Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm. Một số vấn đề lí luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.99 KB, 50 trang )

Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 1 - NguyÔn ThÞ HËu
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây tình hình tội phạm nước ta đang có chiều
hướng gia tăng và có nhiều diễn biến phức tạp. Phổ biến hiện nay là những vụ
án nghiêm trọng có nhiều bị cáo tham gia, nhất là trong các vụ án tham nhũng
xảy ra gần đây đang được dư luận xã hội quan tâm theo dõi, lên án. Trong đồng
phạm, mỗi bị cáo khi thực hiện tội phạm có thể có vai trò khác nhau. Sự liên
kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa những người cùng phạm tội càng củng cố quyết tâm
phạm tội của cả bọn. Điều đó giúp chúng ta nhận ra sự nguy hiểm của loại tội
phạm được thực hiện dưới hình thức đồng phạm. Chính vì vậy, việc đấu tranh
phòng ngừa tội phạm nói chung và tội phạm duới hình thức đồng phạm nói
riêng là việc làm cấp bách luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đề cao và
chú trọng. Đó là lí do để tác giả khoá luận chọn và nghiên cứu đề tài:
Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm. Một số vấn đề lí
luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài
Mục đích của đề tài là tập trung nghiên cứu bản chất, tính chất và mức
độ nguy hiểm của đồng phạm; tính chất và hành vi của từng loại người đồng
phạm; từ đó, xác định trách nhiệm hình sự (TNHS) cụ thể cho họ.
Việc nghiên cứu vấn đề đồng phạm có ý nghĩa lí luận và thực tiễn cơ bản
sau đây:
Về lí luận, nghiên cứu đồng phạm giúp chúng ta xác định chính xác cơ sở
pháp lý của đồng phạm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc truy cứu TNHS của
người đồng phạm.
Nghiên cứu vấn đề đồng phạm có ý nghĩa đặc biệt lớn trong công tác đấu
tranh, phòng ngừa tội phạm, giúp Tòa án xét xử đúng người, đúng tội và đúng
pháp luật, không bỏ lọt tội phạm. Việc xác định TNHS cho từng người đồng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 2 - NguyÔn ThÞ HËu
phạm còn giúp cho cơ quan tư pháp xác định đúng tội danh và hình phạt tương
ứng trong vụ án có nhiều người tham gia.


3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận liên quan đến việc xác
định TNHS của những người đồng phạm, đồng thời nghiên cứu thực tiễn xét xử
những vụ án đồng phạm. Từ đó đánh giá về tình hình tội phạm nói chung, đồng
phạm nói riêng trong giai đoạn hiện nay, đưa ra kiến nghị, đề xuất góp phần
hoàn thiện chế định đồng phạm của Bộ luật Hình sự (BLHS) trong tương lai.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đựợc nghiên cứu dựa trên cơ sở lí luận là quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về đấu tranh phòng chống tội
phạm. Bên cạnh việc sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật, đề tài
còn sử dụng các phương pháp so sánh, lôgic, phân tích, chứng minh và tổng
hợp.
5. Kết cấu khóa luận
Xuất phát từ nội dung, yêu cầu của đề tài, ngoài mở đầu và kết luận khoá
luận được kết cấu bởi hai chương sáu mục:
Chương I: Khái niệm, dấu hiệu pháp lí và hình thức của đồng phạm
Chương II: Trách nhiệm hình sự của những người đồng phạm
Khoá luận tốt nghiệp - 3 - Nguyễn Thị Hậu
Chng 1
Khái niệm, dấu hiệu pháp lý và
hình thức của đồng phạm
1.1. Khỏi nim
Ti phm cú th do mt ch th thc hin, cng cú th l s phi hp
cựng tham gia ca nhiu ch th khỏc nhau. Khi mt ti phm c thc hin
bi nhiu ngi phm ti thỡ vic xỏc nh TNHS i vi h l rt phc tp.
Mt trong nhng c s quan trng chỳng ta xỏc nh c ỳng ngi ỳng
ti chớnh l nhng qui nh ó c phỏp in húa trong cỏc BLHS.
Lut hỡnh s cỏc nc trờn th gii u cú quy nh v ng phm. B
lut s ca nc Cng hũa nhõn dõn Trung Hoa 1979 ti iu 22 quy nh :

Hai hay nhiu ngi c ý cựng thc hin mt ti phm l ng phm [8,
tr.14]. Theo iu 33 B lut hỡnh s ca Liờn Bang Nga cng cú quy nh:
Hai hay nhiu ngi cựng c ý thc hin mt ti c ý l ng phm [8,
tr.58]. Phỏp lut hỡnh s ca cỏc nc trờn th gii cú nhng quy nh rt a
dng v ng phm. Nhng iu m chỳng ta quan tõm hn c ú chớnh l
nhng quy nh trong phỏp lut hỡnh s Vit Nam v trng hp nhiu ngi
cựng tham gia v ng phm.
Trờn lónh th ca Nh nc Vit Nam trc õy, trong thi k phong
kin, cng ó cú cỏc quy nh s khai v ng phm. Lut hỡnh s phong kin
c hỡnh thnh v phỏt trin trờn c s ca nhiu ch nh khỏc nhau, thỡ vn
ng phm ó bc u c cp ti. B Quc triu hỡnh lut nm
1483 di triu nh Lờ ó xut hin nhng quy nh v vn nhiu ngi cựng
phm ti. Mc dự cha a ra nh ngha v ng phm nhng B lut ó cú
nhng quy nh v TNHS cho nhng ngi tham gia phm ti. iu 454 quy
nh: Nhng k ng mu vi nhau i n cp nhng khi i thỡ li khụng i,
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 4 - NguyÔn ThÞ HËu
người đi lấy được của về chia nhau, mà kẻ đồng mưu ở nhà cũng lấy phần, thì xử
tội như là có đi ăn cướp (ăn trộm cũng vậy) nếu không lấy được phần chia thì xử
lưu đi châu gần. Trước kia vẫn từng đi ăn cướp mà khi ấy không đi, dù không lấy
phần cũng xử tội như đi ăn cướp”. Hoặc Điều 539 quy định: “Những kẻ xúi
giục cho người ta không biết là phạm pháp, hay là biết phép mà cứ xúi giục họ
làm trái phép, cũng là để cho người ta phạm pháp rồi bất ngờ tố cáo hay là để
người khác bắt, hay tố cáo, chủ ý để lấy thưởng hay hiềm khích mà xúi giục để
cho người ta phạm tội, thì cũng bị xử như người phạm pháp”. Việc ghi nhận
TNHS đối với “kẻ đồng mưu” hay “người xúi giục người khác phạm pháp”
trong hai Điều luật trên cho thấy chế định đồng phạm đã được đề cập đến trong
luật hình sự phong kiến Việt Nam. Bộ “Quốc triều hình luật” thể hiện đường lối
xử lý của Nhà nước phong kiến dưới triều Lê, Điều 35 quy định: “Nhiều người
cùng phạm một tội, thì lấy người khởi xướng làm đầu, người a tòng được giảm
một bậc. Nếu tất cả những người trong nhà cùng phạm một tội, chỉ bắt người tôn

