tuấn Du đã ghi chú là “ngự đề” tức là đề tài do vua đưa ra, và còn dẫn cả
những lời “ngự bình” tức là lời bình luận của vua. Bốn bài phú chữ Hán của bốn tác giả khác
nhau cùng về một đề tài, có thể thấy sự nhất trí về tư tưởng kết hợp với sự đa dạng về phong
cách.
Thể loại phú với tư cách là một thể loại nghệ thuật cổ điển có vị trí quan trọng trong
văn học Việt Nam. Đó là thể loại chẳng những có nội dung độc đáo Việt Nam, mà cung cấp
một môi trường rèn luyện ngôn ngữ, có tác dụng làm cho các tác phẩm thuộc các thể loại khác
như hịch, cáo, văn tế thêm điêu luyện. Một mặt khác với cái nhìn văn xuôi phú là thể loại có
vai trò tiên phong dẫn nhập ngôn từ văn xuôi, đời thường vào văn học. Trong quá trình Việt
hoá phú đã từ thể loại ngợi ca tụng tán vua chúa dần dần chuyển hoá và phân hoá thành phú tỏ
chí, phú giáo huấn, phú cảnh, phú ẩn cư, phú tuyên truyền và phú tự trào, châm biếm, phê
phán. Đây là những điều khác với thể loại phú trong văn học Trung Quốc.
3.3. Đặc trưng thi pháp thể loại Phú trong văn học Việt Nam thời trung đại
3.3.1. Về nội dung
Tính chất tán tụng là đặc trưng tiêu biểu về nội dung của thể loại Phú.Thể loại phú
trong văn học Việt Nam cũng thế. Có hai loại phú – phú phúng gián và tỏ chí. Phú phúng gián
là thể loại viết cho vua, ngợi ca cuộc sống vương giả, để ngụ ý khen chê kín đáo.Cảm hứng
ngợi ca sự nghiệp thống nhất của đất nước rất rõ:
Thạc sĩ, Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên
Email: , Tel: 0984.414.922
3
Ôi, thánh triều ta, sung thượng văn học
Thiên hạ nhất thống, thái bình thịnh trị
Nếu có kiếm ni, dung đến làm chi.
(Trảm xà kiếm phú – Sử Hy Nhan, bản dịch)
hay:
Giặc tan muôn thuở thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
(Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu, bản dịch)

Đặc trưng thứ hai về nội dung của thể loại Phú là tính chất triết lý, nghị luận. Không
có thể loại văn chương hình tượng nào mà phần triết lý nghị luận lại quan trong như thể loại
phú. Có thể nói tất cả nội dung mô tả và tự sự ở bài phú đều nhằm phục vụ cho nội dung nghị
luận. Chẳng hạn trong đoạn cuối Bạch Đằng giang phú, tác giả thể hiện triết lý về lòng nhân:
Nhân nhân hề văn danh
Phỉ nhân hề câu dẫn
(Người có nhân lưu danh mãi mãi
Kẻ không có nhân sẽ sớm mai một lãng quên)
và đức cao:
Giặc tan muôn thuở thăng bình
Bởi đâu đất hiểm cốt mình đức cao.
Nội dung triết lý nghị luận trong thể phú thường ngắn gọn và nằm ở đoạn cuối của bài;
nhưng cũng đôi khi được phân bố trong toàn bài.
Đặc trưng thứ ba về nội dung của thể loại Phú là tính chất tự trào, tự thuật. Đặc biệt là
trong phú Nôm. Tiếng cười tự trào thường xuyên hiện diện, hình thành nên một mảng sáng tác
độc đáo của phú Nôm trung đại. Cũng là nói về kẻ sĩ nhưng nếu phú chữ Hán chủ yếu đề cao
nét đẹp chuẩn mực của người trí thức thì phú quốc âm nhìn ngắm, trêu ghẹo, cười cợt họ
ở khuôn mặt đời thường. Chẳng hạn là có thể thấy ngay sự hài hước tràn trên câu chữ trpng
Phú của Trần Tế Xương:
Ý hẳn thầy gàn gàn dở dở,
Cho nên thầy luẩn quẩn loanh quanh.
Thạc sĩ, Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên
Email: , Tel: 0984.414.922
4
(Phú thầy đồ- Trần Tế Xương)
3.3.2. Về hình thức
Tính song ngữ vừa là đặc trưng của văn học trung đại Việt Nam đồng thời vừa là đặc
trưng về hình thức của nhiều thể loại văn học trong đó có Phú. Trong văn học Việt Nam (cũng
như ở Trung Hoa), phú là một thể văn có từ rất rất sớm, có phú chữ Hán và phú chữ Nôm.
Hiện tượng song ngữ trở thành một đặc trưng của văn học Việt Nam thời trung đại nói chung

