Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 100 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH




NGUYỄN THỊ MINH VƢỢNG



GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ








THÁI NGUYÊN - 2015


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH




NGUYỄN THỊ MINH VƢỢNG



GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRẦN VĂN DUNG





THÁI NGUYÊN - 2015


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.

Học viên



Nguyễn Thị Minh Vượng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

ii
LỜI CẢM ƠN

Trước tiên tôi xin chân thành cảm ơn TS. Trần Văn Dung đã tận tình
chỉ bảo, góp ý và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Để có thể hoàn thành chương trình sau đại học tại trường Đại học Kinh tế

và Quản trị Kinh doanh - Đại học Thái Nguyên với luận văn tốt nghiệp “Giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ” ngoài những nỗ lực, phấn đấu của chính bản thân trong
suốt quá trình học tập, tôi xin gửi lời tri ân trước hết đến những người thân đã
luôn động viên, giúp đỡ.
Nhân đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến quý Thầy Cô, những người
đã tận tình truyền đạt kiến thức cho tôi trong hai năm học cao học vừa qua.
Sau cùng, tôi xin chân thành cám ơn đến các bạn bè thân thiết của lớp cao học
Quản lý Kinh tế K10E và các cán bộ nhân viên đã giúp
đỡ tôi có số liệu hoàn thành tốt luận văn này.

Học viên



Nguyễn Thị Minh Vượng


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC CÁC BẢNG vii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ viii
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2
4. Đóng góp của luận văn 2
5. Kết cấu của đề tài 3
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP 4
1.1. Những vấn đề cơ bản về chính sách bảo hiểm thất nghiệp 4
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về thất nghiệp 4
1.1.2. Bảo hiểm thất nghiệp 11
1.2. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp 14
1.2.1. Khái niệm và mục tiêu của chính sách bảo hiểm thất nghiệp 14
1.2.2. Vai trò, nguyên tắc của chính sách bảo hiểm thất nghiệp 16
1.2.3. Nội dung chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở Việt nam hiện nay 19
1.3. Hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp 24
1.3.1 Quan điểm về hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp 24
1.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp 24
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm
thất nghiệp 25

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

iv
1.4. Kinh nghiệm về ChínhSách bảo hiểm thất nghiệp của một số nước
trên thế giới và một số bài học cho Việt Nam 30
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới 30
1.4.2. Một số bài học cho Việt Nam 33
1.4.3. Một số bài học kinh nghiệm cho tỉnh Phú Thọ 35
Chƣơng 2. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 36
2.1. Câu hỏi nghiên cứu 36

2.2. Phương pháp nghiên cứu 36
2.2.1. Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp 36
2.2.2. Phương pháp phân tích 37
2.3. Hệ thống các chỉ tiêu nghiên cứu 38
Chƣơng 3. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ 40
3.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ và BHXH tỉnh Phú Thọ 40
3.1.1. Đặc điểm tự nhiên 40
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 41
3.1.3. Giới thiệu khái quát về Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Thọ 44
3.2. Thực trạng hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ 49
3.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 49
3.2.2. Đánh giá hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệptrên
địa bàn tỉnh Phú Thọ 62
Chƣơng 4. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH PHÚ THỌ 68
4.1. Định hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 68

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

v
4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ 69
4.2.1. Tiếp tục, rà soát những bất cập trong cơ chế chính sách bảo hiểm
thất nghiệp để kiến nghị cho BHXH cấp Trung ương 69
4.2.2. Tăng cường công tác hỗ trợ việc làm và đào tạo lại cho người lao động 70

4.2.3. Tăng cường nhận thức về chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người
lao động và người sử dụng lao động 72
4.2.4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra 75
4.2.5. Tăng cường các điều kiện cơ sở vật chất, công nghệ thông tin 78
4.2.6. Tăng cường trình độ nguồn nhân lực 78
4.2.7. Tăng cường công tác phối hợp giữa các cơ quan 81
4.3. Một số kiến nghị 82
4.3.1. Kiến nghị đối với cơ quan quản lý Nhà nước 82
4.3.2. Kiến nghị với Đảng ủy, chính quyền địa phương 84
KẾT LUẬN 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 87



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

vi
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Viết tắt
Tên đầy đủ
BHXH
Bảo hiểm xã hội
BHTN
Bảo hiểm thất nghiệp
BTC
Bộ tài chính
BYT
Bộ Y Tế
NLĐ