trưởng ”.
Sau ngày thành lập Nhà Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (nay là Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam) Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
liên quan đến đồng phạm. Sắc lệnh số 233-SL (17/11/1946) quy định: “Nhiều
người phạm tội đưa hối lộ và hối lộ có thể bị xử và tịch thu nhiều nhất là 3/4 tài
sản, những người đồng phạm cũng bị xử như trên”. Sắc lệnh số 133-SL
(20/01/1959) và Pháp lệnh ngày 30-10-1967 về trừng trị những tội phản cách
mạng cũng quy định trường hợp phạm tội của nhiều người trong đó bao gồm
bọn chủ mưu, bọn cầm đầu và bọn tham gia tổ chức phản cách mạng.
Thông qua các quy định trên cho thấy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
hình sự là cả một quá trình. Cho đến giai đoạn này chúng ta vẫn chưa có một
định nghĩa thống nhất về đồng phạm. Thành tựu lập pháp chỉ mới dừng lại ở
quy định các trường hợp phạm tội có đồng phạm như “phạm tội có tổ chức”,
“phạm tội có móc ngoặc” hay quy định những loại người cụ thể trong vụ phạm
tội có nhiều người cùng liên kết thực hiện như bọn chủ mưu, bọn cầm đầu hay
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 5 - NguyÔn ThÞ HËu
người xúi giục. Trong thực tế, có nhiều thời kỳ việc nhiều người cố ý cùng
phạm một tội được coi là “cộng phạm”. Và đến năm 1963, khái niệm này đã
được khẳng định lại trong báo cáo tổng kết ngành Toà án: “Coi là cộng phạm
nếu hai hoặc nhiều người cùng chung ý chí và hành động, nghĩa là hoặc tổ chức
hoặc xúi giục hoặc giúp sức hoặc tham gia thực hiện tội phạm để cùng đạt tới kết
quả phạm tội”.
Chúng ta chưa thể tìm thấy sự phân hoá TNHS đối với những kẻ cùng
thực hiện tội phạm nhưng qua đây chúng ta đã có được tư duy để phân biệt giữa
trường hợp phạm tội riêng lẻ và trường hợp phạm tội có sự tham gia cùng thực
hiện của nhiều người. Những quy định trên đây sẽ là tài liệu quan trọng và thực
sự quý báu để nhà làm luật tiếp tục hoàn thiện chế định đồng phạm trong tương
lai.
Pháp luật hình sự giai đoạn sau này có những bước tiến nhảy vọt với sự
ra đời của BLHS năm 1985. Tại đây, lần đầu tiên khái niệm đồng phạm đã

chính thức được sử dụng, Khoản 1 Điều 17 nêu rõ: “ Hai hoặc nhiều người cố ý
cùng thực hiện một tội phạm là đồng phạm” [ 2, tr.22]. Khái niệm này đã thay
thế hoàn toàn khái niệm “ cộng phạm” vẫn được sử dụng trước đây. Đến năm
1999 BLHS mới ra đời, một lần nữa chế định đồng phạm được khẳng định kế
thừa và phát triển. Điều 20 BLHS năm 1999 quy định: “Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm” [3, tr.24]. Từ những
quy định trên đây, chúng ta có thể nhận ra điểm tương đồng so với khái niệm
đồng phạm đã được quy định trong BLHS năm 1985.
Như vậy quá trình tìm hiểu, nghiên cứu đã cho chúng ta khái niệm đầy đủ
và thống nhất về đồng phạm. Ta biết rằng đồng phạm là trường hợp có hai
người trở lên cố ý cùng thực hiện tội phạm. Hay nói cách khác, khi một tội
phạm được thực hiện bởi ít nhất là hai chủ thể và hai chủ thể đó thoả mãn dấu
hiệu “cùng cố ý” thì trường hợp đó tội phạm được coi là đồng phạm. Để hiểu rõ
hơn bản chất của vấn đề đồng phạm chúng ta tiếp tục nghiên cứu mặt chủ quan
và mặt khách quan thuộc dấu hiệu pháp lý cơ bản của đồng phạm.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 6 - NguyÔn ThÞ HËu
1.2. Dấu hiệu pháp lý của đồng phạm
1.2.1. Mặt khách quan của đồng phạm
Để xác định bản chất của đồng phạm, ta cần nghiên cứu dấu hiệu về mặt
khách quan. So với trường hợp phạm tội đơn lẻ thì tội phạm khi được thực hiện
bằng hình thức đồng phạm luôn có những dấu hiệu bắt buộc và cơ bản sau đây:
a. Dấu hiệu thứ nhất thuộc mặt khách quan của đồng phạm đòi hỏi phải
có ít nhất hai người có đủ điều kiện chủ thể tham gia thực hiện tội phạm.
Yếu tố chủ thể tham gia thực hiện tội phạm là cơ sở quyết định tính chất
của tội phạm. Thực tế cho thấy, một tội phạm được thực hiện chỉ do một người
thực hiện nhưng cũng có thể nó là kết quả của sự liên kết, phối hợp giữa nhiều
chủ thể khác nhau. Sự tham gia của nhiều người vào việc gây án đã làm cho tội
phạm có sự thay đổi về chất và có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn hẳn
trường hợp phạm tội riêng lẻ. Khi tội phạm có nhiều người cùng tham gia thì
những người phạm tội có tâm lý dựa vào sức mạnh tập thể, nên liều lĩnh và táo

