Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Đánh giá hiệu quả công tác giao đất, giao rừng theo dự án trên địa bàn xã tứ quận huyện yên sơn tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.06 KB, 76 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
=============
ĐÀO DUNG HUYỀN
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIAO ĐẤT, GIAO
RỪNG MỘT SỐ DỰ ÁN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ TỨ
QUẬN – HUYỆN YÊN SƠN – TỈNH TUYÊN QUANG

HÀ NỘI -2015
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
=============
ĐÀO DUNG HUYỀN
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CÔNG TÁC GIAO ĐẤT, GIAO
RỪNG MỘT SỐ DỰ ÁN TRÊN ĐỊA BÀN XÃ TỨ
QUẬN – HUYỆN YÊN SƠN – TỈNH TUYÊN QUANG
Chuyên ngành : Quản lý đất đai
Mã ngành : 52850103
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS PHẠM ANH TUẤN

HÀ NỘI -2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong đồ án này là trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan mọi sự giúp đỡ cho việ thực hiện đồ án này đã được
cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong đồ án đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày… tháng… năm 2015
Sinh viên
Đào Dung Huyền
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đồ án tốt nghiệp, em đã nhận


được sự quan tâm giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể và cá nhân.
Lời đầu tiên, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến toàn thể thầy
giáo, cô giáo khoa Quản lý đất đai trường Đại Học Tài nguyên và Môi trường
Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ emtrong quá trình hoàn thành đồ án
tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy giáo- TS Phạm Anh Tuấn
, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành đồ án tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo, tập thể cán bộ của Ủy ban nhân
dân xã Tứ Quận, huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang đã giúp đỡ, cung cấp những
thông tin, tài liệu cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi nhất để em hoàn thành đồ
án tốt nghiệp.
Với điều kiện thời gian có hạn, cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của
một sinh viên nên không tránh khỏi những sai xót trong đồ án. Em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô để em có điều kiện bổ sung, nâng cao
kiến thức của mình phục vụ tốt hơn cho công tác thực tế sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày… tháng … năm 2015
Sinh viên
Đào Dung Huyền
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
STT DẠNG VIẾT TẮT DẠNG ĐẦY ĐỦ
1 QHSDĐ Quy hoạch sử dụng đất
2 GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
3 QH Quốc hội
4 HĐND Hội đồng nhân dân
5 UBND Ủy ban nhân dân
6 THCS Trung học cơ sở
7 CP Chính phủ

8 QĐ Quyết định
DANH MỤC BẢNG BIỂU

DANH MỤC HÌNH ẢNH
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất rừng và rừng là nguồn tài nguyên quan trọng của con người và mọi sự
sống trên Trái Đất. Sự tồn tại của hành tinh chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào tài
nguyên đất, tài nguyên rừng dùng để sản xuất ra của cải vật chất phục vụ con
người.
Nếu mục đích sử dụng đúng đắn và quản lý tốt thì sẽ cung cấp cho nhu cầu
của chúng ta không bao giờ cạn, ngược lại nếu quản lý kém thì rừng nhanh
chóng xuống cấp cả về số lượng và chất lượng và không còn cung cấp cho con
người những thứ cần thiết.
Việt Nam có tổng diện tích đất tự nhiên là 33 triệu ha, trong đó diện tích
đất đồi núi là 23 triệu ha, chiếm 70% diện tích đất tự nhiên cả nước. Rừng và đất
rừng đến nay chưa được khai thác, sử dụng hợp lý. Đất chưa sử dụng còn rất lớn
khoảng 13,1 triệu ha, chiếm 40% diện tích cả nước (trong đó hơn 1 triệu ha là
đất trống, đồi núi trọc), cùng với sự phát triển của xã hội vai trò của tài nguyên
đất, tài nguyên rừng cũng trở nên quan trọng hơn và đòi hỏi phải có sự quản lý,
sử dụng một cách hiệu quả bền vững.
Gần đây, Quốc hội nước ta đã đưa ra luật đất đai số 13/2003/QH. Luật
này quy định quyền hạn và trách nhiệm của nhà nước đại diện chủ sở hữu toàn
dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ sử dụng và quản lý về đất
đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
Luật bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 và các văn bản liên quan
đến giao đất, giao rừng và hưởng dụng rừng như nghị định 135/2005/NĐ-CP về
giao khoán đất, quyết định 186/2006/QĐ-TTg về quy chế quản lý rừng, quyết
định 40/2005/QĐ-BNN về quy chế khai thác gỗ và lâm sản.
1