Người lao động
NSDLĐ
Người sử dụng lao động



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Tình hình số lượng đơn vị đóng bảo hiểm thất nghiệp trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn năm 2011 - 2013 55
Bảng 3.2. Cơ cấu chi bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
giai đoạn năm 2011 - 2013 60



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Biểu đồ:
Biểu đồ 3.1. Tăng trưởng thu Bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ giai đoạn năm 2011 - 2013 50
Biểu đồ 3.2. Nợ đọng Bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
giai đoạn năm 2011 - 2013 51
Biểu đồ 3.3. Cơ cấu nguồn Bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
năm 2013 theo địa bàn 54
Biểu đồ 3.4. Tình hình chi trả bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ giai đoạn năm 2011 - 2013 57

Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ chi trả bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ giai đoạn năm 2011 - 2013 58
Biểu đồ 3.6. Số tiền chi trả bảo hiểm thất nghiệp bình quân đầu người
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn năm 2011 - 2013 59

Sơ đồ:
Sơ đồ 3.1. Sơ đồ bộ máy cơ quan BHXH tỉnh Phú Thọ 46











Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

ix


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thất nghiệp, trong kinh tế học, là tình trạng người lao động muốn có
việc làm mà không tìm được việc làm. Đây là hiện tượng kinh tế phổ biến ở

tất cả các quốc gia trên thế giới. Tình trạng thất nghiệp có thể ảnh hưởng
tiêu cực tới bản thân người lao động, gia đình, toàn nền kinh tế và xã hội.
Chính vì vậy, Nhà nước cần có các chính sách, giải pháp nhằm hạn chế
tình trạng này. Một trong những chính sách đối phó lại những ảnh hưởng
tiêu cực từ nạn thất nghiệp là sử dụng bảo hiểm thất nghiệp. Chính sách
bảo hiểm thất nghiệp ra đời và có hiệu lực từ ngày 01/01/2009, sau hơn bốn
năm triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao
động đã đạt được những kết quả nhất định. Số lượng người tham gia bảo
hiểm thất nghiệp ngày càng tăng và số chi trả chế độ trợ cấp bảo hiểm thất
nghiệp cũng gia tăng tương ứng.
Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi, cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ
đô Hà Nội, cách thủ đô Hà Nội 80 km về Phía Bắc. Hiện tỉnh Phú Thọ có
353.294,93 ha diện tích tự nhiên và 1.313.926 nhân khẩu. Trong những năm
qua tình hình kinh tế - xã hội đã có chuyển biến tích cực với mức tăng trưởng
GDP bình quân hàng năm đạt trên 9%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá; các lĩnh vực văn hoá, y tế, giáo dục và công
tác xã hội đã có những tiến bộ đáng kể. Mặc dù vậy, cũng như nhiều địa
phương khác trong cả nước, trong những năm qua tỷ lệ thất nghiệp ở địa
phương có xu hướng tăng do tác động của khủng hoảng kinh tế. Tỷ lệ thất
nghiệp ở thành thị của Tỉnh ở mức 3,4%, trong khi đó, tỷ lệ sử dụng lao động
ở nông thôn chỉ ở mức 80%. Trong những năm qua, để giải quyết vấn đề thất
nghiệp cho nguồn nhân lực, BHTN tỉnh Phú Thọ đã có nhiều cố gắng trong
công tác đẩy mạnh thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn.
Tuy nhiên, hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ vẫn còn nhiều điểm hạn chế.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

2
Để nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp tại

Tỉnh nói riêng và toàn quốc nói chung, tôi đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu chung: hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ
bản và thực tiễn về bảo hiểm thất nghiệp, chính sách bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt nam và hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ nhằm đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
- Mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
+ Hệ thống hóa và phân tích làm rõ thêm cơ sở lý luận về thất nghiệp
và chính sách BHTN.
+ Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
+ Phân tích thực trạng hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp ở tỉnh Phú Thọ.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả hiệu quả
thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp trên địa bàn Tỉnh tới năm 2020.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách BHTN và hiệu quả thực
hiện chính sách BHTN.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Về không gian: địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Về thời gian: đề tài nghiên cứu thực trạng từ năm 2011 - 2013 và định
hướng giải pháp tới năm 2020.
4. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa lý luận về thất nghiệp, BHTN và chính sách BHTN,
hiệu quả thực hiện chính sách BHTN.
- Làm tài liệu tham khảo cho các nhà quản lý, xây dựng chính sách
BHTN và nghiên cứu về BHTN.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

3
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đẩu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
bảng biểu, luận văn bao gồm 4 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chính sách bảo hiểm thất
nghiệp và hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm thất
nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Chương 4: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách bảo hiểm
thất nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.






















