BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG
THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI, NĂM 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP & PTNT
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG
THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.34.04.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. MAI THANH CÚC
HÀ NỘI, NĂM 2014
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn nghiên cứu là của cá nhân dựa trên cơ sở
lý thuyết được học tập và qua tham khảo tình hình thực tiễn tại thành phố
Bắc Ninh, nghiên cứu địa bàn Thành Phố Bắc Ninh dưới sự hướng dẫn của
PGS. TS Mai Thanh Cúc.
Các số liệu, bảng biểu, sơ đồ và những kết quả trong luận văn là
trung thực, các giải pháp đưa ra xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu và kinh
nghiệm phù hợp với địa phương. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều
đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Bắc Ninh, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hương Giang
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại trường, tôi xin trân trọng gửi
lời cảm ơn đến Ban Giám hiệu, Ban Quản lý Đào tạo, Ban Chủ nhiệm Khoa
Kinh tế & PTNT Học viện Nông Nghiệp Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Mai Thanh Cúc đã tận
tình chỉ dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn đến lãnh đạo Cục thuế tỉnh Bắc Ninh
UBND thành phố Bắc Ninh, phòng Tài chính - kế hoạch, Chi cục Thuế thành
phố Bắc Ninh và một số ban ngành liên quan đã tạo điều kiện thuận lợi, cung
cấp cho tôi số liệu, kiến thức, kinh nghiệm thực tế về công tác thu Ngân sách
Nhà nước của thành phố Bắc Ninh
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các đồng chí lãnh đạo, đồng nghiệp, bè bạn
và gia đình đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ, động viên khích lệ tôi, đồng thời có
những ý kiến đóng góp trong quá trình tôi thực hiện và hoàn thành luận văn.
Bắc Ninh, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Hương Giang
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iii
MỤC LỤC
Lời cam đoan i
Lời cảm ơn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng vi
Danh mục viết tắt viii
1. MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 2
1.2.1 Mục tiêu chung 2
1.2.2 Mục tiêu cụ thể 2
1.3 Câu hỏi nghiên cứu 2
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu 3
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu 3
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 4
2.1 Lý luận cơ bản về NSNN và thu NSNN 4
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản 4
2.1.2 Vai trò của NSNN và thu NSNN 7
2.1.3 Đặc điểm của thu NSNN 9
2.1.4 Chức năng của thu NSNN 9
2.1.5 Nội dung và hình thức thu NSNN 11
2.1.6 Các nguyên tắc thu Ngân sách Nhà nước: 16
2.1.7 Những nhân tố ảnh hưởng đến thu NSNN 17
2.2 Cơ sở thực tiễn về thu NSNN 20
2.2.1 Kinh nghiệm về thu ngân sách của một số nước trên thế giới 20
2.2.2 Kinh nghiệm thực tế trong nước về thu ngân sách 23
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page iv
2.2.3 Những bài học kinh nghiệm 27
3. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29
3.1 Đặc điểm địa bàn thành phố Bắc Ninh 29
3.1.1 Đặc điểm tự nhiên 29
3.1.2 Đặc điểm về nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội 31
3.1.3 Tình hình phát triển KTXH giai đoạn 2011– 2013 34
3.2 Phương pháp nghiên cứu 38
3.2.1 Lựa chọn địa bàn nghiên cứu 38
3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin 39
3.3 Phương pháp xử lý, tổng hợp và phân tích thông tin 42
3.3.1 Phương pháp xử lý thông tin 42
3.3.2 Phương pháp phân tích đánh giá 42
3.4 Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 43
3.4.1 Nhóm chỉ tiêu thể hiện thu Ngân sách Nhà nước 43
3.4.2. Nhóm chỉ tiêu phản ánh hoạt động thu Ngân sách Nhà nước 43
3.4.3 Nhóm chỉ tiêu phản ánh tốc độ thu Ngân sách Nhà nước 44
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 45
4.1 Thực trạng thu NSNN trên địa bàn thành phố Bắc Ninh giai đoạn
2011- 2013 45
4.1.1 Số lượng và cơ cấu các khoản thu NSNN trên địa bàn thành phố
Bắc Ninh 48
4.1.2 Tình hình thu NSNN trên địa bàn thành phố Bắc Ninh 51
4.2 Đánh giá chung về công tác thu ngân sách trên địa bàn thành phố
Bắc Ninh giai đoạn 2011 – 2013 81
4.2.1 Những thuận lợi và khó khăn trong công tác thu NSNN 81
4.2.2 Những kết quả đạt được và hạn chế trong thu NSNN 83
4.2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến thu Ngân sách trên địa bàn thành phố 89