Những chính sách này đã từng bước đáp ứng được nhu cầu về quản lý đất
đai, đống thời đã coi trọng, nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng
đất, gắn người lao động đối với đất đai khi họ thực sự là chủ của từng thửa đất,
từ đó việc sử dụng đất có hiệu quả, năng suất cây trồng tăng lên, việc khai thác
tài nguyên rừng và đất rừng đã có sự quản lý chặt chẽ, đất đai đã được khai thác
một cách có hiệu quả, triệt để, tương ứng với tiềm năng.
Trong những năm qua, nhà nước đã có chủ trương về giao đất, giao rừng
cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân để quản lý bảo vệ và sản xuất nhưng thực
tế triển khai còn chậm. Việc giao rừng chưa gắn liền với giao đất lâm nghiêp,
nhiều khu rừng chưa có chủ quản lý thực sự trong khi ở nhiều nơi người dân
miền núi vẫn thiếu đất sản xuất không có điều kiện tham gia vào sản xuất nghề
rừng phát triển kinh tế, dẫn đến tình trạng tranh chấp đất đai, xâm lấn đất rừng.
Để thực hiện tốt công tác giao đất, giao rừng nhằm phát huy sức mạnh của lâm
nghiệp miền núi, tăng thu nhập cho người dân đặc biệt là dân tộc ở vùng sâu,
vùng xa có đời sống khó khăn, góp phần thực hiện tốt công tác quản lý, bảo vệ
và phát triển rừng thì việc đánh giá hiệu quả giao đất, giao rừng trong giai
đoạn hiện nay là hết sức cần thiết.
Tứ Quận là một xã có địa hình đa dạng, có nhiều rừng núi của huyện Yên
Sơn, tỉnh Tuyên Quang. Có thể nói rằng, xã Tứ Quận là một địa phương có điều
kiện tự nhiên điển hình cho sản xuất lâm nghiệp và phát triển rừng.
Xuất phát từ yêu cầu cấp bách về lý luận và thực tiễn và được sự cho phép
của nhà trường và địa phương, em xin thực hiện đề tài: “ Đánh giá hiệu quả
công tác giao đất, giao rừng theo dự án trên địa bàn xã Tứ Quận-Huyện Yên
Sơn-Tỉnh Tuyên Quang”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu và phân tích tiến trình thực hiện công tác giao đất, giao rừng ở
địa bàn nghiên cứu.
2
- Xác định những thuận lợi và khó khăn trong công tác giao đất, giao
rừng.

- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giao đất, giao rừng
và công tác quản lý đất rừng.
3. Giới hạn nghiên cứu
Đề tài tập trung tìm hiểu công tác giao đất giao rừng, công tác quản lý đất
rừng theo 1 số dự án cụ thể ở xã Tứ Quận.
4. Nội dung nghiên cứu
- Đặc điểm chung của khu vực nghiên cứu:
+ Tình hình cơ bản của xã Tứ Quận
+ Điều kiện tự nhiênvà xã hội
+ Tình hình kinh tế - xã hội
+ Cở sở hạ tầng
- Công tác giao đất, giao rừng theo dự án (hiện trạng sử dụng đất trước
khi thực hiện dự án, tổ chức tiến trình thực hiện, phương án, kết quả)
- Tình hình quản lý, sử dụng đất
- Một số nhân tố ảnh hưởng đến công tác giao đất, giao rừng.
- Hiệu quả của dự án
- Thuận lợi, khó khăn.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển sản xuất nông lâm nghiệp ở
khu vực nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp điều tra, thu thập số liệu:
Tiến hành điều tra thu thập số liệu về:
3
+ Tài liệu, số liệu thống kê, kiểm kê, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
qua một số năm.
+ Các văn bản pháp luật liên quan đến vấn đề này.
+ Tiến hành điều tra ngoại nghiệp nhằm kiểm tra và bổ sung những thay
đổi cần thiết.
+ Các tài liệu về công tác quản lý và sử dụng đất trên địa bàn xã Tứ Quận.
5.2 Phương pháp xử lý số liệu:

Trên cơ sở các thông tin, tài liệu, số liệu thu thập được việc tiến hành
chọn lọc thông tin theo các hướng sau:
+ Phân loại tài liệu, số liệu theo nội dung cụ thể của thông tin
+ Chọn lọc thông tin theo từng thời kỳ
+ Sắp xếp lựa chọn các thông tin theo từng chuyên đề cụ thể.
+ Phân tích các số liệu thô sau khi thu thập được
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Các giai đoạn phát triển và chính sách có liên quan đến công tác giao
đất, giao rừng ở Việt Nam
* Giai đoạn 1968-1982
Đây là thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trên cơ sở phát triển
quốc tế quốc doanh và hợp tác xã, chưa giao đất cho hộ gia đình.
Các lâm trường quốc doanh là loại chủ rừng chủ yếu, được nhà nước đầu
tư để trồng rừng và giữ quyền sở hữu chủ yếu khoảng 70% tổng diện tích rừng
trồng tập trung, hợp tác xã trồng rừng chủ yếu là để nhận tiền công lao động do
nhà nước trả là chính. Chưa có quyền sở hữu trồng rừng nên chưa quan tâm kết
quả rừng của mình gây trồng nên. Tuy vậy cũng có một số ít hợp tác xã sử dụng
nhân lực và nguồn vốn của mình để trồng nên có quyền sở hữu một số khu rừng
do hợp tác xã đầu tư.
* Giai đoạn 1982-1992
Vào những năm đầu 1980 là thời kỳ nhà nước đang nghiên cứu cải thiện
quản lý hợp tác xã. Trong ngành lâm nghiệp nhất là giai đoạn cuối của thời kỳ
này chủ trương chính sách giao đất, giao rừng đến từng hộ gia đình đã cụ thể và
đẩy mạnh hơn.
Ngày 06/11/1982 Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 24 về việc đẩy
mạnh giao đất, giao rừng cho tập thể và nhân dân trồng cây gây rừng.
Ban chấp hành Trung ương Đảng ra chỉ thị số 29/CT-TW ngày
12/11/1983 về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng xây dựng và tổ chức kinh

doanh theo mô hình nông lâm kết hợp.
5
Sau Đại hội Đảng toàn quốc khóa VI (1988) , Đảng và nhà nước chủ
trương đổi mới nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang kinh tế nhiều thành
phần, phát triển kinh tế hàng hóa gắn với kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa dưới sự quản lý của nhà nước. Chú trọng phát triển kinh tế hộ gia
đình là đơn vị kinh tế cơ bản tự chủ.
Thông tin bộ số 01/TT/LB ngày 06/02/1991 đã hướng dẫn việc giao đất,
giao rừng cho các tổ chức, cá nhân vào mục đích lâm nghiệp.
Ngày 15/09/1992 chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 4A47-
CT về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống, đồi núi trọc, bãi bồi ven
biển và mặt nước trong đó ban hành chính sách hỗ trợ 40% tổng vốn đầu tư cho
các hộ gia đình vay theo nguyên tắc lấy lãi, việc hoàn trả vốn vay bắt đầu từ lúc
có sản phẩm. Ngày 22/01/1992 chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng đã ra quyết định
số 264/CT về chính sách đầu tư phát triển rừng. Quyết định này giải quyết khó
khăn về vốn cho nhân dân trồng cây lâm nghiệp ở các vùng định canh, định cư.
Nhà nước hỗ trợ vốn không lấy lãi và cũng từ đây nghành lâm nghiệp đã cùng
với các địa phương vận dụng và thực hiện giao đất, giao rừng đã có những tiến
bộ đáng kể mang lại khởi sắc cho nghề rừng nước ta. Tại những nơi thực hiện
đúng chính sách giao đất, giao rừng thì rừng có người làm chủ cụ thể không còn
tình trạng chủ rừng chung chung mà thực chất là vô chủ. Vì vậy người nông dân
đã yên tâm vào việc kinh doanh rừng và bồi bổ đất đai, nhiều nơi đã có sản
phẩm hàng hóa, diện tích đất trống, đồi núi trọc đã được khai thác, đưa vào sử
dụng ngày càng tăng, nhiều mô hình sản xuất theo phương pháp nông lâm kết
hợp, làm vườn rừng làm trang trại khá phổ biến ở nhiều địa phương. Qua nhận
đất rừng đời sống của người dân được nâng lên rõ rệt. Những hộ nông dân và
công nhân lâm trường thường nhận đất, nhận rừng thu hoạch từ rừng vài chục
triệu đồng hằng năm không còn là hiện tượng hiếm thấy. Đây là những tiến bộ
ban đầu đáng khích lệ của công tác giao đất, khoán rừng giai đoạn này.
6