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

4
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
1.1. Những vấn đề cơ bản về chính sách bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về thất nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm, nguyên nhân của thất nghiệp
a) Khái niệm thất nghiệp
Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, lao động luôn được coi là
nhu cầu cơ bản nhất, chính đáng nhất và lớn nhất của con người. P. Ăng Ghen đã
khẳng định “Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con
người, đến một mức và trên một ý nghĩa nào đó chúng ta phải nói rằng: Lao
động đã tạo ra chính bản thân con người”. Thật vậy, ai sinh ra cũng phải sống,
muốn sống phải có ăn, mặc,… muốn có ăn mặc phải lao động và được lao
động. Nhu cầu đó tưởng chừng đơn giản, song trong điều kiện kinh tế thị
trường không phải ai cũng được đáp ứng và được đáp ứng một cách đầy đủ.
Muốn được lao động, người lao động phải có việc làm để từ đó tạo ra của cải
vật chất và dịch vụ - tạo ra thu nhập nuôi sống mình và gia đình mình. Nhưng
để có được việc làm, nhất là những việc làm phù hợp với năng lực, trình độ và
ngành nghề đào tạo của mình thì không phải người lao động nào cũng dễ tìm
kiếm. Bởi vì, nguồn lao động xã hội thường tăng nhanh hơn cơ hội việc làm,
do đó luôn có một bộ phận người lao động thiếu hoặc không có việc làm.
Những người không có việc làm thực chất là họ đã bị thất nghiệp.

Đã có nhiều khái niệm về thất nghiệp, song định nghĩa thất nghiệp của
ILO được nhiều nhà kinh tế và nhiều nước tán thành. Theo định nghĩa của tổ
chức này thì: “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ
tuổi lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức
lương thịnh hành”. Còn khái niệm về người thất nghiệp cũng có những quan

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

5
điểm và nhận thức khác nhau; tùy theo mục đích và hoàn cảnh của mỗi
nước, chẳng hạn:
- Luật BHTN của Cộng hòa Liên bang Đức định nghĩa: “Người thất
nghiệp là người lao động tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực
hiện những công việc ngắn hạn” [15].
- Ở Thái Lan người ta cho rằng: “Người thất nghiệp là người lao động
không có việc làm, muốn làm việc, có năng lực làm việc”.
- Nhật Bản lại quan niệm: “Người thất nghiệp là người không có việc
làm trong tuần lễ điều tra, có khả năng làm việc, đang tích cực tìm việc làm
hoặc chờ kết quả xin việc làm”.
Tổ chức Lao động Quốc tế thì cho rằng: “Người thất nghiệp là người
lao động không có việc làm, không làm gì kể cả 1 giờ trong tuần lễ điều tra
đang đi tìm việc làm và có điều kiện là họ làm ngay”.
Như vậy, dù quan niệm thế nào đi chăng nữa thì một người lao động
được coi là thất nghiệp phải thể hiện đầy đủ các đặc trưng sau:
+ Là người lao động, có khả năng lao động.
+ Đang không có việc làm.
+ Đang đi tìm việc làm.
Người thất nghiệp có thể là công nhân trong các doanh nghiệp, có thể là
học sinh, sinh viên các trường chuyên nghiệp đã tốt nghiệp ra trường hoặc là
bộ đội xuất ngũ. Những người ngoài độ tuổi lao động hoặc trong độ tuổi lao

động, có khả năng lao động nhưng không lao động, không có nhu cầu việc
làm thì không được coi là người thất nghiệp. Chẳng hạn, những người đang
có việc làm nhưng tạm thời không làm việc vì một lý do nào đó như: nghỉ
phép, nghỉ ốm, nghỉ tạm thời vì tai nạn lao động, hoặc học sinh sinh viên còn
đang theo học tại các trường, những người nội trợ,… không phải là những
người thất nghiệp.
Luật BHTN (năm 2006) của Việt Nam cũng quy định người thất nghiệplà:
"Người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp
đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm".