bạo hơn, quyết tâm phạm tội hơn. Do đó, tội phạm có khả năng gây ra hậu quả
nguy hiểm cho xã hội cao hơn.
Ví dụ: Tại bản án số 29/2006/HSST ngày 29/9/2006 do TAND huyện
Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xét xử đã cho thấy: Nguyễn Tuấn Ánh, Lê Văn
Thái, Lê Văn Dương và Ngũ Văn Truyền lợi dụng lúc gia đình chị Hoàng Thị
Hà ở khối 10 thị trấn Thanh Chương đi vắng đã lén lút đột nhập vào nhà chị Hà
lấy đi 6.250.000 đồng, 4 cây thuốc lá ngựa trắng và hai cây thuốc Vinataba
Trong vụ án này Nguyễn Tuấn Ánh nhờ có sự cảnh giới của Ngũ Văn
Truyền, sự tham gia tích cực của Thái và Dương đã nhanh chóng thực hiện
được hành vi trộm cắp đã vạch ra từ trước. Điều này càng chứng tỏ tính nguy
hiểm cao của loại tội phạm được thực hiện bởi nhiều người cùng tham gia. Tuy
vậy, không phải trong mọi trường hợp cứ có nhiều người cùng thực hiện một tội
phạm đều là đồng phạm.
Ví dụ: A có hiềm khích với gia đình anh B đã xúi giục bé C (C mới 8
tuổi) dùng lửa đốt cháy nhà anh B.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 7 - NguyÔn ThÞ HËu
Để xác định A và C có phải là đồng phạm trong vụ đốt nhà anh B hay
không, trước hết phải xác định điều kiện chủ thể thực hiện tội phạm của A và C.
Ta biết rằng: chủ thể của tội phạm là người có năng lực trách nhiệm hình sự
(NLTNHS), đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Hiện
nay luật hình sự Việt Nam không có điều luật nào quy định trực tiếp: Như thế
nào là người có NLTNHS. Song thông qua quy định tại Khoản 1 Điều 13 BLHS
năm 1999: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc
bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức và khả năng
điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu TNHS, đối với người này phải
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh” [3, tr.12]. Như vậy ta có thể hiểu rằng:
Người có NLTNHS là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả
năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả
năng điều khiển được hành vi ấy.
NLTNHS chỉ được hình thành khi con người đạt độ tuổi nhất định, Điều

12 BLHS năm 1999 quy định:
“ 1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng” [3, tr.21].
NLTNHS và độ tuổi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của chủ thể tội phạm.
Trở lại ví dụ trên, C chỉ là một em bé mới 8 tuổi, bản thân chưa thể nhận thức
được hậu quả có thể xảy ra khi thực hiện hành vi đốt cháy nhà anh B, C không
đủ tuổi chịu TNHS và không thể trở thành chủ thể của tội phạm. Do vậy giữa A
và C không có đồng phạm.
Trong một số trường hợp, chủ thể của tội phạm đòi hỏi phải có thêm một
số dấu hiệu đặc biệt khác vì chỉ khi thỏa mãn những dấu hiệu đó, những người
thực hiện hành vi phạm tội mới được coi là chủ thể của tội phạm.
Ví dụ: Tội hiếp dâm quy định tại Điều 111 BLHS năm 1999 đòi hỏi chủ
thể - người thực hiện phải là nam giới.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 8 - NguyÔn ThÞ HËu
Dấu hiệu này sẽ được phân tích rõ hơn khi đi vào tìm hiểu những vấn đề
liên quan đến TNHS của những người đồng phạm ở phần sau.
b. Dấu hiệu thứ hai thuộc về mặt khách quan của đồng phạm: Những người
đồng phạm phải cùng thực hiện tội phạm.
Để đánh giá chính xác vụ án có đồng phạm không thì cần xem xét những
người tham gia đó có cùng thực hiện một tội phạm hay không?
Dấu hiệu cùng thực hiện một tội phạm có nghĩa là những người tham gia
bằng hành vi của mình đều góp phần thực hiện tội phạm hoặc thúc đẩy việc
thực hiện tội phạm. Cố ý cùng thực hiện tội phạm đòi hỏi mỗi người đồng phạm
phải tham gia vào tội phạm với một hoặc một số hành vi sau: Hành vi thực hiện
tội phạm, hành vi tổ chức thực hiện tội phạm, hành vi xúi giục thực hiện tội
phạm, hành vi giúp sức thực hiện tội phạm. Tương ứng với bốn loại hành vi này
là bốn loại người đồng phạm, bao gồm: Người tổ chức, người xúi giục, người
giúp sức và người thực hành.