* Giai đoạn 1993-2003
Đầu năm 1993 Đảng và nhà nước ta đã ban hành nghị quyết, chủ trương
và chính sách nhằm thực hiện triệt để công tác giao đất, giao rừng. Nghị quyết
Trung ương Đảng lần thứ V về tiếp tục đổi mới và phát triển nông thôn, đã nhấn
mạnh “Đổi mới cơ chế nghành lâm nghiệp phổ biến giao khoán rừng và đất rừng
phù hợp với quy định và phương thức phát triển từng vùng, từng loại rừng”.
Luật Đất đai đã được Quốc hội thông qua ngày 14/07/1993 và có hiệu lực
từ ngày 15/10/1993. Đây là một sắc lệnh quan trọng về đất đai, cụ thể hóa điều
17, 18 hiến pháp năm 1992 Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Việc Quốc hội thông qua Luật Đất đai vừa đảm bảo phát huy quan hệ sở
hữu toàn dân về đất đai, vừa phù hợp với cách vận hành mới của một nền kinh tế
hàng hóa, bắt đầu tiếp cận cơ chế thị trường hiện đại. Nghiên cứu tổng quát về
những sửa đổi bổ sung về chính sách đất đai thời kỳ này có thể nhận thấy những
vấn đề nổi bật sau:
Củng cố tăng cường sở hữu toàn dân về đất đai, tăng cường vai trò quản
lý thống nhất của nhà nước.
Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử
dụng lâu dài vào mục đích do nhà nước quyết định.
Nhà nước xác định các loại đất tính thuế, chuyển quyền sử dụng đất thu
tiền khi giao đất hoặc cho thuê, đánh giá tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại
về đất khi bị Nhà nước thu hồi.
Về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền
sử dụng đất đã được xác định tạo tính pháp lý về những lợi ích cụ thể để người
sử dụng đất thực sự làm chủ về sản xuất kinh doanh trên đất được giao.
Theo nghị định chính phủ đã ban hành:
- Nghị định 64-CP (1993) về giao đất nông nghiệp;
7
- Nghị định 02-CP (1994) giao đất lâm nghiệp cho cá nhân, tổ chức sử
dụng đất vào mục đích nông lâm nghiệp;
- Nghị định số 202- CP/TTg (1994) về khoán, quản lý bảo vệ rừng;

- Nghị định số 01/CP (01/11/1995) về giao khoán và sử dụng vào mục
đích nông lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản, trong các doanh nghiệp nhà nước;
- Quyết định số 661/QĐ-TTg (29/07/1998) về chương trình trồng mới 5
triệu ha rừng;
- Nghị định 163/ CP (16/11/1999) thay thế cho nghị định 02/CP về giao
đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho cá nhân, tổ chức sử dụng ổn định lâu dài vào
mục đích lâm nghiệp. Người dân được nhận đất lâm nghiệp có quyền sử dụng
đất kế thừa, chuyển nhượng, thế chấp và chuyển đổi quyền sử dụng đất theo quy
định của pháp luật, hạn chế mức giao đất, cho thê đất cho hộ gia đình, cá nhân
do ủy ban nhân dân Tỉnh quyết định nhưng không quá 30 ha. Thời gian giao đất,
cho thuê đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân là 50 năm, hết thời hạn nếu tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân vẫn có nhu cầu sử dụng đúng mục đích thì được nhà
nước giao tiếp nếu các loại cây trên 50 năm thì sau 50 năm nhà nước sẽ giao tiếp khi
thu hoạch sản phẩm chính.
* Giai đoạn 2003 đến nay
Trên quan điểm tiếp cận, quản lý nguồn tài nguyên có sự tham gia đặc
biệt quản lý nguồn tài nguyên dựa vào cộng đồng, đối với nghành lâm nghiệp
giai đoạn 2001-2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã đề cập ra các
biện pháp và cơ chế chính sách xác định rõ quyền sử dụng đất đai và nguồn tài
nguyên rừng cho các tổng công ty, công ty lâm nghiệp, các lâm trường quốc
doanh, các thành phần kinh tế khác và hộ gia đình… để ổn định sản xuất lâu dài.
Từng bước tiến hành giao đất và phát triển rừng cộng đồng trên cơ sở
nghiên cứu cơ chế và ban hành các quy định cụ thể trong việc bảo vệ, phát triển,
sử dụng và kinh doanh các loại rừng này.
8
Đối với lâm nghiệp giao cho từng hộ gia đình, thúc đẩy nông lâm kết hợp
góp phần xóa đói giảm nghèo.
Định hướng của chính sách lâm nghiệp cũng được đề cập trong giai đoạn
này nhằm cung cấp các hướng dẫn cho ngành lâm nghiệp trong một thời gian dài
về quản lý sử dụng tài nguyên rừng Quốc gia và hướng dẫn pháp luật về phát

triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Nhìn chung trong giai đoạn này nhà
nước đã đầu tư nguồn lực để ban hành và sửa đổi điều chỉnh nhiều chính sách
liên quan đến quản lý nguồn tài nguyên như:
- Luật quản lý và phát triển rừng.
- Nghị định số 163 về giao khoán đất lâm nghiệp cho hộ gia đình và tổ
chức.
Mặt khác trong quá trình tiếp cận, nhiều hoạt động chú trọng đến sự tham
gia của cộng đồng trong quản lý nguồn tài nguyên hoặc quản lý nguồn tài
nguyên dựa vào cộng đồng, cụ thể đó là quy hoạch sử dụng đất, giao đất lâm
nghiệp có sự tham gia quản lý rừng dựa vào cộng đồng.
Những nghị quyết, quyết định và chỉ thị trên đây đã đánh dấu sự thay đổi
cơ bản trong chủ trương đường lối của Đảng và nhà nước công nhận sự tồn tại
lâu dài và tác động tích cực của kinh tế hộ gia đình trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội, bảo đảm bình đẳng quyền làm ăn chính đáng và thu nhập hợp
pháp của các hộ gia đình, cá nhân trên diện tích đất lâm nghiệp được giao. Đây
chính là động lực trực tiếp kích thích người dân nhận đất, nhận rừng để sản xuất
kinh doanh, kinh tế hộ gia đình có điều kiện phát triển hơn.
Mỗi người dân nói chung, đặc biệt là nông dân miền núi, rất phấn khởi
thực hiện chính sách trên, chủ trương giao đất lâm nghiệp của Đảng và nhà nước
đến nay đã đi vào cuộc sống của người dân miền núi bao đời nay gắn bó với
rừng.
9
Giao đất lâm nghiệp ở nước ta được hình thành như là một cấu thành đổi
mới kinh tế hiện nay.Muốn quản lý bảo vệ rừng thì mỗi khu rừng phải có chủ
rừng và chủ rừng phải có lợi ích thực sự từ rừng và nghề rừng.
Thực tế cho thấy thông qua kết quả giao đất, giao rừng ở địa phương
trong cả nước đã thực hiện tốt công tác bảo vệ rừng phủ xanh đất trống đồi núi
trọc, tăng độ che phủ của rừng, tạo các vùng công nghiệp cây ăn quả, cây
nguyên liệu tập trung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, nâng cao đời
sống nhân dân trong vùng. Điển hình làm tốt như các tỉnh: Cao Bằng, Tuyên

Quang, Phú Thọ, Thanh Hóa, Quảnh Bình.
Có thể sau khi có Luật Đất đai 1993, luật bảo vệ và phát triển rừng, các
chính sách nhà nước ta đã chú trọng đến quyền lợi của người dân và việc tham
gia của người dân trong việc sử dụng đất ngày càng tăng cường.
Việc nhà nước cho thuê đất mà đối tượng là tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
trong và ngoài nước…đồng thời xác lập quyền cho thuê, chuyển đổi, chuyển
nhượng sử dụng đất có khe hở trong chính sách hay không. Có cần thêm những
quy định cụ thể cho điều này?
1.2 Những thành quả của hoạt động giao đất, giao rừng
Hoạt đông giao đất, giao rừng là một công cụ hữu ích trong quản lý và sử
dụng đất lâm nghiệp, tuy nhiên tùy theo từng giai đoạn lịch sử của xã hội và
chính sách hỗ trợ mà hiệu quả mang lại của hoạt động giao đất, giao rừng có
khác nhau.
1.2.1. Ở Việt Nam nói chung
* Giai đoạn 1968-1992
Những chính sách xây dựng nhằm hoàn thiện quan hệ sản xuất ở miền núi
có nhiều mặt không phù hợp, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, lâm nghiệp
10
làm rập khuôn như đồng bằng là không phù hợp với tính chất và lực lượng sản
xuất ở miền núi.
Sự giải thể hợp tác xã nông nghiệp các cán bộ gia đình nhận lại ruộng đất,
rừng của mình trước khi vào hợp tác xã, tình trạng này dẫn đến tranh chấp đất
đai giữa các cộng đồng dân cư trong thôn bản và dân miền xuôi lên xây dựng
vùng kinh tế mới. Tuy nhiên hiệu quả chính sách giao đất, giao rừng trong thời
kỳ này chưa cao, nhưng đã tạo động lực phát triển nông lâm nghiệp ở miền núi.
Bước đầu hình thành nên thị trường trung du và miền núi, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xa chính sách giao đất lâm nghiệp còn nhiều hạn chế.
Qua thực tế cho thấy ở nhiều nơi sau khi tập thể, hộ gia đình, cá nhân
nhận rừng mà tổ chức kinh doanh đã có thu nhập rừng đáng kể, do xác định
được cơ cấu cây trồng thích hợp với điều kiện khí hậu đất đai ở nhiều địa