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page v
4.2.4 Định hướng và mục tiêu phát triển kinh tế của Thành phố Bắc
Ninh đến năm 2015 92
4.2.5 Một số giải pháp tăng thu Ngân sách trên địa bàn thành phố Bắc Ninh 95
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 107
5.1 Kết luận 107
5.2 Kiến nghị 108
5.2.1 Đối với Trung ương 108
5.2.2 Đối với các đơn vị cấp tỉnh 109
5.2.3 Kiến nghị với chính quyền thành phố 110
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1 Một số chỉ tiêu Kinh tế- xã hội thành phố Bắc Ninh ( Giai
đoạn 2011-2013) 34
Bảng 3.2 Tình hình giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành
phố Bắc Ninh( Giai đoạn 2011-2013) 36
Bảng 3.3 Một số kết quả chủ yếu về thương mại- dịch vụ của thành
phố Bắc Ninh ( Giai đoạn 2011-2013) 37
Bảng 3.4 Thông tin chung về doanh nghiệp . 41
Bảng 3.5 Thông tin chung về hộ kinh doanh cá thể 41
Bảng 3.6 Thông tin chung về đối tượng phỏng vấn 42
Bảng 4.1 Tình hình thực hiện thu ngân sách trên địa bàn thành phố
Bắc Ninh ( Giai đoạn 2011-2013) 46
Bảng 4.2 So sánh tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng thu ngân
sách ( Giai đoạn 2011-2013) 47
Bảng 4.3 Kế hoạch thu Ngân sách trên địa bàn thành phố ( Giai đoạn
2011-2013) 48
Bảng 4.4 Thu và cơ cấu các khoản thu Ngân sách trên địa bàn Thành
phố Bắc Ninh ( Giai đoạn 2011- 2013) 50
Bảng 4.5 Tình hình thực hiện kế hoạch thu Ngân sách trên địa bàn
thành phố Bắc Ninh ( Giai đoạn 2011- 2013) 53
Bảng 4.6 Thu và cơ cấu các khoản thu Ngân sách trong cân đối do
thành phố Bắc Ninh quản lý ( Giai đoạn 2011- 2013) 57
Bảng 4.7 Tình hình hoàn thành kế hoạch các khoản thu Ngân sách
trong cân đối do thành phố Bắc Ninh quản lý ( Giai đoạn
2011-2013) 58
Bảng 4.8 Tình hình thực hiện thu từ CTN – NQD trên địa bàn thành
phố Bắc Ninh( Giai đoạn 2011-2013) 59
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page vii
Bảng 4.9 Cơ cấu và biến động nguồn thu CTN-NQD trên địa bàn
thành phố Bắc Ninh (Giai đoạn 2011-2013) 61
Bảng 4.10 Tổng hợp bộ thuế CTN – NQD trên địa bàn thành phố Bắc
Ninh (Giai đoạn 2011-2013) 63
Bảng 4.11 Số thuế còn nợ năm 2013 của các đơn vị trên địa bàn thành
phố Bắc Ninh 64
Bảng 4.12 Cơ cấu biến động các khoản thu lệ phí trước bạ, thuế nhà
đất, thu tiền thuê đất và thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn
thành phố Bắc Ninh (Giai đoạn 2011-2013) 67
Bảng 4.13 Tình hình thực hiện các khoản thu lệ phí trước bạ, thuế nhà
đất, thu tiền thuê đất và thuế thu nhập cá nhân trên địa bàn
thành phố Bắc Ninh ( Giai đoạn 2011-2013) 69
Bảng 4.14 Tình hình thực hiện thu phí và lệ phí trên địa bàn thành
phố Bắc Ninh (Giai đoạn 2011-2013) 71
Bảng 4.15 Tình hình thực hiện thu tiền sử dụng đất trên địa bàn thành
phố Bắc Ninh ( Giai đoạn 2011-2013) 75
Bảng 4.16 Tình hình thực hiện các khoản thu khác ngân sách trên địa
bàn thành phố Bắc Ninh ( Giai đoạn 2011-2013) 76
Bảng 4.17 Thu và cơ cấu các khoản thu NSNN ngoài cân đối trên địa bàn
thành phố Bắc Ninh ( Giai đoạn 2011-2013) 78
Bảng 4.18 Tình hình thực hiện kế hoạch các khoản thu NSNN ngoài
cân đối trên địa bàn thành phố Bắc Ninh( Giai đoạn 2011-
2013) 80
Bảng 4.19 Tổng hợp số liệu điều tra đánh giá công tác thu NSNN 87
Bảng 4.20 Tổng hợp số liệu điều tra những yếu tố hạn chế đến thu
NSNN trên địa bàn 87
Bảng 4.21 Quy hoạch tổng thể phát triển KTXH thành phố Bắc Ninh
đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 93
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page viii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU
CTN- NQD Công thương nghiệp- ngoài quốc doanh
DNNN Doanh nghiệp nhà nước
ĐVT Đơn vị tính
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GNP Tổng sản phẩm quốc dân
HĐND Hội đồng nhân dân
KTXH Kinh tế - xã hội
NSNN Ngân sách Nhà nước
NSTW Ngân sách trung ương
Tr.đ Triệu đồng
Thành phố Thành phố Bắc Ninh
UBND Uỷ ban nhân dân
XDCB Xây dựng cơ bản
XHCN Xã hội chủ nghĩa
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 1
1. MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thu ngân sách Nhà nước (NSNN) có vai trò quan trọng trong quá trình
khai thác, động viên và tập trung các nguồn tài chính cần thiết để tạo lập quỹ
NSNN, đáp ứng nhu cầu chi tiêu đã được dự tính cho từng giai đoạn phát
triển. Việc tập trung đầy đủ các nguồn tài chính cần thiết vào NSNN để hình
thành quỹ NSNN có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến sự thành bại của các
cuộc cải cách KTXH, khắc phục được tình hình bội chi NSNN, kiềm chế lạm
phát và ổn định tiền tệ.