Thực tế cho thấy trong một vụ án đồng phạm có thể có đủ bốn loại
hành vi nhưng cũng có thể chỉ có một trong bốn hành vi đó. Những người đồng
phạm có thể tham gia với một loại hành vi hoặc với nhiều loại hành vi khác
nhau. Họ có thể tham gia từ đầu hay khi tội phạm đã xảy ra nhưng chưa kết
thúc.
Trở lại bản án số 29/2006/HSST ta thấy: Trong vụ án trộm cắp tài sản này
có sự phân công rõ vai trò của từng người trong việc thực hiện tội phạm.
- Nguyễn Tuấn Ánh với vai trò là người cầm đầu, chủ động khởi xướng và
rủ rê các đồng phạm, đồng thời cũng là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm
tội một cách tích cực.
- Lê Văn Thái là đồng bọn bị rủ rê, lôi kéo nhưng khi thực hiện tội phạm
cũng tỏ ra tích cực, liều lĩnh.
- Lê Văn Dương cũng bị đồng bọn rủ rê, nhưng cũng là người trực tiếp
thực hiện tội phạm.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 9 - NguyÔn ThÞ HËu
Cả ba đối tượng: Nguyễn Tuấn Ánh, Lê Văn Thái, Lê Văn Dương đều
tham gia thực hiện tội phạm với vai trò là người thực hành.
Riêng đối với Ngũ Văn Truyền, do không tự chủ được bản thân nên đã bị
rủ rê để trở thành đồng phạm giúp sức trong việc cảnh giới cho đồng bọn thực
hiện hành vi phạm tội.
Bằng những hành vi cụ thể, những người tham gia vào vụ án đồng phạm
đều gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Những hành vi đó được thực hiện
trong mối liên kết thống nhất với nhau. Hành vi của mỗi người là điều kiện cần
thiết cho hoạt động phạm tội chung. Hoạt động của mỗi người đều có mối quan
hệ nhân quả với hậu quả chung hoặc với việc thực hiện hành vi phạm tội chung.
Nói cách khác, con người chỉ phải chịu TNHS về hậu quả nguy hiểm cho xã hội
nếu giữa hành vi khách quan của họ đã thực hiện và hậu quả nguy hiểm đó có
quan hệ nhân quả với nhau.
Khoa học luật hình sự Việt Nam chia tội phạm thành hai loại: Loại có cấu
thành tội phạm (CTTP) vật chất và loại có CTTP hình thức. Đối với loại tội

phạm có cấu thành vật chất, hành vi phạm tội phải gây ra hậu quả thì mới được
coi là hoàn thành. Trở lại vụ án trên, ta thấy hành vi trộm cắp tài sản do Ánh,
Thái, Dương và Truyền thực hiện đã hoàn thành.
Đối với tội có cấu thành hình thức, hậu quả tuy không phải là dấu hiệu bắt
buộc của mặt khách quan nhưng việc xác định hậu quả có ý nghĩa quan trọng
trong việc quyết định hình phạt.
Quan hệ nhân quả trong đồng phạm là dạng quan hệ nhân quả kép trực tiếp
(quan hệ nhân quả trong đó có nhiều hành vi trái pháp luật cùng đóng vai trò là
nguyên nhân). Khi tội phạm được thực hiện với sự cố ý cùng tham gia của nhiều
người thì mỗi hành vi trái pháp luật của từng người đồng phạm đều có khả năng
thực tế trực tiếp làm phát sinh hậu quả.
Trong trường hợp hành vi của những người đồng phạm chưa có khả năng
thực tế làm phát sinh hậu quả thì quan hệ nhân quả chỉ hình thành khi có sự kết
hợp các hành vi đó với nhau thành một thể thống nhất.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 10 - NguyÔn ThÞ HËu
Ví dụ: A vì có thù tức với H, nên đã rủ B, C cùng đánh H để “dạy cho H
một bài học”. B và C đồng ý. A, B, C cùng bàn bạc, lập kế hoạch để sớm hành
động. Khi biết H có phiên trực phải về muộn, A, B, C đã chờ sẵn H ở đầu làng.
Khi H vừa bước tới, A lập tức dùng côn đánh mạnh vào chân H, H ngã qụy
xuống, A tiếp tục đánh vào đầu và lưng H. C hai tay giữ chặt H, còn B cầm dao
đâm nhiều nhát vào những vị trí khác nhau trên người H. Kết quả, H chết do vết
thương quá nặng.
Bản thân hành vi của từng người đồng phạm là rất nguy hiểm, nhưng trong
trường hợp này, sự liên kết hành động của A, B, C chính là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến hậu quả chết người đối với H.
Như vậy, khi tìm hiểu dấu hiệu thuộc mặt khách quan của đồng phạm ta
cần phải xác định được những người tham gia thực hiện tội phạm đó có đủ điều
kiện của một chủ thể tội phạm hay không. Và những người đó phải cùng tham
gia, cùng cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi của mỗi người có mối liên hệ thống
nhất với nhau, hậu quả của tội phạm phải là kết quả hoạt động chung của tất cả

những người đồng phạm.
Khi nghiên cứu vấn đề đồng phạm, bên cạnh việc xác định dấu hiệu về mặt
khách quan, chúng ta cần thiết phải xác định dấu hiệu pháp lý về mặt chủ quan.
1.2.2. Mặt chủ quan của đồng phạm
Tội phạm là thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Nếu mặt
khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm thì mặt chủ quan là
hoạt động tâm lí bên trong của người phạm tội. Trong luật hình sự, đồng phạm
được coi là hình thức phạm tội đặc biệt, do vậy khi nghiên cứu về đồng phạm
không thể tách rời hai mặt khách quan và chủ quan.
Khi nghiên cứu mặt khách quan của đồng phạm ở phần trên, chúng ta đã
giải đáp được phần nào vướng mắc cơ bản trong đồng phạm. Tuy nhiên để hiểu
rõ hơn những vấn đề liên quan chúng ta cần có sự quan tâm thích đáng tới mặt
chủ quan của đồng phạm.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 11 - NguyÔn ThÞ HËu
Mặt chủ quan của tội phạm nói chung, đồng phạm nói riêng bao gồm các
dấu hiệu đặc trưng và cơ bản sau: Lỗi, động cơ và mục đích.
a. Dấu hiệu lỗi
“Lỗi là thái độ tâm lí của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức là
cố ý hoặc vô ý” [10, tr.101].
Trong đồng phạm ngay từ khái niệm được quy định tại Điều 20 BLHS năm
1999 đã quy định, đồng phạm chỉ được thực hiện với lỗi cố ý, mỗi người đồng
phạm khi thực hiện hành vi phạm tội đều cố ý với hành vi của mình và mong
muốn sự cố ý tham gia của những người đồng phạm khác. Lỗi cố ý trong đồng
phạm được thể hiện trên hai mặt lí trí và ý chí như sau:
• Về lí trí:
Trong nhận thức của những người đồng phạm đều phải biết hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, đồng thời họ cũng phải biết rằng người khác
cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội như mình. Trong trường hợp vụ đồng
phạm có nhiều người tham gia, bản thân mỗi chủ thể khi thực hiện hành vi

không thể biết được hành vi cụ thể của những người tham gia phạm tội cùng với
mình. Nhưng có một điều mà những người phạm tội luôn tin tưởng là bên cạnh
chúng còn có những người khác cùng phạm tội. Dù ít hay nhiều bọn chúng đều
có sự liên kết cùng hành động, điều này tạo nên tính nguy hiểm cao của đồng
phạm so với trường hợp phạm tội đơn lẻ.
Nếu một người chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không
biết người khác cũng có hành vi nguy hiểm cho xã hội như mình thì chưa phải
là cùng cố ý, do vậy chưa có đồng phạm.
Ví dụ: Trên một chuyến tàu Bắc - Nam tình cờ A quen B. Sau một lúc trò
chuyện A biết B cùng xuống một ga với mình nên A đã gửi cho B giữ hộ một
bọc hàng. B vốn là một tên trộm chuyên nghiệp, B đoán trong bọc hàng đó có
thứ rất giá trị, B nhận lời ngay với ý định: Nếu có cơ hội là y sẽ cùng bọc hàng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 12 - NguyÔn ThÞ HËu
bỏ trốn. Gần cuối ga tàu bất ngờ Công an phát hiện B đang giữ bọc hàng trong
đó có chứa 500g Heroin.
Trong trường hợp này A chỉ biết mình có hành vi nguy hiểm cho xã hội là
vận chuyển ma tuý, còn hành vi của B là định trộm cắp tài sản. Giữa A và B
không có sự cố ý cùng phạm tội, do vậy A và B không đồng phạm với nhau.
Mặt khác, mỗi người đồng phạm còn thấy trước hậu quả nguy hiểm cho
xã hội do hành vi của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ thực
hiện, và mục đích mà họ cùng mong muốn đạt được là thực hiện được kế hoạch
vạch ra.
• Về ý chí
Những người đồng phạm mong muốn có hoạt động chung và cùng mong
muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh. Trở lại định nghĩa
được quy định tại Khoản 1 Điều 20 BLHS năm 1999: “Đồng phạm là trường
hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Ở đây luật hình sự
chỉ đưa ra giới hạn “cùng cố ý”, tức lỗi của họ đều phải là lỗi cố ý chứ điều luật
không yêu cầu họ cùng có lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp [19, tr.29]. Do
đó, điều mà chúng ta quan tâm khi tìm hiểu dấu hiệu ý chí trong đồng phạm là

những người đồng phạm có cùng mong muốn hoặc cùng có ý thức để mặc cho
hậu quả phát sinh hay không?
Ví dụ: A và B cung thầu ao của Hợp tác xã để thả cá. C đã nhiều lần đến
kéo trộm cá trong ao của A và B. Một hôm, đang ngồi trong lều A nghe có tiếng
động từ ao và phát hiện ra C lại đến kéo trộm, A rủ B ra xử lý C. Khi bắt được
C, B dùng côn đánh vào người C còn A dùng đòn gánh đánh vào lưng và cổ C.
Sau đó A và B bỏ vào lều.
Trong trường hợp này mặc dù A và B không mong muốn hậu quả chết
người xảy ra nhưng cả hai cùng có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh. Do đó
A và B là đồng phạm với nhau trong tội giết người.
Phân tích dấu hiệu lỗi trong đồng phạm trên hai mặt lý trí và ý chí cho
chúng ta đi đến thống nhất quan điểm: Đồng phạm là trường hợp mà những
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 13 - NguyÔn ThÞ HËu
người tham gia thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhận thức được tính
chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà mình thực hiện và biết người khác
cũng có hành vi nguy hiểm cùng với mình, họ đều thấy trước được hậu quả
nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như hậu quả chung của tội phạm mà họ
tham gia thực hiện, đồng thời họ cùng mong muốn có hoạt động chung và cùng
mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả phát sinh.
Bên cạnh dấu hiệu lỗi cùng cố ý, từ nội dung họ cùng cố ý thực hiện tội
phạm trong đồng phạm nêu trên, chúng ta có thể thấy trong mặt chủ quan của
đồng phạm cần phải thoả mãn dấu hiệu động cơ, mục đích mà điều luật quy
định là dấu hiệu bắt buộc.
b. Dấu hiệu động cơ, mục đích
Ngoài dấu hiệu lỗi là cùng thực hiện và cùng cố ý, trong một số trường
hợp đồng phạm còn đòi hỏi dấu hiệu cùng mục đích, khi đó mục đích là dấu
hiệu bắt buộc trong CTTP.
Ví dụ: Trong nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia. Mục đích
chống chính quyền nhân dân hoặc làm suy yếu chính quyền là dấu hiệu bắt buộc
trong mặt chủ quan của tất cả các tội phạm. Khi thực hiện hành vi phạm tội,