phương như Quảng Ninh, Hà Giang, Huế.
Qua 24 năm thực hiện công tác giao đất, giao rừng (1968-1992) đã giao
được tổng số trên 11 triệu ha, trong đó 5,8 triệu ha giao cho các đơn vị quốc
doanh, 1,3 triệu ha giao cho hộ gia đình, 3,7 triệu ha giao cho hợp tác xã nông
nghiệp, nhưng thực tế mới chỉ sử dụng 30% diện tích giao, số còn lại vẫn không
được khai thác, bảo vệ mà vẫn còn hoang hóa, thực tế này chứng tỏ chủ trương
giao đất, giao rừng trong giai đoạn này chưa tạo điều kiện tích cực trong việc
quản lý, bảo vệ rừng và phát triển tài nguyên rừng.
* Giai đoạn 1993-2003
Đây là giai đoạn có những thay đổi cơ bản trong quản lý, sử dụng rừng và
đất rừng ở Việt Nam, là sự ra đời của Luật Đất đai. Nghị định 02/CP, nghị định
163/CP công tác giao đất lâm nghiệp đã được thực hiện theo những nguyên tắc
và quy định mới.
Theo số liệu kiểm kê của cục kiểm lâm, đến cuối năm 1999 cả nước giao
được 8.786.572 ha đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đạt 59%
11
tổng diện tích quy hoạch cho sản xuất lâm nghiệp. Trong quy hoạch đất lâm
nghiệp 3 loại rừng theo mục đích sử dụng : Rừng đặc dụng 2.119.547 ha đã
được giao 972.375 chiếm 46%, rừng phòng hộ 6.8 triệu ha đã được giao
3.196,343 ha chiếm 47%, rừng sản xuất 9,6 triệu ha đã được giao 4.617.872 ha
chiếm 48 %. Trong đó giao cho 27.312 tổ chức với diện tích là 1.173 ha chiếm
13% tổng diện tích đã giao.
Nói chung kết quả giao đất lâm nghiệp trên đã cho rừng có chủ thực sự,
tạo ra nhiều loại hình sở hữu rừng ( rừng nhà nước, rừng tập thể, rừng cộng
đồng, hộ gia đình) tạo điều kiện khai thác tiềm năng đất đai, lao động, nguồn
vốn tại chỗ. Cùng với chính sách tích cực của nhà nước trong thời gian qua làm
cho rừng có độ che phủ tăng lên nhanh chóng từ năm 1992 đến năm 1999, độ
che phủ của rừng tăng từ 28% lên 31%.
Đã thi hành hàng trăm ngàn trang trại nông lâm nghiệp mô hình kinh tế hộ
gia đình có hiệu quả kinh tế cao, đã hạn chế tình trạng phá rừng làm nương rẫy,

rừng được bảo vệ tốt hơn vì đã có người làm chủ thực sự. Trồng rừng được đảm
bảo với tỷ lệ thành rừng cao, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và cải
thiện đời sống của nhân dân, một bộ phận dân cư đã giàu lên từ nghề rừng, mở
ra hướng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường tiêu thụ ở nhiều nơi, góp phần
xóa đói giảm nghèo, từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn. Tuy nhiên trong quá
trình tổ chức thực hiện giao đất lâm nghiệp, bên cạnh những hiệu quả đạt được
còn một số hạn chế sau:
- Ở một số địa phương giao đất khi chưa có quy hoạch sử dụng đất, thực
hiện không đúng quy trình giao đất lâm nghiệp, giao không đúng đối tượng.
- Ở một số nơi trong quá trình thực hiện giao đất còn nhầm lẫn giữa giao
đất theo nghị định 02/CP và khoán đất lâm nghiệp theo nghị định 01/CP.
12
- Giao sai thẩm quyền, một số lâm trường đứng ra giao đất lâm nghiệp
cho hộ gia đình, giao cả vào rừng đặc dụng, rừng phòng hộ xung yếu và rất xung
yếu.
- Trong quá trình giao đất thiếu sự tham gia của người dân, không coi
trọng việc bàn giao rang giới ngoài thuộc địa, dẫn đến tình trạng sau khi giao,
nhiều hộ gia đình, cá nhân không xác định được rang giới của mình ở ngoài
thuộc địa.
- Việc xác định giúp các hộ gia đình hướng sử dụng đất sau khi được giao
còn hạn chế, thiếu cụ thể, dẫn đến tình trạng sau khi giao đất hộ gia đình không
xác định mục tiêu sản xuất cũng như xác định được cây trồng sao cho phù hợp
với điều kiện lập ở địa phương.
1.2.2. Trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang nói riêng
Nằm ở trung tâm vùng trung du, miền núi phía bắc, Tuyên Quang có tài
nguyên rừng khá lớn. Trong tổng số diện tích đất đai tự nhiên hơn 1.839,6 km
2
thì rừng và đất lâm nghiệp chiếm hơn 70%. Phần lớn số dân của tỉnh định cư ở
các thôn, bản có tập quán truyền thống sinh sống bằng nghề làm rừng. Ðể khai
thác và phát huy có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của rừng đáp ứng yêu cầu của