Trong những năm qua tình hình kinh tế của đất nước đứng trước những
khó khăn do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế, giá cả, lạm phát tăng cao. Bên
cạnh đó việc thị trường bất động sản trầm lắng, nhiều dự án ngưng trệ đã ảnh
hưởng rất nhiều tới nguồn thu NSNN.
Thành phố Bắc Ninh là trung tâm về kinh tế, văn hóa, chính trị của tỉnh
Bắc Ninh, với mục tiêu đến năm 2015 cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp theo
hướng hiện đại với nhịp độ tăng trưởng kinh tế từ nay cho đến năm 2015 đạt
14,5 – 15% và đến những năm 2020 tỉnh Bắc Ninh cơ bản đủ các tiêu chí trở
thành thành phố trực thuộc Trung ương. Để làm được điều đó thì thành phố
cần phải lựa chọn các khâu đột phá để đầu tư phát triển và theo tính toán sơ
bộ tổng nguồn vốn đầu tư 5 năm 2011 – 2015 cần khoảng 27.205 tỷ đồng
(theo giá hiện hành) chiếm khoảng 25,5 %; thời kỳ 2016-2020 khoảng 56.978
tỷ đồng, chiếm khoảng 23,3% tổng nhu cầu đầu tư toàn tỉnh
(1)
. (Điều chỉnh
quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội thành phố Bắc Ninh đến năm
2015 và định hướng đến năm 2020)
(1)
Nhu cầu đầu tư toàn tỉnh (theo quy hoạch tổng thể KT-XH tỉnh đến năm 2020 thời kỳ 2006-2010
khoảng 48-49 nghìn tỷ đồng, thời kỳ 2011-2015 khoảng 118-119 nghìn tỷ đồng và thời kỳ 2016-2020 khoảng
279-280 nghìn tỷ đồng
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 2
Do đó, việc quản lý chặt chẽ và khai thác tốt các nguồn thu, chủ động
đưa ra các biện pháp chống thất thu trên địa bàn thành phố là một yêu cầu cần
thiết. Tuy nhiên, trong thời gian qua nguồn thu NSNN của thành phố đạt thấp
chủ yếu do nền kinh tế đang trong giai đoạn khó khăn, nhiều nguồn lực tài
chính không được động viên vào NSNN, nguồn thu NSNN trên địa bàn hàng
năm chưa đảm bảo tự cân đối thu- chi. Việc phát hiện và nuôi dưỡng các nguồn
thu, triển khai các giải pháp tăng thu ngân sách để ổn định và phát triển KTXH
trên địa bàn vẫn còn nhiều bất cập cần được giải quyết.
Trong bối cảnh tình hình kinh tế trong những năm tới được dự báo là
tiếp tục khó khăn thì đây là một thách thức lớn, đòi hỏi phải có những giải
pháp đồng bộ của các cấp, các ngành trên toàn tỉnh.
Xuất phát từ những yêu cầu thực tế và ý nghĩa quan trọng nêu trên, đề
tài “Thu NSNN trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh” đã được lựa
chọn để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng thu ngân sách trên địa bàn từ đó đề xuất một số
giải pháp chủ yếu nhằm tăng thu ngân sách trên địa bàn thành phố Bắc Ninh,
tỉnh Bắc Ninh.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về thu NSNN.
- Đánh giá thực trạng thu NSNN và phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến thực trạng đó trên địa bàn Thành phố Bắc Ninh trong những năm qua.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng thu ngân sách trên địa
bàn thành phố Bắc Ninh trong những năm tới.
1.3 Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết được nội dung nghiên cứu của đề tài chính là việc phải
trả lời những câu hỏi sau:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 3
- Những luận cứ cơ bản về NSNN, thu NSNN.
- Thực trạng công tác thu NSNN trên địa bàn thành phố Bắc Ninh.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thu NSNN trên địa bàn thành phố Bắc Ninh.
- Những giải pháp nào cần thực hiện để tăng thu NSNN trên địa bàn
thành phố Bắc Ninh đến năm 2015.
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận, các chính
sách về thu Ngân sách Nhà nước đang áp dụng tại thành phố Bắc Ninh, đối
tượng thu bao gồm các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể và
các chuyên gia quản lý thu NSNN trên địa bàn thành phố Bắc Ninh.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Đề tài thực hiện trên địa bàn thành phố Bắc Ninh
- Thời gian nghiên cứu: Số liệu điều tra thực trạng phục vụ đề tài được
thu thập, nghiên cứu số liệu từ năm 2011 - 2013.
- Nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn thuộc phạm vi thu NSNN. Trong đó tập trung đánh giá chính sách và thực
trạng thu NSNN của thành phố Bắc Ninh.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 4
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Lý luận cơ bản về NSNN và thu NSNN
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Khái niệm về NSNN
Trong tiến trình lịch sử, NSNN đã xuất hiện và tồn tại từ lâu. Với tư
cách là công cụ tài chính quan trọng của Nhà nước, NSNN ra đời, tồn tại và
phát triển trên cơ sở hai tiền đề khách quan là tiền đề Nhà nước và tiền đề
kinh tế hàng hoá - tiền tệ.