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

6
Từ sự phân tích ở trên, ta có thể hiểu: thất nghiệp là tình trạng tồn tại
khi một số người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng không tìm được
việc làm ở mức lương thịnh hành.
b) Nguyên nhân của thất nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường có rất nhiều nguyên nhân gây ra thất
nghiệp và kèm theo là những tác động xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội và
sự ổn định của đất nước. Dưới đây là một số nguyên nhân chính:
- Chu kỳ kinh doanh: có thể mở rộng hay thu hẹp do sự điều tiết của
thị trường. Hoạt động sản xuất kinh doanh bao giờ cũng mang tính chu kỳ.
Tính chất này ảnh hưởng tới việc làm phát sinh tình trạng thất nghiệp bởi sự
mở rộng hay thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ làm cung cầu trên thị
trường lao động thay đổi. Nếu các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, mở rộng
sản xuất kinh doanh thì cầu lao động tăng, các doanh nghiệp thu hút thêm lao
động. Khi các doanh nghiệp bước vào giai đoạn làm ăn kém hiệu quả, phải
thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, cầu lao động giảm xuống,theo đó xuất
hiện tình trạng một số lao động bị dư thừa. Cung cầu trên thị trường lao động
thay đổi không có sự phù hợp giữa cung và cầu lao động, làm phát sinh hiện

tượng thất nghiệp.
- Sự thay đổi cơ cấu ngành nghề
Ở từng thời kỳ, sự phát triển kinh tế có thể dẫn tới thay đổi cơ cấu kinh
tế. Theo đó, cơ cấu của một số ngành nghề thay đổi. Những ngành nghề làm
ăn có hiệu quả hoặc cần phải được mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh
hoặc xuất hiện ngành nghề mới sẽ tạo cơ hội thu hút thêm nhiều lao động.
Nhưng lại có những ngành nghề phải thu hẹp sản xuất, phải sa thải người lao
động và một bộ phận người lao động bị thất nghiệp. Trong trường hợp này,
người lao động bị thất nghiệp muốn tham gia vào thị trường lao động trong
những ngành nghề mới đòi hỏi họ phải được đào tạo lại để nâng cao trình độ
chuyên môn, đáp ứng yêu cầu của công việc mới. Trong thời gian đó, họ trở
thành những người thất nghiệp do cơ cấu.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

7
- Do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự tự động hóa quá
trình sản xuất diễn ra nhanh chóng, nên trong một chừng mực nhất định máy
móc đã thay thế con người. Với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các nhà sản xuất
luôn tìm cách mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, đưa những dây truyền tự
động hóa vào quá trình sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành sản phẩm để cạnh tranh. Một cỗ máy, một dây truyền sản xuất tự động có
thể thay thế hàng chục, thậm chí hàng trăm công nhân. Số công nhân bị máy
móc thay thế lại tiếp tục được bổ sung vào đội ngũ thất nghiệp.
- Sự gia tăng dân số và nguồn lao động, với quá trình quốc tế hóa và
toàn cầu hóa nền kinh tế cũng có những mặt tác động tiêu cực đến thị trường
lao động, làm một bộ phận người lao động bị thất nghiệp. Nguyên nhân này
chủ yếu diễn ra ở các nước đang phát triển. Ở những nước này, dân số và
nguồn lao động thường tăng nhanh, để hội nhập với nền kinh tế thế giới một
cách nhanh chóng họ phải tiến hành cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới và sắp xếp

lại các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải giải thể hoặc
phá sản, số doanh nghiệp còn lại phải nhanh chóng đầu tư theo chiều sâu, đổi
mới thiết bị, công nghệ và sử dụng ít lao động dẫn đến dư thừa lao động.
- Do các yếu tố ngoài thị trường
Sự thay đổi thể chế chính trị hay việc điều chỉnh chính sách vĩ mô của
các nước, các giải pháp điều hành kinh tế của Chính phủ cũng có thể làm cho
nhu cầu sử dụng lao động có sự thay đổi, theo đó, làm cho tình trạng thất nghiệp
thay đổi. Việc quy định mức tiền lương tối thiểu của Nhà nước hoặc yêu cầu
tăng lương của công đoàn, nghiệp đoàn cao hơn mức tiền lương cân bằng hiện
hành của thị trường, dẫn đến làm gia tăng thất nghiệp không tự nguyện.
- Do người lao động không ưa thích công việc đang làm hoặc địa điểm
làm việc, họ phải đi tìm công việc mới, địa điểm mới.
Những nguyên nhân trên đây làm cho tình hình thất nghiệp luôn tồn tại.
Thất nghiệp ở các nước chỉ khác nhau về mức độ, không có quốc gia nào tỷ lệ
thất nghiệp bằng 0.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

8
1.1.1.2. Phân loại thất nghiệp
Có nhiều hình thái thất nghiệp khác nhau, tùy theo mục đích nghiên cứu
và việc lựa chọn tiêu thức phân loại.
a) Căn cứ vào tính chất thất nghiệp, người ta phân ra các loại sau:
- Thất nghiệp tự nhiên loại này xảy ra do quy luật cung cầu của thị
trường sức lao động tác động. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có quan hệ chặt chẽ
với tỷ lệ lạm phát. Do nhiều nguyên nhân, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên ở mỗi
nước mỗi khác và có xu hướng tăng lên.
- Thất nghiệp cơ cấu xảy ra khi mất cân đối giữa cung và cầu về các loại
lao động. Cầu của loại lao động này tăng lên, loại lao động khác lại giảm
xuống, cung điều chỉnh không kịp cầu. Trong quá trình vận động của nền kinh

tế thị trường, sẽ có những ngành kinh tế phát triển thu hút nhiều lao động,
nhưng cũng có ngành bị thu hẹp lại làm dư thừa lao động, loại thất nghiệp này
thường thấy rõ nhất giữa 2 ngành nông nghiệp và công nghiệp. Do ứng dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp làm dư thừa lao
động nông nghiệp, trong khi đó nhu cầu lao động trong công nghiệp lại tăng
lên do thu hút được vốn đầu tư nước ngoài nhưng chưa kịp đào tạo và đào tạo
lại nghề cho những lao động dư thừa để kịp thời bổ sung.
- Thất nghiệp tạm thời phát sinh do sự di chuyển lao động giữa các vùng,
các miền, thuyên chuyển công tác giữa các giai đoạn khác nhau trong quá
trình sản xuất. Loại này khá phổ biến và diễn ra thường xuyên. Thất nghiệp
tạm thời còn được gọi là thất nghiệp bề mặt.
- Thất nghiệp chu kỳ loại này xảy ra do mức cầu về lao động giảm xuống.
Sau một chu kỳ kinh tế phát triển hưng thịnh, đến giai đoạn suy thoái, nền
kinh tế lâm vào tình trạngkhủng hoảng, thất nghiệp và lạm phát gia tăng rất
gay gắt. Loại thất nghiệp này diễn ra theo chu kỳ và vì thế đã mang tính
quy luật.
- Thất nghiệp thời vụ phát sinh theo các chu kỳ sản xuất kinh doanh, loại
này xảy ra rất phổ biển trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

9
- Thất nghiệp công nghệ do sự áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
và công nghệ vào sản xuất ngày càng được tăng cường làm cho người lao
động trong các dây chuyển sản xuất bị dôi ra, từ đó làm phát sinh thất nghiệp
công nghệ. Thất nghiệp công nghệ thể hiện rõ nhất từ những năm đầu của
thập kỷ 60 trở lại đây.
b)Căn cứ vào ý chí người lao động, có thể phân thành 2 loại thất nghiệp:
- Thất nghiệp tự nguyện là hiện tượng người lao động từ chối một công
việc nào đó do mức lương được trả không thỏa đáng hoặc do không phù hợp

với trình độ chuyên môn, mặc dù họ vẫn có nhu cầu làm việc.
- Thất nghiệp không tự nguyện là hiện tượng người lao động có khả năng
lao động, trong độ tuổi lao động có nhu cầu làm việc và chấp nhận mức lương
được trả, nhưng người sử dụng lao động không chấp nhận hoặc không có
người sử dụng nên trở thành thất nghiệp.
c)Căn cứ vào mức độ thất nghiệp,có thể chia ra:
- Thất nghiệp toàn phần có nghĩa là người lao động hoàn toàn không có
việc làm hoặc thời gian làm việc thực tế mỗi tuần dưới 8 giờ và họ vẫn có nhu
cầu làm thêm.
-Thất nghiệp bán phần có nghĩa là người lao động vẫn có việc làm,
nhưng khối lượng công việc ít hoặc thời gian lao động thực tế trung bình chỉ
đạt 3 đến 4 giờ trong một ngày làm việc mà họ vẫn có nhu cầu làm thêm.
Mỗi loại thất nghiệp có những tác động đến nền kinh tế một cách khác
nhau và Nhà nước quan tâm giải quyết theo các phương thức khác nhau.
1.1.1.3. Hậu quả của thất nghiệp
Thất nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động và gia đình
họ, tác động mạnh mẽ đến tất cả các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của
mỗi quốc gia.
a) Đối với bản thân người lao động và gia đình họ:
Thất nghiệp có thể gây ra những hậu quả rất trầm trọng. Bởi vì khi bị
mất việc làm thường đồng nghĩa với việc mất đi nguồn thu nhập chủ yếu và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

10
đương nhiên khi thất nghiệp kéo dài sẽ dẫn đến sự khó khăn, nghèo túng. Thất
nghiệp gắn liền với sự mất mát thu nhập và dễ dẫn tới bi kịch. Hậu quả là họ
từng bước bị rơi sâu vào tình trạng dưới mức sống tiêu chuẩn chung của xã
hội, sau đó nếu không có sự trợ giúp nào khác thì phải vay nợ và nếu kéo dài
sẽ dẫn đến nợ nần chồng chất. Sự tác động vào thu nhập cho gia đình phụ

thuộc vào tiền thất nghiệp của bản thân họ nhận được cũng như thu nhập của
những thành viên khác trong gia đình còn việc làm.
Thậm chí hậu quả của nạn thất nghiệp còn không tự động xóa bỏ
những rào cản đối với những người có việc làm trở lại, hòa nhập với đời
sống xã hội chung. Điều này diễn ra đối với những người lao động, đặc biệt
đối với người sau khi thất nghiệp, phải xác lập một quan hệ lao động mới,
thường đi liền với điều kiện làm việc và điều kiện về tài chính kém hơn việc
làm trước đó. Nạn thất nghiệp cũng không chỉ là hậu quả về tài chính mà
còn là hậu quả về khả năng nghề nghiệp. Khi thất nghiệp kéo dài, hậu quả là
họ bị mất đi khả năng nâng cao trình độ nghề nghiệp. Điều đó sẽ đe dọa
không chỉ về phía họ, họ sẵn sàng bị thất nghiệp, mà còn ngăn cản việc học
nghề hay chuyển vào một nghề khác.
b) Đối với nền kinh tế:
Thất nghiệp là một sự lãng phí nguồn lực xã hội, là một trong những
nguyên nhân cơ bản làm cho nền kinh tế bị đình đốn, chậm phát triển, làm
khả năng sản xuất thực tế kém hơn tiềm năng, nghĩa là tổng thu nhập quốc gia
(GNI) thực tế thấp hơn tổng thu nhập quốc gia tiềm năng. Nếu tình trạng thất
nghiệp gia tăng sẽ kéo theo sự gia tăng của lạm phát, từ đó làm cho nền kinh
tế bị suy thoái; khả năng phục hồi chậm. Đối với người thất nghiệp, thu nhập
bị mất đi dẫn đến đời sống khó khăn,…
+ Đối với xã hội: thất nghiệp đã làm cho người lao động hoang mang,
buồn chán và thất vọng, tinh thần luôn bị căng thẳng và dẫn tới khủng hoảng
lòng tin. Về khía cạnh xã hội, thất nghiệp là một trong những nguyên nhân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

11
gây nên những hiện tượng tiêu cực, đẩy người thất nghiệp đến chỗ bất chấp
kỷ cương, luật pháp và đạo đức để tìm kế sinh nhai như: trộm cắp, cờ bạc,
mại dâm, tiêm chích ma túy,…