Nghị quyết lần thứ 7 (khóa X) của Ðảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn,
thời gian gần đây các cấp ủy đảng, chính quyền, các sở, ngành liên quan và đồng
bào các dân tộc Tuyên Quang đã đồng thuận và thực hiện khá bài bản nhiệm vụ
phát triển kinh tế lâm nghiệp giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2020.
Bước đầu thu được những kết quả rất ấn tượng.
Từ năm 2006-2008, trên địa bàn tỉnh, toàn bộ diện tích rừng tự nhiên,
rừng trồng hiện có được bảo vệ tốt. Số lượt diện tích rừng phòng hộ, đặc dụng
được bảo vệ lên tới hơn nửa triệu ha, lớn nhất từ trước đến nay và đạt hơn 60,16
%; rừng khoanh nuôi xúc tiến tái sinh đạt hơn 61,6 % so với mục tiêu kế hoạch
năm năm 2006-2010; trồng rừng mới (bao gồm rừng phòng hộ, đặc dụng và
13
rừng sản xuất) đạt tốc độ tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước và tăng 16 %
so với mức bình quân của năm năm trước (2001-2005). Diện tích rừng chăm sóc
đã vượt 70 % so với mức kế hoạch Nhà nước giao cho tỉnh. Do làm tốt công tác
bảo vệ rừng đi đôi với các biện pháp làm giàu vốn rừng cho nên tỷ lệ che phủ
của rừng trên địa bàn đã vượt ngưỡng 60 % vào năm 2005, tăng lên gần 62 %
hiện nay. Tuyên Quang trở thành tỉnh có độ che phủ của rừng lớn nhất vùng
miền núi phía bắc và đứng thứ ba trong số các địa phương có rừng của cả nước
(sau Kon Tum và Quảng Bình).
Từ lợi ích kinh tế, lợi ích môi trường sinh thái của rừng đã làm thay đổi tập
quán của đồng bào các dân tộc sống chung với rừng, sinh sống bằng nghề rừng.
Thời kỳ trước năm 2005, các cấp ủy đảng, chính quyền và các sở, ngành liên
quan còn phải áp dụng biện pháp hành chính "ép" người dân tham gia bảo vệ
rừng, trồng rừng. Nay, bằng cơ chế khoán mới hoặc thông qua các hình thức liên
doanh, liên kết, v.v. các tổ chức, hộ gia đình đã tự nguyện, hăng hái tham gia
bảo vệ rừng, làm giàu vốn rừng. Lợi ích của người làm nghề rừng đã tăng lên
đáng kể và được bảo đảm theo quy định của pháp luật. Ðây là điều kiện thuận
lợi để Tuyên Quang triển khai, thực hiện các giải pháp tạo động lực phát triển
kinh tế rừng theo hướng xã hội hóa đạt hiệu quả bền vững.
Tuyên Quang đã thành công bước đầu việc đổi mới nội dung, hình thức và

phương pháp tuyên truyền, giáo dục nhằm mục đích làm cho lao động nghề
rừng, cũng như toàn xã hội hiểu biết rõ vị trí, vai trò, chức năng của rừng và các
chủ trương, chính sách của Ðảng, Nhà nước và địa phương về việc bảo vệ rừng,
phát triển rừng. Từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm của từng người dân và các
thành phần xã hội trên địa bàn đối với sự nghiệp bảo vệ rừng, phát triển kinh tế
rừng.
Theo đó, Tuyên Quang đã đi trước một bước và sớm hoàn thành công việc rà
soát quy hoạch phân ba loại rừng. Trong tổng số diện tích đất lâm nghiệp hiện
có, cơ cấu giữa các loại rừng được điều chỉnh theo tỷ lệ, rừng đặc dụng chiếm
14
11%, giảm 7%; phòng hộ chiếm 31%, giảm 24,8% và rừng sản xuất chiếm 58%,
tăng 37,8% so với cơ cấu đến năm 2005. Tuyên Quang cũng hoàn thành việc
quy hoạch vùng rừng sản xuất cho năm cơ sở chế biến công nghiệp với quy mô
diện tích tập trung chuyên canh lên tới hàng trăm nghìn ha, gắn với việc thực
hiện các dự án giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp; giao rừng, cho thuê rừng sản
xuất ổn định, lâu dài cho các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng
dân cư thôn bản theo quy định của pháp luật. Riêng Nhà máy bột giấy và giấy
An Hòa (Tuyên Quang), được tỉnh giao 163.358 ha đất lâm nghiệp và rừng sản
xuất trên địa bàn 105 xã thuộc bốn huyện Chiêm Hóa, Hàm Yên, Yên Sơn và
Sơn Dương để đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu. Theo Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn, đến nay toàn tỉnh đã giao 31.069 ha đất lâm nghiệp gắn với cấp
GCNQSDÐ cho gần 26 nghìn hộ dân; giao và cho một số doanh nghiệp thuê
hơn 1.500 ha đất lâm nghiệp để trồng rừng nguyên liệu. Hiện nay, các ngành,
các huyện phối hợp tiến hành đo đạc, lập bản đồ địa chính được hơn 333 nghìn
ha trên địa bàn 97 xã trong tỉnh, dự kiến từ nay đến cuối năm sẽ giao khoảng
hơn 42 nghìn ha cho hơn 25 nghìn hộ khác để đầu tư vốn trồng rừng sản xuất.
Giao đất, giao rừng kết hợp chính sách khuyến khích phát triển sản xuất đã
làm xuất hiện một số mô hình chuyển đổi từ nghề làm ruộng sang nghề trồng
rừng theo hướng chuyên môn hóa, đến nay tỉnh Tuyên Quang đã thực hiện nhiều
chính sách ưu đãi, khuyến khích phát triển trang trại trồng rừng trên diện tích