Nhà nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập trung nguồn tài chính để
phục vụ cho các hoạt động của mình. Với sự xuất hiện và phát triển của sản
xuất hàng hoá- tiền tệ, như các chủ thể khác trong nền kinh tế, Nhà nước dựa
vào sự vận động độc lập của tiền tệ để tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ
cho các mục đích của Nhà nước. (Nguyễn Văn Tuyến, Giáo trình Luật ngân
sách Nhà nước[11]). Thuật ngữ NSNN được dùng phổ biến trong đời sống
KTXH ở mọi quốc gia. Tuy nhiên quan niệm về NSNN cũng chưa có sự thống
nhất tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau mà có những khái niệm khác nhau.
Ngay trong các cuốn giáo trình của các tác giả cũng đưa ra định nghĩa
NSNN khác nhau. Cụ thể như sau:
+ Giáo trình lý thuyết tài chính của Học viện tài chính có ghi: “NSNN
là phạm trù kinh tế và phạm trù lịch sử. NSNN được đặc trưng bằng sự vận
động của các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền
tệ tập trung của Nhà nước và các chủ thể trong xã hội, phát sinh khi Nhà nước
tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn
trả trực tiếp là chủ yếu”.
+ Giáo trình Kinh tế chính trị của Học viện Nguyễn Ái Quốc có ghi:
"NSNN là khâu tài chính tập trung quan trọng nhất, là kế hoạch tài chính cơ
bản, tổng hợp của Nhà nước. Nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 5
và có tính chất quyết định sự phát triển của nền kinh tế quốc dân theo định
hướng XHCN".
Có nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN song trong luận văn này
chúng ta thống nhất sử dụng định nghĩa được đưa ra trong luật NSNN hiện
hành được bao quát cả về lý luận và thực tiễn của nước ta hiện nay:
Luật NSNN Việt Nam (số 01/2002/QH 11 thông qua tại kỳ họp thứ 2
Quốc hội khóa 11) định nghĩa: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà
nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước”.
Định nghĩa này vừa phản ánh được nội dung cơ bản của ngân sách
(toàn bộ các khoản thu, chi ) đồng thời cũng phản ánh quá trình chấp hành
ngân sách( được thực hiện ); vừa phản ánh tính niên độ của ngân sách( trong
một năm) đồng thời thể hiện được tính pháp lý của ngân sách( đã được cơ
quan nhà nước có thẩm quyền quyết định ); vừa thể hiện quyền chủ sở hữu
ngân sách (thu, chi nhà nước) đồng thời cũng thể hiện vị trí, vai trò, chức
năng của NSNN (đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước ).
Từ đó cho thấy bên cạnh những sự khác biệt thì các định nghĩa trên có
một số điểm chung sau:
- Ngân sách là kế hoạch hoặc dự toán thu, chi của một chủ thể nhất
định, thường là một năm, gọi là năm tài chính;
- NSNN của một quốc gia là một đạo luật được cơ quan lập pháp của
quốc gia đó ban hành.
Như vậy, về bản chất NSNN là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước với các chủ thể trong xã hội, phát sinh trong quá trình phân phối và phân
phối lại của cải xã hội, nhằm tập trung một phần nguồn lực tài chính vào
trong tay nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn liền với việc thực hiện các
chức năng quản lý của nhà nước. Về hình thức biểu hiện, đó là các dự toán và
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 6
quyết toán các khoản thu, chi quá trình trực hiện chức năng của nhà nước
trong một thời gian xác định (một năm).
2.1.1.2 Khái niệm thu NSNN
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung
một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có một khoản thu nhất
định để trang trải các khoản chi phí phục vụ cho việc quản lý bộ máy Nhà
nước đồng thời Nhà nước cũng cần chi tiêu cho các khoản phúc lợi xã hội và
phát triển kinh tế. Do đó, NSNN được ra đời để đảm nhiệm vai trò phục vụ
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.
Trên cơ sở quyền lực của mình Nhà nước định ra các chính sách thu
NSNN. Mức thu NSNN thường xuyên được điều chỉnh, cao hay thấp lại tuỳ
thuộc vào từng giai đoạn phát triển kinh tế nhưng phải đảm bảo cho nền kinh
tế luôn ổn định và tăng trưởng.
Nguồn tài chính được tập trung vào NSNN tương ứng với phần giá trị
của GNP được tập trung vào tay Nhà nước, nó là những khoản thu nhập của
Nhà nước được hình thành trong quá trình Nhà nước tham gia phân phối của
cải xã hội dưới hình thức giá trị. Thu NSNN phản ánh các quan hệ kinh tế nảy
sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước
với các chủ thể trong xã hội. Sự phân phối đó là một tất yếu khách quan, xuất
phát từ yêu cầu tồn tại và phát triển của bộ máy Nhà nước cũng như yêu cầu
thực hiện các chức năng KTXH của Nhà nước. Đối tượng phân chia là nguồn
tài chính quốc gia, kết quả do lao động sản xuất trong nước tạo ra được thể
hiện dưới hình thức tiền tệ.