và ở một số thể loại nói riêng trong đó có thể loại phú.
Đặc trưng thứ hai là sự xuất hiện của những chùm phú trong văn học trung đại Việt
Nam. Đó là trường hợp của Diệp mã nhi phú (Phú con ngựa lá) của Nguyễn Phi Khanh và
Đoàn Xuân Lôi, cùng với các bài Chí Linh sơn phú (phú núi Chí Linh) của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du.
Với trường hợp của chùm Diệp mã nhi phú (Phú con ngựa lá), sách Quần hiền phú tập
chú rằng: sau khi Hồ Quý Ly dựng thành Tây Đô ở Thanh Hoá, có người dâng con bọ lá hình
con ngựa; triều đình cho là điềm tốt, mới đặt tên là Con ngựa lá và ra đề cho các danh sĩ
đương thời làm bài phú về việc này. Số người làm bài Diệp mã nhi phú (Phú con ngựa lá)
chắc là khá nhiều, song hiện nay mới chỉ tìm được được bài của Nguyễn Phi Khanh và Đoàn
Xuân Lôi.
Chùm Chí Linh sơn phú (Phú núi Chí Linh) hiện nay còn bốn bài của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn và Trình Thuấn Du. Các bài phú này, tỉ mỉ hoặc đại cương, đã
vẽ lại những chặng đường gian khổ mà cuộc kháng chiến của Lê Lợi trải qua và đã nêu cao
đại nghĩa của dân tộc.
KẾT LUẬN
Phú là một thể văn chương cổ của Việt Nam, xuất phát từ Trung Hoa. Đây là một
thể văn vần có từ thời nhà Hán nhưng thể phú thông dụng nhất tại Việt Nam là loại đặt ra từ
đời nhà Đường, nên còn gọi là Đường phú. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển ở Việt Nam
thể loại Phú cũng có những đặc điểm khác biệt so với thể loại Phú ở Trung Quốc. Những
điểm khắc biệt này tạo thành đặc trưng của thi pháp thể loại Phú trong văn học Việt Nam thời
trung đại.
Bên cạnh những đặc trưng về nội dung vốn có của thể loại Phú như tính chất tán tụng,
tính chất triết lý nghị luận. Phú Việt Nam còn có tính chất tự trào tự thuật trong bộ phận viết
bằng chữ Nôm. Về mặt hình thức, thể loại Phú trong văn học Việt Nam thời trung đại có tính
chất song ngữ. Tức là cùng một thể loại nhưng sử dụng hai ngôn ngữ để sáng tác là chữ Hán
và chữ Nôm. Cùng với tính song ngữ, hiện tượng chùm Phú cũng là một đặc trưng của thể
loại Phú trong văn học trung đại Việt Nam.
Thạc sĩ, Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên
Email: , Tel: 0984.414.922

5
POETIC SPECIFIC TO ODE GENRE IN VIETNAMESE
MIDDLE-AGES LITTERATURE
Nong Van Ngoan
SUMMARY
Vietnamese middle-ages literature or Vietnames literature dynasty middle-ages is the
name talk about literature stage from the 10th to the 19
th
century in our country. The literature
dynasty had been affected feudal contemporary system and middle-ages literature of poetic
with almost genres borrow from Chinese literature creates made of Chinese’s Han language
and Chinese-strancribed Vietnamese. In that, the ode is a typical genre.
In this report we to go the general imported process and growing process of ode genre
in Vietname. Concurrently, it differentiates characteristics bettwen vietnamese ode with
Chinese ode. Speacily, we focus deep analytical specific charateristics about the ode genre
poetic in Vietnames literature dynasty middle-ages.
Key words: middle-ages literature, ode, specific, poetic, genre.
Thạc sĩ, Khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên
Email: , Tel: 0984.414.922
6
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Hiệp (1997), Văn tâm điêu long (Phan Ngọc dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Đinh Gia Khánh (chủ biên) – Bùi Duy Tân – Mai Cao Chương(1998), Văn học Việt
Nam (Thế kỷ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Nguyễn Lộc (tái bản 2004): Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Trần Đình Sử (2005): Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội.
5. Lã Nhâm Thìn, (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc nhìn
thể loại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

6. Tổng tập văn học trung đại Việt Nam (1997), Nxb Khoa học Xã hội, H.
7. Lê Trí Viễn (1996): Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.

×