Thất nghiệp gia tăng còn làm cho tình hình chính trị và xã hội bất ổn,
hiện tượng bãi công, biểu tình có thể xảy ra. Người lao động giảm niềm tin và
chế độ, vào khả năng lãnh đạo của nhà cầm quyền. Tỷ lệ thất nghiệp là một
trong những chỉ tiêu đánh giá uy tín của nhà cầm quyền.
1.1.2. Bảo hiểm thất nghiệp
1.1.2.1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm thất nghiệp
BHTN xuất hiện lần đầu tiên ở Châu Âu, trong một nghề khá phổ biến
và phát triển: nghề sản xuất các mặt hàng thủy tinh ở Thụy Sĩ. Nghề này rất
cần thợ lành nghề và được tổ chức trong một phạm vi nhỏ hẹp khoảng 20 đến
30 công nhân. Để giữ được những công nhân có tay nghề cao gắn bó với
mình, năm 1893 các chủ doanh nghiệp ở Thụy Sĩ đã lập ra quỹ doanh nghiệp
để trợ cấp cho những người thợ phải nghỉ việc vì lý do thời vụ sản xuất. Sau
đó, nhiều nghiệp đoàn ở châu Âu cũng đã lập ra quỹ công đoàn để trợ cấp cho
đoàn viên trong những trường hợp phải nghỉ việc, mất việc. Tiền trợ cấp được
tính vào giá thành sản phẩm và người sử dụng hàng hóa phải gánh chịu. Khi
thấy rõ vai trò và tác dụng của trợ cấp nghỉ việc, mất việc đối với công nhân,
nhiều chính quyền địa phương đã tổ chức liên kết các doanh nghiệp, các
nghiệp đoàn lao động để hình thành quỹ trợ cấp, thực chất đó là quỹ BHTN.
Quỹ BHTN tự nguyện đầu tiên ra đời tại Bécnow (Thụy Sĩ) vào năm 1893.
Tham gia đóng góp cho quỹ lúc này không chỉ có giới chủ mà có cả những
người lao động có công việc làm không ổn định. Để tăng mức trợ cấp thất
nghiệp đòi hỏi quy mô của quỹ phải lớn, cho nên đã có sự tham gia đóng góp
của cả chính quyền địa phương và trung ương.
Hệ thống pháp luật đầu tiên về BHTN được hình thành ở Na Uy và Đan
Mạch trong thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20. Hệ thống pháp luật này đã hình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

12
thành các quỹ BHTN dựa trên nguyên tắc tham gia tự nguyện và có sự hỗ trợ

tài chính của Nhà nước. Những hệ thống pháp luật tương tự đã được áp dụng
ở các quốc gia châu Âu khác trong và sau Thế chiến thứ nhất.
Anh là nước đầu tiên thực hiện BHTN dựa trên nguyên tắc bắt buộc
(được Quốc hội Anh thông qua năm 1911). Italy là quốc gia thứ hai trên thế
giới áp dụng hệ thống bắt buộc vào năm 1919. Trong những năm 1920, một
loạt các quốc gia ở Châu Âu đã ban hành pháp luật quốc gia về BHTN bắt
buộc. Canada và Hoa Kỳ đã làm như vậy vào những năm 1930.
Trợ cấp bằng tiền mặt dưới hình thức trợ giúp thất nghiệp được chi trả
cho người thất nghiệp mà các nguồn thu nhập không vượt quá giới hạn quy
định lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1921 ở Luxembourg. Năm 1938,
New Zeala áp dụng một chương trình BHTN toàn diện và trợ giúp thất nghiệp
được thực hiện trên cơ sở thẩm tra thu nhập của cá nhân. Australia đã xây
dựng một hệ thống tương tự vào năm 1944.
Từ đó đến nay, BHTN bắt buộc đã được triển khai rộng đến các quốc
gia khác. Trợ cấp BHTN được chi trả cho những cá nhân bị thất nghiệp không
do lỗi của họ và vì thế bị mất nguồn thu nhập mà họ và gia đình của họ phụ
thuộc vào. Khi bị thất nghiệp "không tự nguyện" (nghĩa là những cá nhân
không tự gây ra lý do để bị sa thải), người lao động sẽ được nhận trợ cấp
BHTN, thông thường chỉ được nhận trong một khoảng thời gian tương đối
ngắn. Tuy nhiên, hạn chế thời gian chi trả trợ cấp BHTN không phải là vấn
đề đơn giản. Nếu không có một sự kiểm soát chặt chẽ đối với những người
đề nghị hưởng trợ cấp BHTN, các cơ quan quản lý BHTN sẽ phải chi trả trợ
cấp thất nghiệp trong một thời gian không có giới hạn. Điều này cũng có thể
gắn với nguy cơ của việc giảm hoặc thậm chí triệt tiêu động cơ tìm kiếm việc
làm mới.
Hiện nay có ba loại hình BHTN chủ yếu trên thế giới:
- BHTN bắt buộc trong đó những nhóm người lao động nhất định bắt
buộc phải tham gia;

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN


13
- BHTN tự nguyện có sự hỗ trợ tài chính của Nhà nước, sự tham gia là
tự nguyện (chỉ trừ trường hợp các thành viên công đoàn được yêu cầu đóng
góp cho các quỹ của công đoàn);
- Trợ giúp thất nghiệp các quỹ công được hình thành dành cho những
người bị mất việc khi đáp ứng được các điều kiện về thẩm tra thu nhập hoặc
tài sản.
1.1.2.2. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp
BHTN là sự hỗ trợ một phần thu nhập cho người lao động bị mất thu
nhập do thất nghiệp và hỗ trợ họ sớm quay trở lại thị trường lao động. [16]
BHTN là bảo hiểm bồi thường cho người lao động bị thiệt hại về thu
nhập do bị mất việc làm để họ ổn định cuộc sống và có điều kiện tham gia vào
thị trường lao động.
Như vậy, mục đích của BHTN là trợ giúp về mặt tài chính cho người
thất nghiệp để họ ổn định cuộc sống cá nhân và gia đình trong một chừng
mực nhất định, từ đó tạo điều kiện cho họ tham gia vào thị trường lao động để
có những cơ hội mới về việc làm. Vì thế, một số nhà kinh tế học cho rằng
BHTN là hạt nhân của thị trường lao động và nằm trong chính sách kinh tế xã
hội của quốc gia. Chính sách này trước hết vì lợi ích của người lao động và
người sử dụng lao động sau nữa là vì lợi ích xã hội.
BHTN cũng là một loại hình bảo hiểm con người, song nó có một số
đặc điểm khác như: không có hợp đồng trước, người tham gia và hưởng thụ
quyền lợi là một, không có việc chuyển rủi ro của những người bị thất nghiệp
sang những người khác có khả năng thất nghiệp. BHTN không có dự báo
chính xác về số lượng và phạm vi và có thể bị thiệt hại về kinh tế rất lơn, đặc
biệt là trong những thời kỳ nền kinh tế bị khủng hoảng.
Ở đây có một số điểm cần nhấn mạnh.
- Mức hỗ trợ thu nhập dựa trên cơ sở đóng góp của người lao động
trước khi bị thất nghiệp.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - ĐHTN

14
- Người lao động tham gia BHTN, khi thất nghiệp sẽ được hỗ trợ về tư
vấn giới thiệu việc làm, đào tạo nghề để có thể sớm tìm được việc làm, gia
nhập lại thị trường lao động.
Như vậy, bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định
cuộc sống cho người lao động trong thời gian mất việc làm thì mục đích chính
của BHTN là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc
làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới thích
hợp và ổn định.
Nguồn tài chính hỗ trợ cho người thất nghiệp được lấy từ quỹ BHTN.
Quỹ BHTN là quỹ tiền tệ tập trung, được hình thành từ sự đóng góp
của các bên tham gia BHTN, theo nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro, không
vì mục đích lợi nhuận. Quỹ này được dùng để trợ cấp cho người lao động bị
thất nghiệp, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và gia đình.
1.2. Chính sách bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm và mục tiêu của chính sách bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm chính sách bảo hiểm thất nghiệp
Bảo hiểm thất nghiệp ra đời mang tính tất yếu khách quan, gắn liền với
nền kinh tế thị trường, khi sức lao động được coi là một loại hàng hóa đặc
biệt. Mối quan hệ giữa các bên tham gia BHTN chỉ tồn tại và phát huy vai trò
khi có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước. Nhà nước với tư cách là chủ thể quản
lý phải sử dụng các công cụ quản lý nhằm đạt được các mục tiêu chiến lược
phát triển của đất nước, trong đó có chính sách BHTN.
Chính sách BHTN là sự tác động của Nhà nước tới các đối tượng tham
gia BHTN thông qua các biện pháp, công cụ chính sách nhằm mục tiêu an
sinh xã hội, ổn định và phát triển kinh tế [15].
Có thể nhận thấy, chính sách BHTN là một chính sách công. Do vậy,

chủ thể chính sách là Nhà nước.

×