Tóm lại, thu NSNN thực chất là sự phân chia nguồn tài chính quốc gia
giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội dựa trên quyền lực chính trị của
Nhà nước nhằm giải quyết hài hoà các mặt lợi ích kinh tế.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 7
2.1.2 Vai trò của NSNN và thu NSNN
2.1.2.1 Vai trò của NSNN
Có thể nhìn nhận vai trò của NSNN trên hai phương diện:
- Một là, Nhà nước cần có lực lượng vật chất nhất định để thực hiện các
chức năng, nhiệm vụ của mình. Đối với bất kỳ quốc gia nào, NSNN luôn có vị
trí quan trọng trong việc đảm bảo cung cấp phương tiện vật chất cần thiết cho sự
tồn tại và hoạt động của hệ thống các cơ quan trong bộ máy quản lý nhà nước.
NSNN có vai trò huy động nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền
tệ tập trung lớn nhất trong nền kinh tế đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước. Đồng thời NSNN còn thực hiện cân đối bằng tiền giữa các khoản thu và
các khoản chi tiêu của nhà nước.
Đây là vai trò lịch sử của NSNN mà bất cứ cơ chế kinh tế nào, hình
thái KTXH nào cũng phải thực hiện, vai trò này được gọi là vai trò truyền
thống của NSNN.
- Hai là, Trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động kinh tế, sản xuất,
kinh doanh chủ yếu của các thành phần kinh tế, các ngành kinh tế chủ yếu
tuân theo sự điều tiết của các quy luật kinh tế thị trường. Điều đó không có
nghĩa là Nhà nước để phát triển tự do theo kinh tế thị trường. Nhà nước đã có
những cơ chế và chính sách nhằm hạn chế sự can thiệp trực tiếp vào nền kinh
tế. Với quyền lực của mình Nhà nước dùng các công cụ pháp luật, kế hoạch
và các chính sách để tham gia điều tiết nền kinh tế phát triển theo định hướng
XHCN. Trong các công cụ sử dụng thì Nhà nước đặc biệt chú trọng đến công
cụ NSNN, vì nó là yếu tố vật chất vô cùng quan trọng trong điều kiện của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN.
NSNN là một công cụ kinh tế vĩ mô quan trọng tác động vào nền kinh
tế, điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Có thể nói NSNN là công cụ điều
chỉnh vĩ mô nền KTXH, đây là vai trò quan trọng tất yếu của Ngân sách trong
cơ chế thị trường ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh tế. Ngân sách là
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 8
nguồn lực đầu tư quan trọng giúp cho nền kinh tế phát triển, điều chỉnh cơ cấu
kinh tế; thúc đẩy quá trình đô thị hóa, động viên mọi thành viên trong xã hội
tham gia vào quá trình phát triển. Ngân sách cùng với các công cụ khác hỗ trợ
sự hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, đồng thời tham gia
khắc phục các thất bại của nền kinh tế thị trường, tránh cho thị trường không
rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo, đảm bảo môi trường kinh
doanh lành mạnh, bảo đảm tính công bằng và hiệu quả KTXH.(Dương Đăng
Chinh, Giáo trình lý thuyết tài chính[47])
2.1.2.2 Vai trò của thu NSNN
Vai trò của thu NSNN được xem xét trên hai khía cạnh: là công cụ tập
trung nguồn lực đảm bảo duy trì sự tồn tại, hoạt động của bộ máy nhà nước và
là công cụ góp phần tổ chức quản lý nền kinh tế.
- Thu NSNN là công cụ động viên, huy động các nguồn tài chính cần
thiết nhằm tạo lập quỹ tiền tệ tập trung của NSNN, đó là sứ mạng của mọi hệ
thống thu dưới bất kì chế độ nào và đòi hỏi tất yếu của mọi Nhà nước. Nhà
nước muốn thực thi chức năng, nhiệm vụ lịch sử của mình tất yếu phải có
nguồn tài chính. Nguồn tài chính mà Nhà nước có được đại bộ phận do áp
dụng hệ thống thu ngân sách mang lại. Để thực hiện đầy đủ vai trò này điều
quan trọng đối với hệ thống thu NSNN là khai thác, phát hiện tính toán chính
xác các nguồn tài chính của đất nước có thể động viên được, đồng thời không
ngừng hoàn thiện các chính sách, chế độ thu, cơ chế tổ chức quản lý thu.
- Vai trò góp phần tổ chức quản lý nền kinh tế gắn liền với vai trò lãnh
đạo của Nhà nước, thu NSNN chi phối hoạt động của nền kinh tế, là một công cụ
thực hiện chức năng, nhiệm vụ, định hướng phát triển KTXH của Nhà nước.
Nhà nước thông qua chính sách thu của mình thể hiện sự ưu đãi với các ngành
nghề cần bảo hộ hay khuyến khích phát triển, hoặc không khuyến khích đối với
những ngành nghề gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của toàn xã hội
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 9
2.1.3 Đặc điểm của thu NSNN
- Thu NSNN ở xã hội nào cũng gắn liền với quyền lực chính trị, các
chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Xét về hình thức, thu NSNN là một hoạt
động, là quá trình của nhiều hành vi, hành động của Nhà nước. Về mặt nội
dung, thu NSNN chứa đựng các quan hệ phân phối dưới hình thức giá trị nảy
sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực tập trung một phần nguồn tài
chính quốc gia hình thành quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước.