chuyển đổi từ rừng phòng hộ sang rừng sản xuất theo quy hoạch, với mục tiêu
khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai, phát triển kinh tế rừng theo hướng nông,
lâm kết hợp bền vững, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người làm nghề rừng.
Mặt khác, tỉnh đã chỉ đạo các công ty lâm nghiệp trên địa bàn mở rộng hình thức
liên doanh các hộ là cán bộ, công nhân nhà nước, các hộ dân trên địa bàn cùng
góp vốn tham gia trồng rừng và hưởng lợi theo tỷ lệ vốn góp.
Cùng với phát triển kinh tế rừng, nhằm bảo vệ rừng tận gốc, quản lý lâm sản
tại cơ sở chế biến, Tuyên Quang đã sắp xếp, kiện toàn hệ thống tổ chức quản lý
lâm nghiệp từ tỉnh đến các huyện, xã. Thành lập các Ban quản lý rừng phòng hộ,
15
đặc dụng, các Ban quản lý dự án 661 cơ sở; đưa lực lượng kiểm lâm về cơ sở,
thành lập đội kiểm lâm cơ động để quản lý, bảo vệ rừng. Ngoài ra các chủ rừng
cũng tự tổ chức lực lượng bảo vệ rừng, để bảo vệ những thành quả do phát triển
rừng mang lại.
16
CHƯƠNG 2
HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
2.1 Đặc điểm chung của xã Tứ Quận
2.1.1 Tình hình cơ bản
Xã Tứ Quận là một địa phương vùng núi vùng cao, cách trung tâm huyện
1 km về phía Bắc.Vị trí của xã giáp với sông Lô là nguồn cung cấp nước tưới, nước
sinh hoạt, cho chăn nuôi rất quan trọng. Tuy vậy vào những tháng khô hạn từ tháng
11 đến tháng 4 năm sau thời tiết hanh khô, lạnh và ít mưa, có gió mùa Đông Bắc
thổi mạnh ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt và sản xuất.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 3.627 ha, trong đó chủ yếu là đất đồi núi và có
quốc lộ 2 chạy qua- có vị trí quan trọng với sự phát triển kinh tế và xã hội trên
địa bàn xã nói chung và nhiều tỉnh trung du, đặc biệt đối với các tỉnh miền núi ở
phía Tây Tây bắc nước ta nói riêng. Tuy nhiên, đặc điểm giao thông của địa
phương đi lại còn khó khăn do địa hình đồi núi chủ yếu và dân cư thưa thớt nên
nghề phụ ở địa phương cũng chưa phát triển. Ngoài sản xuất nông nghiệp và

trồng rừng, nghề phụ thường là buôn bán, đánh bắt thủy sản dọc sông Lô và đi
lấy củi trong các rừng tự nhiên, rừng đã giao khoán. Diện tích đất nông nghiệp
nhỏ trong đó chủ yếu là diện tích gieo trồng 01 vụ. Cây trồng chủ yếu là lúa,
ngô, khoai, các loại đậu, sắn. Diện tích trồng cây ăn quả manh mún, kể cả các
cây truyền thống như chanh, cam, mít, chuối và cây mới nhập về ( xoài, vải,
nhãn, ) Do vậy đời sống nhân dân ở đây còn gặp khó khăn, họ sống chủ yếu dựa
vào nghề rừng, cho nên việc thường xuyên vào rừng thu lượm lâm sản phụ, săn
bắn, khai thác lâm sản trái phép là điều tất yếu.
Thấy được khó khăn trên nên trong những năm gần đây chính quyền địa
phương xã, huyện đã tạo công ăn việc làm để tiến tới xóa đói giảm nghèo theo
chủ truong của Đảng và nhà nước. Trong đó chủ yếu lôi kéo họ tham gia vào
nghề rừng, chăm sóc, quản lý và bảo vệ rừng.
17

×