người phạm tội có mục đích chống lại hoặc làm suy yếu chính quyền nhân dân.
Đây là dấu hiệu cho phép phân biệt tội xâm phạm an ninh quốc gia với những
tội khác có dấu hiệu của mặt khách quan tương tự.
Nếu không thoả mãn dấu hiệu cùng mục đích sẽ không có đồng phạm,
trong trường hợp này những người tham gia sẽ chịu TNHS độc lập với nhau.
Ví dụ: B là nhà báo, A là cấp trên của B, A thường xuyên giao cho B
nhiệm vụ thu thập những tin tức liên quan đến hoạt động tôn giáo tại miền Nam,
A đã sử dụng những tin tức mà B đã thu thập được để cung cấp cho một tổ chức
phản động ở nước ngoài với mục đích chống chính quyền nhân dân.
Giữa A và B không có đồng phạm về tội chống chính quyền nhân dân mà
chỉ A mới phải chịu TNHS độc lập về tội gián điệp theo Điều 80 BLHS. Hành
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 14 - NguyÔn ThÞ HËu
vi của B tuy có tạo điều kiện thuận lợi cho việc phạm tội của A nhưng do A và
B không có sự thống nhất ý chí nên không được coi là đồng phạm tội gián điệp
Xuất phát từ quy định của BLHS về đồng phạm và thực tiễn phạm tội
dưới hình thức này chúng tôi thấy được rằng: Đồng phạm là một dạng đặc biệt
của tội phạm, được thực hiện bởi nhiều người, biểu hiện ở mặt khách quan là sự
liên kết hành vi phạm tội của những người đồng phạm trong việc thực hiên tội
phạm, biểu hiện ở mặt chủ quan là sự cố ý cùng phạm tội của họ.
Để nhận thức về đồng phạm một cách toàn diện, chúng ta cùng nghiên
cứu nội dung các hình thức của đồng phạm.
1.3. Các hình thức đồng phạm
Để xác định một tội phạm có phải là đồng phạm hay không chúng ta có
thể dựa vào dấu hiệu thuộc mặt chủ quan và mặt khách quan của tội phạm đó.
Khoa học luật hình sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự
từ trước đến nay cũng dựa vào dấu hiệu này để phân loại các hình thức đồng
phạm.
1.3.1. Phân loại theo dấu hiệu chủ quan
Căn cứ vào đặc điểm về mặt chủ quan thì đồng phạm được phân loại
thành: Đồng phạm không có thông mưu trước và đồng phạm có thông mưu

trước.
a. Đồng phạm không có thông mưu trước
Hình thức này được hiểu như sau: “Đồng phạm không có thông mưu
trước là hình thức đồng phạm trong đó không có sự thoả thuận bàn bạc với nhau
trước giữa những người đồng phạm hoặc là có sự thoả thuận nhưng không đáng
kể" [10, tr.141].
Những người đồng phạm không có sự bàn bạc trước với nhau về kế
hoạch thực hiện tội phạm, đồng thời giữa những người đồng phạm không có sự
phân công vai trò như tổ chức, thực hành hay xúi giục. Thuộc hình thức này có
thể những người đồng phạm chỉ nhất trí về việc thực hiện tội phạm với nhau ở
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 15 - NguyÔn ThÞ HËu
hiện trường và bắt tay ngay vào việc thực hiện tội phạm hoặc đồng phạm được
hình thành khi có người đang thực hiện tội phạm, người khác thấy vậy cũng
cùng tham gia phạm tội.
Ví dụ: A và B rủ nhau lên đồi hái chè. Đến chiều tối A và B thấy một con
bò đang ăn ở phía cuối vườn chè. Cả hai nảy sinh ý định bắt trộm con bò đó.
Sau đó A và B dắt bò về dưới huyện và bán được 2.000.000 đồng.
Ở đây, A và B cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản công dân nhưng
giữa A và B trước khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản không có sự bàn bạc
vạch kế hoạch trước. Như vậy, so với các hình thức đồng phạm khác thì đồng
phạm không có thông mưu trước nói chung ít nguy hiểm hơn.
b. Đồng phạm có thông mưu trước
“Đồng phạm có thông mưu trước là hình thức đồng phạm trong đó những
người đồng phạm đã có sự thoả thuận bàn bạc trước với nhau về tội phạm cùng
thực hiện”[10, tr.141].
Ví dụ: A rủ B cùng mình đột nhập vào nhà ông C để trộm cắp tài sản. B
đồng ý. Cả hai thường xuyên tụ tập tại nhà A để bàn bạc, lập kế hoạch. A giao
cho B tìm cách giết con chó nhà ông C, còn A sẽ theo dõi hoạt động đi lại của
các thành viên trong gia đình ông C. Lợi dụng lúc gia đình ông C đi vắng hết, A
và B đã đột nhập vào nhà ông C lấy đi số tiền là 5.400.000 đồng, một ti vi và