- Mọi khoản thu của nhà nước đều được thể chế hóa bởi các chính sách,
chế độ và pháp luật của nhà nước. Thu NSNN được thực hiện theo nguyên tắc
hoàn trả không trực tiếp là chủ yếu. Phần lớn các khoản thu NSNN đều mang
tính bắt buộc, phần còn lại là các khoản thu khác của Nhà nước.
- Thu NSNN gắn chặt với thực trạng hoạt động của toàn bộ nền kinh tế
và sự vận động của các phạm trù như: Giá cả, thu nhập, lãi suất Sự vận
động của các phạm trù đó vừa tác động đến sự tăng giảm mức thu, vừa đặt ra
yêu cầu nâng cao tác dụng điều tiết của các công cụ thu NSNN.
2.1.4 Chức năng của thu NSNN
2.1.4.1 Chức năng phân bổ nguồn lực
Chức năng phân bổ nguồn lực của NSNN là khả năng khách quan mà
nhờ đó các nguồn tài lực thuộc quyền chi phối của Nhà nước, được tổ chức,
sắp xếp, phân phối một cách có tính toán đến các hiệu quả KTXH của việc sử
dụng các nguồn tài lực đó, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển vững chắc và
ổn định theo các tỉ lệ cân đối đã định của chiến lược và kế hoạch phát triển
KTXH.
Kết quả của việc vận dụng chức năng phân bổ nguồn lực là quỹ ngân
sách được tạo lập, được phân phối và sử dụng. Việc tạo lập, phân phối và sử
dụng một cách đúng đắn, hợp lý các quỹ ngân sách đó chính là sự phân bổ
một cách tối ưu các nguồn lực tài chính thuộc quyền chi phối của các chủ thể
công, nó tác động mạnh mẽ đến việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 10
chính của toàn xã hội; thúc đẩy hoàn thiện cơ cấu sản xuất, cơ cấu KTXH
bằng việc tính toán, sắp xếp các tỉ lệ tương đối quan trọng trong phân bổ các
nguồn lực tài chính. Một sự phân bổ như thế sẽ là nhân tố quan trọng ảnh
hưởng tới sự phát triển bền vững và ổn định của nền kinh tế.
2.1.4.2 Chức năng phân phối lại thu nhập
Chức năng phân phối lại thu nhập của NSNN là khả năng khách
quan mà nhờ vào đó ngân sách được sử dụng vào việc phân phối và phân
phối lại các nguồn tài chính nhằm thực hiện mục tiêu công bằng xã hội
trong phân phối và hưởng thụ kết quả của sản xuất xã hội.
Trong chức năng này, chủ thể phân phối là Nhà nước trên tư cách
người có quyền lực chính trị, còn đối tượng phân phối là các nguồn t
ài
chính đã thuộc sở hữu công cộng hoặc đang là thu nhập của các pháp
nhân và thể nhân trong xã hội mà Nhà nước tham gia điều tiết.
Công bằng về phân phối được thể hiện trên hai khía cạnh: công
bằng về mặt kinh tế và công bằng về mặt xã hội. Công bằng về kinh tế là
yêu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường, do giá cả thị trường quyết định.
Tuy nhiên, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, do những yếu tố
sản xuất của các chủ thể kinh tế hoặc cá nhân không giống nhau như sức
khoẻ, trình độ, hoàn cảnh… mà thu nhập của các chủ thể kinh tế hoặc cá
nhân có sự chênh lệch. Sự chênh lệch thu nhập này vượt quá giới hạn nào
đó sẽ dẫn đến bất công bằng xã hội. Yêu cầu công bằng xã hội là duy trì
sự chênh lệch trong phạm vi hợp lý, thích ứng với từng giai đoạn mà xã
hội có thể chấp nhận được. Trong lĩnh vực này, thu NSNN được sử dụng
làm công cụ để điều chỉnh lại thu nhập mà các chủ thể trong xã hội đang
nắm giữ. Sự điều chỉnh này được thực hiện theo hai hướng là điều tiết bớt
các thu nhập cao và hỗ trợ các thu nhập thấp. Điều tiết chênh lệch thu
nhập của các tầng lớp dân cư bằng cách đánh thuế thu nhập cao, giảm
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 11
thuế tiêu thụ với hàng hoá thiết yếu, trợ cấp Điều tiết đối với những thu
nhập do thị trường hình thành như tiền lương của người lao động, lợi
nhuận của doanh nghiệp, thu nhập về cho thuê, thu nhập về tài sản.
2.1.5 Nội dung và hình thức thu NSNN
2.1.5.1 Nguồn thu và thu nhập NSNN
Nguồn thu của NSNN là nơi cung cấp số thu cho NSNN thông qua quá
trình tác động vào đối tượng thu để điều tiết một phần của cải về cho Nhà
nước. Có rất nhiều cách phân loại nguồn thu.