một số vật dụng khác.
Ở hình thức đồng phạm này những người đồng phạm đã ít nhiều có sự
bàn bạc và phân công vai trò nên họ có quan hệ phạm tội chặt chẽ hơn. Loại
đồng phạm này có tính chất nguy hiểm hơn loại đồng phạm không có thông
mưu trước.
1.3.2 Phân loại theo dấu hiệu khách quan
Dựa vào những đặc điểm về mặt khách quan có thể chia đồng phạm thành
hai loại là đồng phạm giản đơn và đồng phạm phức tạp.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 16 - NguyÔn ThÞ HËu
a. Đồng phạm giản đơn
“Đồng phạm giản đơn là hình thức đồng phạm trong đó những người
cùng tham gia vào vụ phạm tội đều có vai trò là người thực hành” [10, tr.142].
Đây là trường hợp trong đó những người đồng phạm đều tham gia thực
hiện hành vi phạm tội được mô tả trong CTTP, tức là mỗi người bằng chính
hành vi của mình đều trực tiếp thực hiện hoặc góp phần thực hiện tội phạm. Ở
hình thức đồng phạm này sự cố ý cùng cấu kết của những người phạm tội không
đáng kể và chỉ hạn chế ở chỗ mỗi người đồng phạm chỉ biết về hoạt động phạm
tội của một hoặc nhiều người khác tại thời điểm bắt đầu thực hiện tội phạm hay
trong quá trình thực hiện tội phạm.
Ví dụ: Khoảng 19 giờ 30 phút , Nguyễn Văn A dùng một kìm sắt và một
con dao nhỏ trèo lên cây cột điện tại xã X, nơi có dây truyền thanh chạy qua.
Lúc đang cắt dây thấy Phan Văn B đi qua, Nguyễn Văn A rủ Phan Văn B làm
cùng, B đồng ý. Tại đây, A và B thay nhau trèo lên sáu cột điện có hai dường
dây bắc qua, dùng kìm cắt được dây trong năm khoảng, mỗi khoảng được 50m .
Tổng cộng chúng cắt được 500m, sau đó chúng dùng dao bóc vỏ nhựa để lấy lõi
đồng bên trong.
Về mặt chủ quan, đồng phạm giản đơn thường không có sự phân công vai
trò cụ thể (như người tổ chức, xúi giục, giúp sức hay người thực hành), mà về
cơ bản họ có một vai trò là những người cùng hành động. Trong trường hợp
trên, cả A và B đều thực hiện hành vi đã được mô tả trong CTTP tội “trộm cắp

tài sản” với vai trò là người thực hành. Nên những người đồng phạm trong hình
thức đồng phạm giản đơn được coi là những người đồng thực hành.
b. Đồng phạm phức tạp
“Đồng phạm phức tạp là hình thức đồng phạm trong đó có một hoặc một
số người tham gia giữ vai trò là người thực hành, còn những người khác giữ vai
trò xúi giục, tổ chức hay giúp sức ” [10, tr.142].
Trong đồng phạm phức tạp giữa những người đồng phạm có sự bàn bạc
trước về kế hoạch phạm tội và giữa những người đồng phạm cũng có sự phân
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 17 - NguyÔn ThÞ HËu
công vai trò, điều này tạo nên mối liên hệ tương đối chặt chẽ ở họ. Ở hình thức
đồng phạm này không chỉ có người thực hành thực hiện hành vi được mô tả
trong CTTP mà còn có hành vi của người tổ chức, người xúi giục hay người
giúp sức.
Ví dụ: A, B, C mang dao đi vào công viên thì phát hiện E, F đang ngồi
tâm sự cùng nhau, bên cạnh hai người có dựng một chiếc xe máy. Chúng nảy
sinh ý định cướp xe máy đó. A phân công B đứng ngoài quan sát và cảnh giới,
C dùng dao khống chế E, còn A sẽ xử lý F. Kế hoạch được thực hiện, A dùng
dao dí sát sườn F và quát: “Có tiền bỏ ra đây, đưa đồng hồ, chìa khoá xe máy
nhanh lên”. F chống cự, A đã dùng dao đâm vào bụng và tay trái của F. Cuối
cùng F phải đưa đồng hồ, ví và chìa khoá xe máy cho A. A đưa chìa khoá xe
máy cho B cầm, sau đó chúng trói E, F lại, cùng lúc đó B nổ máy và cả ba cùng
bỏ trốn.
Tội phạm được thực hiện là sự phối hợp cùng hành động của những
người đồng phạm. Trong vụ đồng phạm này không chỉ có người thực hành (A
và C) mà còn có người giúp sức (B) cùng thực hiện hành vi được mô tả trong
CTTP tội cướp tài sản được quy định tại Điều 133 BLHS năm 1999.
Như vậy, vai trò của từng người đồng phạm phụ thuộc vào hình thức
hành vi đồng phạm mà họ thực hiện. Việc tìm hiểu các hình thức đồng phạm sẽ
giúp chúng ta xác định chính xác TNHS cho từng người đồng phạm phù hợp
với loại hình tội phạm mà họ thực hiện.

1.3.3 Phạm tội có tổ chức
Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm đặc biệt mà định nghĩa pháp
lý của nó đã được các nhà làm luật nước ta ghi nhận trong pháp luật hình sự
hiện hành tại Khoản 3 Điều 20 BLHS năm 1999: “ Phạm tội có tổ chức là
trường hợp đồng phạm có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện
tội phạm ” [3, tr.24].
Trong đồng phạm có tổ chức, giữa những người đồng phạm vừa có sự
liên kết chặt chẽ với nhau vừa có sự phân hoá vai trò, phân công nhiệm vụ
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 18 - NguyÔn ThÞ HËu
tương đối rõ rệt, cụ thể. Chúng ta có thể xác định đồng phạm có tổ chức dựa vào
các đặc điểm của nó như sau:
- Nhóm tội phạm được hình thành với phương hướng hoạt động có tính
lâu dài bền vững, thể hiện ở sự ổn định thường xuyên của chúng. Trong nhóm
tội phạm có tổ chức, sự gia nhập của các thành viên mới là rất hãn hữu do các
thành viên trong nhóm sợ bị lộ, tan vỡ. Nhóm tội phạm luôn tồn tại kỷ luật chặt
chẽ, mỗi người đồng phạm đều chịu sự điều khiển chung, thống nhất của người
cầm đầu.
- Có sự phân công thực hiện tội phạm trong nhóm, người thì được phân
công thực hiện hành vi chuẩn bị như: theo dõi quy luật hoạt động của đối tượng,
đề xuất phương án hành động và che dấu tội phạm, người thì bảo quản, thu giữ,
vận chuyển, tiêu thụ tài sản chiếm đoạt được. Mỗi tên đều hiểu rõ trách nhiệm
của mình, do đó chúng hành động có tổ chức và chặt chẽ.
Với đặc điểm như vậy, đồng phạm có tổ chức có nhiều khả năng cho
phép phạm tội liên tục, nhiều lần, gây ra những hậu quả lớn, rất lớn hoặc đặc
biệt lớn.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 19 - NguyÔn ThÞ HËu
Chương 2
Tr¸ch nhiÖm h×nh sù
cña nh÷ng ngêi ®ång ph¹m
2.1. Khái niện chung về trách nhiệm hình sự

2.1.1. Cơ sở của trách nhiệm hình sự
TNHS là hậu quả pháp lý mà người thực hiện tội phạm phải chịu trách
nhiệm trước Nhà nước, thể hiện ở bản kết tội cũng như hình phạt mà Tòa án
quyết định áp dụng đối với người bị kết án và dấu hiệu án tích của người đó.
Cơ sở của TNHS được quy định tại Điều 2 BLHS năm 1999: “Chỉ người
nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS” [3, tr.15]. Đây
là căn cứ chung mà dựa vào đó Nhà nước, thông qua các cơ quan đại diện có thể
truy cứu, áp dụng TNHS đối với người nào đó.
a. Cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự
Cơ sở pháp lý cơ bản và quan trọng để xác định TNHS của tội phạm nói
chung và đồng phạm nói riêng là CTTP.
CTTP là phạm trù pháp lý trừu tượng, là kết quả của hoạt động nhận thức
của con người và do các nhà lập pháp xây dựng nên trong quá trình làm luật.
Thông thường trong CTTP những dấu hiệu bắt buộc phải có gồm dấu hiệu hành
vi thuộc mặt khách quan của tội phạm, dấu hiệu lỗi thuộc mặt chủ quan của tội
phạm, dấu hiệu NLTNHS và độ tuổi thuộc yếu tố chủ thể của tội phạm, chúng
ta có thể dựa vào những dấu hiệu của CTTP để nhận định hành vi có phải là tội
phạm hay không và người thực hiện hành vi phải chịu TNHS về tội phạm nào.
Nếu coi cơ sở của TNHS chỉ là CTTP thôi thì chưa đủ chính xác vì theo pháp
luật hình sự Việt Nam: Người chuẩn bị phạm tội “rất nghiêm trọng” hoặc tội
“đặc biệt nghiêm trọng” (Đoạn 2 Điều 17 BLHS năm 1999) hay “phạm tội chưa
đạt” mặc dù trong hành vi được thực hiện rõ ràng là chưa thể có đầy đủ các dấu
hiệu của CTTP nhưng vẫn phải chịu TNHS. Do vậy, ý kiến của PGS.TS Trần
Kho¸ luËn tèt nghiÖp - 20 - NguyÔn ThÞ HËu
Văn Độ là hoàn toàn xác đáng khi cho rằng: “Quan điểm cho rằng CTTP là cơ
sở của TNHS duy nhất là hoàn toàn sai lầm vì tự mình CTTP không thể là cơ sở
làm phát sinh TNHS”.
b. Cơ sở thực tế của trách nhiệm hình sự
Xét về mặt pháp lý, con người chỉ phải chịu TNHS nếu họ đã thực hiện
hành vi được quy định trong BLHS. Điều này có nghĩa là một người có thể phải

chịu TNHS nếu hành vi của họ có đủ những dấu hiệu CTTP. Hay nói cách khác,
nếu CTTP là điều kiện cần của TNHS thì hành vi phạm tội là điều kiện đủ, vì
khi hành vi đã thoả mãn tất cả những dấu hiệu của CTTP thì đã có đầy đủ cơ sở
để có thể buộc người thực hiện hành vi phạm tội phải chịu TNHS mà không đòi
hỏi gì thêm.
Hành vi phạm tội rất đa dạng, có thể là hành vi chuẩn bị thực hiện tội
phạm, hành vi xúi giục người khác thực hiện tội phạm hay “tổ chức, giúp sức”
người khác thực hiện tội phạm. Những hành vi này theo quy định của BLHS có
thể phải chịu TNHS, phải nói là có thể bởi vì hành vi đó nhất thiết phải thoả
mãn được dấu hiệu được quy định trong CTTP. Cũng không loại trừ trường hợp
hành vi của một số người được quy định trong CTTP, nhưng đối với những
người này họ vẫn không phải chịu TNHS vì họ có một số đặc điểm đặc biệt nào
đó nên được miễn hoặc được loại trừ TNHS. Vì thế, không ai phải chịu TNHS
nếu hành vi mà người đó thực hiện không được BLHS quy định là tội phạm.
Như vậy cơ sở của TNHS là việc thực hiện hành vi (cơ sở thực tế) thoả
mãn các dấu hiệu của CTTP (cơ sở pháp lý) được BLHS quy định.
2.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm hình sự
Đây là vấn đề từ trước đến nay vẫn chưa được nghiên cứu, lý giải về mặt
lý luận trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu
khoa học của PGS.TS Lê Cảm trong cuốn: “Những vấn đề cơ bản trong khoa
học luật hình sự” (Phần chung), trên cơ sở phân tích khoa học về khái niệm
TNHS, dựa vào các quy phạm pháp luật liên quan đến việc giải quyết vấn đề

×