* Nếu căn cứ vào sự biểu hiện của nguồn thu, ta có thể chia ra nguồn
thu trực tiếp và nguồn thu tiềm năng:
- Nguồn thu trực tiếp là nguồn thu đã thể hiện bằng tiền, chỉ cần có một
số tác động nào đó thì sẽ thu được một phần về cho NSNN. Ở những biểu
hiện cụ thể, thì đó là tiền lương, doanh thu, lợi nhuận, thu nhập doanh nghiệp,
vốn, thu nhập cá nhân Ở tầm vĩ mô thì nguồn thu thể hiện qua tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) hoặc tổng sản phẩm quốc dân (GNP). Thông thường
chúng ta hay dùng GDP.
- Nguồn thu tiềm năng là những nguồn thu chưa thể hiện bằng tiền,
nhưng có khả năng thành tiền trong một thời gian gần. Đó là đất đai, tài
nguyên, khoáng sản
Nguồn thu trực tiếp cho phép xác định thu NSNN trong hiện tại, còn
nguồn thu tiềm năng cho phép xác định khả năng thu NSNN trong tương lai.
* Nếu căn cứ vào mục đích sử dụng các nguồn thu và tính toán mức bội
chi ngân sách, ta có thể phân chia thành nguồn thu trong cân đối và thu ngoài
cân đối ngân sách.
- Thu trong cân đối ngân sách là các khoản thu được đưa vào công thức
xác định mức bội chi ngân sách. Đây chính là nội dung kinh tế của bội chi
ngân sách. Thu trong cân đối ngân sách được hiểu bao gồm các khoản thu vào
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 12
quỹ ngân sách mà khoản thu đó không kèm theo, không làm phát sinh nghĩa
vụ hoàn trả trực tiếp.
Thu trong cân đối NSNN bao gồm các khoản thu thường xuyên và thu
không thường xuyên. Mang tính chất ổn định, thường xuyên, chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng thu NSNN và được dùng để trang trải các khoản chi thường
xuyên của nhà nước, ngoài ra có một phần dành cho tích luỹ, cho đầu tư. Bao
gồm: Thuế, phí, lệ phí, thu từ tài sản của nhà nước, thu từ đóng góp tự
nguyện, viện trợ khác…
- Thu ngoài cân đối ngân sách hay thu bù đắp thiếu hụt NSNN khi số
thu NSNN không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu và Nhà nước phải đi vay, bao
gồm Phát hành tiền, vay trong nước từ các tầng lớp dân cư, các tổ chức
KTXH, vay từ nước ngoài.
Trong quá trình thu, Nhà nước tập trung được một lượng tiền nhất định
vào NSNN. Kết quả thu được đó, được gọi là thu nhập NSNN. Thu nhập
NSNN (hay còn gọi là số thu NSNN) là mục tiêu của quá trình thu và nó
thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
Như vậy, giữa nguồn thu NSNN và thu nhập của NSNN có mối quan hệ
biện chứng. Nguồn thu thể hiện khả năng, còn thu nhập của NSNN thể hiện thực
hiện một phần của khả năng. Mối quan hệ đó thường được biểu hiện bằng tỷ lệ
động viên của NSNN hay tỷ lệ thu NSNN và được tính bằng công thức:
Số thu NSNN
Tỷ lệ thu NSNN = x 100 (%)
GDP
Tỷ lệ thu NSNN có một ý nghĩa rất lớn trong nền kinh tế quốc dân. Nó
không những nói lên rằng Nhà nước cần thu như thế nào để đảm bảo chi tiêu,
mà Nhà nước còn sử dụng nó như thế nào trong phân phối thu nhập, điều
chỉnh nền kinh tế vĩ mô.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 13
2.1.5.2 Các hình thức thu NSNN
Để biến nguồn thu Ngân sách thành thu nhập NSNN cần phải có các
hình thức thu thích hợp. Hình thức thu ngân sách phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố KTXH, trong những cơ chế quản lý kinh tế khác nhau thì cơ cấu các hình
thức thu cũng khác nhau.
Hiện nay có những hình thức thu cơ bản sau đây:
- Thu thuế: Thuế là một biện pháp tài chính bắt buộc của Nhà nước
nhằm động viên một bộ phận thu nhập từ lao động, của cải, vốn, từ việc chi
tiêu hàng hoá dịch vụ và từ việc lưu giữ, chuyển dịch tài sản của các thể nhân
và pháp nhân nhằm trang trải các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế phản
ánh các quá trình phân phối lại thu nhập trong xã hội, là công cụ cơ bản thực
hiện phân phối tài chính. Việc thu thuế bao giờ cũng được thể chế bằng hệ
thống pháp luật.
Nhà nước là người đại diện cho người dân, Nhà nước thay mặt cho xã
hội cung cấp cho mọi người dân hàng hoá và dịch vụ công cộng thuần tuý,
dịch vụ công cộng vô hình, việc lượng hoá chi phí cụ thể để từng người dân
phải trả khi thụ hưởng các dịch vụ này theo nguyên tắc ngang giá là rất khó
thực hiện, nên việc thu hồi chi phí trực tiếp cũng rất khó khăn. Do vậy, nhiều
nước trên thế giới đều dùng công cụ thuế để thu hồi các chi phí này.
Nhà nước với quyền lực của mình quy định thuế được coi là phần nộp
mà người dân trích một phần thu nhập của mình trả cho hàng hoá dịch vụ
công cộng của Nhà nước. Nhà nước thu thuế không phải bóc lột người dân,
mà thực chất là người đại diện, được xã hội giao phó cho việc cung ứng hàng
hoá dịch vụ công cộng, mà thuế là nguồn lực tạo ra hàng hoá dịch vụ công
cộng đó.
- Thu phí và lệ phí:
Trong điều kiện kinh tế thị trường, đối với hàng hoá dịch vụ tư nhân,
khi người dân muốn nhận một sản phẩm hàng hoá dịch vụ nào đó thì buộc họ
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 14
phải đưa ra một lượng giá trị tương đương để trao đổi theo nguyên tắc ngang
giá. Còn khi thụ hưởng hàng hoá dịch vụ công cộng thì việc trả các chi phí
phức tạp hơn. Cụ thể:
Hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp thì việc thu hồi chi phí thực
hiện theo giá quy định của Nhà nước; giá này thường ít bị chi phối bởi quy
luật thị trường.
+ Đối với dịch vụ công cộng hữu hình do Nhà nước cung cấp, thì Nhà
nước cũng phải xác định "giá phí" mà người thụ hưởng phải thanh toán. Tuy
nhiên "giá phí" này thường không hoàn toàn vì mục đích kinh tế, mà còn
mang ý nghĩa chính trị, xã hội Do đó, chúng phổ biến là không tính đủ chi
phí và không bị chi phối nhiều bởi các yếu tố thị trường.
Như vậy, thu phí của Nhà nước thực chất là Nhà nước thu hồi một phần
hay toàn bộ chi phí đầu tư cung cấp dịch vụ công cộng hữu hình cho xã hội,
đồng thời cũng là các khoản chi phí mà người dân phải trả khi thụ hưởng các
dịch vụ công cộng đó.
+ Ngoài ra, một số cơ quan Nhà nước cung cấp các dịch vụ hành chính,
pháp lý cụ thể cho người dân. Người dân thụ hưởng dịch vụ này phải trả một
phần chi phí. Tuy thế, việc thu khoản tiền này hoàn toàn không có ý nghĩa là
thu hồi một phần chi phí do cơ quan của bộ máy Nhà nước bỏ ra, ở đây không
phải là thu phí, không phải là giá dịch vụ, mà khoản thu này chủ yếu phục vụ
yêu cầu quản lý Nhà nước. Người dân thụ hưởng dịch vụ này có nghĩa vụ nộp
cho Nhà nước một khoản tiền. Đây chính là các khoản lệ phí. Lệ phí là khoản
thu phát sinh ở các cơ quan của bộ máy chính quyền Nhà nước có cung cấp
dịch vụ công cộng về hành chính, pháp lý cho dân chúng. Lệ phí thường là
khoản thu nhỏ, rải rác, lẻ tẻ, chủ yếu phát sinh ở các địa phương.
Như vậy, phí và lệ phí là khoản thu có tính chất bắt buộc, là khoản tiền
mà mọi công dân trả cho Nhà nước khi họ hưởng thụ các dịch vụ do Nhà
nước cung cấp. So với thuế, tính pháp lý của phí và lệ phí thấp hơn nhiều.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam – Luận văn Thạc sỹ Khoa học Kinh tế
Page 15
Thu phí và lệ phí nhằm tạo nên thu nhập, bù đắp chi tiêu của Nhà nước
ở các lĩnh vực tạo ra hàng hoá dịch vụ công cộng, hành chính, pháp lý, góp
phần thực hiện công bằng xã hội khi hưởng thụ các hàng hoá dịch vụ công
cộng của người dân. Đồng thời, qua việc thu phí và lệ phí, Nhà nước thực
hiện việc quản lý và kiểm soát có hiệu quả hơn các hoạt động xã hội trong
khuôn khổ pháp luật, giúp cho người dân nâng cao ý thức trách nhiệm đối với
các giá trị vật chất và tinh thần của cộng đồng xã hội.
Thu thuế, phí và lệ phí là những khoản thu thường xuyên, chiếm từ
90% - 95% trong tổng số thu NSNN.
Ngoài ra, còn có những khoản thu không thường xuyên:
+ Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước (như thu hồi vốn,
chia lãi góp vốn, thu hồi tiền vay, phụ thu, thu chênh lệch giá );
+ Thu sự nghiệp: Đây là khoản thu gắn liền với hoạt động sự nghiệp;
+ Thu hồi quỹ dự trữ Nhà nước;
+ Thu tiền sử dụng đất, thu tiền cho thuê đất;
+ Các khoản huy động đóng góp của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội;
+ Tiền bán tài sản, cho thuê tài sản thuộc sở hữu Nhà nước trong các
đơn vị hành chính sự nghiệp;
+ Các di sản Nhà nước được hưởng;
+ Các khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước. Đây là khoản đóng góp thường mang tính chất nhân đạo;
+ Thu tiền kết dư ngân sách năm trước;
+ Thu tiền phạt, tiền bán hàng tịch thu;
+ Thu viện trợ bằng tiền, bằng hiện vật của Chính phủ các nước, các tổ
chức và các cá nhân nước ngoài;
+ Các khoản vay trong nước, vay nước ngoài của Chính phủ để bù đắp
bội chi ngân sách và các khoản huy động vốn đầu tư của các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương;