Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tư tưởng nhập thế của phật giáo thời Lý - Trần và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.39 KB, 108 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN




HOÀNG THỊ QUYÊN





TƢ TƢỞNG NHẬP THẾ CỦA PHẬT GIÁO THỜI
LÝ - TRẦN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY




Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học







HÀ NỘI- 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN




HOÀNG THỊ QUYÊN





TƢ TƢỞNG NHẬP THẾ CỦA PHẬT GIÁO THỜI
LÝ - TRẦN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY


Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Đặng Thị Lan




HÀ NỘI- 2015

1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 2
CHƢƠNG 1 11
TƢ TƢỞNG NHẬP THẾ CỦA PHẬT GIÁO LÝ - TRẦN 11
1.1. Điều kiện, tiền đề hình thành tƣ tƣởng nhập thế của Phật giáo thời
Lý - Trần 11
1.1.1. Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thời Lý - Trần 11
1.1.2. Tiền đề tư tưởng 19
1.1.3. Khái quát diện mạo Phật giáo thời Lý - Trần 24
1.2. Nội dung tƣ tƣởng nhập thế của Phật giáo thời Lý - Trần 30
1.2.1. Tư tưởng bình đẳng 30
1.2.2 Tư tưởng yêu nước 38
1.2.3. Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” 46
CHƢƠNG 2 57
VAI TRÒ TƢ TƢỞNG NHẬP THẾ CỦA PHẬT GIÁO LÝ - TRẦN VÀ
Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY 57
2.1. Vai trò tƣ tƣởng nhập thế của Phật giáo Lý - Trần 57
2.1.1. Tư tưởng nhập thế của Phật giáo Lý - Trần đối với chính trị 57
2.1.2.Tư tưởng nhập thế của Phật giáo Lý - Trần đối với đạo đức 69
2.1.3. Tư tưởng nhập thế của Phật giáo Lý - Trần đối với giáo dục, văn
hóa, nghệ thuật 76
2.2. Ý nghĩa tƣ tƣởng nhập thế của Phật giáo Lý - Trần đối với xã hội
Việt Nam hiện nay 87
2.2.1. Phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết nhằm giữ gìn độc lập
dân tộc 87
2.2.2. Phát huy truyền thống gắn đạo với đời, tham gia công tác từ
thiện xã hội 91
2.2.3. Phát huy các giá trị đạo đức Phật giáo Lý - Trần trong việc chấn
hưng đạo đức xã hội 95
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102


2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo xâm nhập vào nước ta từ rất sớm và để lại nhiều dấu ấn sâu
sắc trong đời sống văn hóa, tinh thần của người Việt Nam. Phật giáo luôn đề
cao tinh thần hòa hợp, đoàn kết trên tinh thần giải thoát và giác ngộ của con
người, nên khi truyền đến dân tộc nào cũng tùy thuận để thích nghi với văn
hóa và tín ngưỡng của dân tộc đó. Đó chính là tính dung hợp, uyển chuyển và
năng động của Phật giáo. Khác với Nho giáo, Ki tô giáo, Phật giáo không gây
lên một sự đảo lộn, một sự phủ định những giá trị tinh thần, những phong tục
tập quán truyền thống của người Việt Nam. Khi các nhà sư Ấn Độ đến Việt
Nam đã mang theo nếp sinh hoạt tôn giáo cơ bản của Đạo Phật như thực hành
ngũ giới, thập thiện, làm bố thí, cúng dường, thái độ từ bi, hỉ xả, dùng thuốc
trị bệnh cho người ốm đau Điều đó đã tác động và cảm hóa được người Việt
Nam, người Việt Nam tiếp nhận Phật giáo trước hết bởi hành động thực tiễn
của người truyền đạo.
Các quan điểm, triết lý của Phật giáo khi vào Việt Nam hầu như không
có quan niệm nào chống đối lại tín ngưỡng người Việt. Chính vì thế, Phật
giáo đã hòa mình vào nền văn hóa của dân tộc Việt Nam và trở thành một tôn
giáo dân tộc. Trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam, Phật giáo luôn
đồng hành cùng dân tộc. Đó chính là sự nhập thế của Phật giáo vào trong lòng
dân tộc, dần được bản địa hóa, Việt Nam hóa, biến thành một phần của cơ thể
văn hóa Việt Nam.
Nhập thế là một hành động điển hình của Phật giáo Việt Nam, tư tưởng
này lại được nâng lên thành tầm cao mới và đặc biệt là thời Lý - Trần đã áp
dụng thành công triết lý này thông qua các thiền sư, các vị vua, quan. Tư
tưởng nhập thế chính là hành động đem đạo ứng dụng vào ngay cuộc sống
hiện tại mà họ đang sống với một thái độ vô chấp và giải thoát ngay trong
chính đời sống hiện thực chứ không phải ở đâu xa. Chính sự nhập thế tích cực

này của Phật giáo đã mang lại sự hiện diện của Phật giáo trong suốt quá trình
thăng trầm của lịch sử dân tộc, luôn đồng hành gắn kết với dân tộc.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại, bên cạnh những thành tựu vĩ đại mà nhân loại đạt được trong
nền văn minh công nghệ thì những giá trị văn hoá tinh thần, tôn giáo không

3
hề bị xem nhẹ, mà ngược lại càng được coi trọng. Trong điều kiện lịch sử
mới, các tôn giáo không ngừng thay đổi bản thân mình để phù hợp với sự thay
đổi của xã hội. Chính sự phát triển và giao lưu giữa các tôn giáo đã góp thêm
phần thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá trong các lĩnh vực kinh tế, văn
hóa, giữa các quốc gia. Nhân loại hiện nay đang bước vào giai đoạn hậu công
nghiệp, hay nền văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri thức. Bên cạnh đời sống kinh
tế rất phát triển với một khối lượng của cải vật chất đồ sộ do tiến bộ khoa học
kỹ thuật mang lại, thì đời sống tinh thần của con người trong xã hội hiện đại
đang phải đối mặt với những khổ nạn mới như: sự phân hóa giàu nghèo, cạnh
tranh và xung đột, ô nhiễm môi trường, và sự tha hóa về mặt đạo đức lối
sống… Đối mặt với những khổ nạn ấy, Phật giáo với giá trị nhân bản trong
việc giải thoát cho con người dường như đã đáp ứng được nhu cầu tâm linh,
khoảng trống và nỗi thất vọng trong lòng con người. Bằng khả năng điều
chỉnh sự cân bằng trong nội tâm, Phật giáo có thể giúp con người sống hài
hòa trong thế giới này. Phật giáo là một tôn giáo lớn, và ngày nay chúng ta
không khỏi ngạc nhiên khi thấy nhân loại, đặc biệt là các nước phương Tây
đang có trào lưu hướng về châu Á, hướng về đạo Phật. Điều này có thể lý giải
một phần từ những giá trị nhân văn của đạo đức Phật giáo. Hơn nữa, Phật
giáo đã thực sự nhập thế trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, ngay cả các hoạt
động kinh tế kinh doanh. Phật giáo không dạy con người ta xa rời cuộc sống
để làm thần, làm thánh hoặc xuất gia làm hòa thượng trong chùa chiền, nơi
rừng sâu, mà Phật giáo hướng tới cải tạo xã hội, cải tạo thế giới bằng đạo đức,
làm cho loài người tiến bộ và nhân văn hơn.

Qua hơn hai nghìn năm có mặt ở Việt Nam, Phật giáo đã trải qua bao
thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, đồng hành, gắn bó với truyền thống dân tộc
và trở thành một tôn giáo của Việt Nam. Với tinh thần “lợi đạo, ích đời”, Phật
giáo Việt Nam đã tập hợp được lực lượng tín đồ đông đảo, đề cao các giá trị
đạo đức, nhân văn vì hạnh phúc của chúng sinh, vì sự an bình của đất nước và
đặc biệt là với nền văn hóa dân tộc. Từ khi du nhập vào Việt Nam đến nay,
trải qua các thời kỳ, Phật giáo Việt Nam đã minh chứng sinh động cho tư
tưởng nhập thế tích cực, ích đạo lợi đời trong giáo lý Phật Đà và thực tế Phật
giáo Việt Nam đã có những đóng góp xứng đáng cho công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Vì thế, nối tiếp truyền thống Phật giáo hiện nay có thể đóng

4
góp giải quyết nhiều vấn nạn mà xã hội Việt Nam đang phải đối mặt như sự
xuống cấp về đạo đức, mất cân bằng sinh thái, mất đoàn kết dẫn đến sự vô
tâm thờ ơ trước cuộc sống… bằng hành động tích cực Phật giáo chú trọng đến
việc xây dựng con người đạo đức hướng tới một xã hội nhân bản, vị tha.
Do vậy, trong xu thế toàn cầu và hội nhập kinh tế quốc tế, trước những
cơ hội và thách thức mới, nghiên cứu “Tư tưởng nhập thế của Phật giáo thời
Lý - Trần và ý nghĩa của nó đối với xã hội Việt Nam hiện nay” là công việc
có ý nghĩa, góp phần khẳng định những giá trị lớn lao mà Phật giáo đóng góp
cho dân tộc, vì mục đích xây dựng một đất nước Việt Nam ngày càng giàu
đẹp hơn. Để hiểu đúng về tầm quan trọng, vị trí của Phật giáo đối với đời
sống xã hội trong lịch sử nước nhà cũng như với xã hội Việt Nam hiện nay,
chúng tôi lựa chọn vấn đề trên làm đề tài nghiên cứu cho luận văn Thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước tới nay đã có rất nhiều học giả trong và ngoài nước nghiên
cứu về Phật giáo nói chung và Phật giáo thời Lý - Trần nói riêng. Đây là đề
tài có nguồn sử liệu khá phong phú và đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập
đến. Và có thể kể tên các công trình nghiên cứu như:

2.1. Các công trình nghiên cứu về Phật giáo và Phật giáo Việt Nam
Nguyễn Hùng Hậu với Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb
Khoa học Xã hội. Bằng phương pháp luận triết học tác giả đã trình bày tư
tưởng Phật giáo Việt Nam qua từng giai đoạn từ du nhập đến việc ra đời các
dòng thiền như Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, Trúc Lâm
Yên Tử,… cũng như ảnh hưởng của Phật giáo với dân tộc Việt Nam với sự
trình bày theo lát cắt thế giới quan và nhân sinh quan.
Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang gồm 3 tập, Nxb Văn học
Hà Nội, năm 2010. Trong công trình này, tác giả đã giới thiệu khá chi tiết về
lịch sử Phật giáo Việt Nam trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc, cũng khái
quát được một số đóng góp của Phật giáo từng thời kỳ lịch sử dân tộc với văn
học nghệ thuật, giáo dục, chính trị, quân sự, văn hóa trong đó, đã ít nhiều
cũng có đề cập đến vấn đề ảnh hưởng của Phật giáo đến văn hóa tinh thần của
người Việt Nam trong lịch sử dân tộc.

5
Nguyễn Tài Thư trong Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã
hội, năm 1998. Tác giả đã bàn về lịch sử du nhập và quá trình phát triển của
Phật giáo từ thời kỳ đầu mới du nhập đến thế kỷ XX, bàn về các tông phái
Phật giáo và đã phân tích vai trò của Phật giáo đối với lĩnh vực tư tưởng chính
trị trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam và tác giả cũng đã khẳng định: “Nếu
như nhập thế là một khuynh hướng tư tưởng của một học thuyết, một tôn giáo
chủ trương tham gia các hoạt động chính trị và giải quyết các vấn đề chính trị
xã hội thì Phật giáo không phải là một Tôn giáo nhập thế - trái lại nó là tôn
giáo xuất thế hay còn gọi là yếm thế.”
Trần Văn Giàu với một loạt các công trình như: “Giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc Việt Nam” (Nxb KHXH, Hà Nội 1975),“Đạo đức
Phật giáo trong thời hiện đại” (Nxb Tp Hồ Chí Minh 1993) và “Sự phát triển
của tư tưởng Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám” (3 tập)
(Nxb CTQG, Hà Nội 1997, 1998) đã đề cập đến những giá trị đạo đức Phật

giáo, đề cập đến những đóng góp của Phật giáo trong lịch sử tư tưởng Việt
Nam.
Ngoài ra, cũng phải kể đến Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Nguyễn
Đăng Thục, Nxb Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1991;
Kinh dị giáo lược giải của Thích Viên Giác, NXb Tôn giáo, năm 2001; Việt
Nam Phật giáo sử lược của Thích Mật Thể, Nxb Minh Đức, Huế, năm 1960;
Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát gồm 2 tập, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, năm 1999 Các cuốn sách trên đã cung cấp một cách khá tổng thể
về lịch sử Phật giáo Việt Nam: Thân thế, sự nghiệp của các nhà truyền giáo
Phật giáo đầu tiên vào Việt Nam, vai trò của các nhà sư trong triều chính cũng
như trong xã hội. Các cuộc du hành sang Ấn Độ và Trung Quốc để tìm hiểu
về Phật pháp; biên soạn lại và truyền bá những kinh điển cho phù hợp với tín
ngưỡng của người Việt; những tư tưởng thế giới quan, nhân sinh quan, đạo
đức của Phật giáo và sự nội điạ hoá những tư tưởng đó cho phù hợp với hoàn
cảnh của Việt Nam; xây dựng chùa chiền, hội hoạ, kiến trúc, điêu khắc, văn
hoá Phật giáo Giai đoạn Lý - Trần là giai đoạn mà Phật giáo phát triển đạt
đến cực thịnh, đặc biệt giai đoạn này tư tưởng nhập thế của Phật giáo cũng
được đề cao trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, nên các tài liệu trên cũng dành
những trang đáng kể để tìm hiểu về Phật giáo giai đoạn này.

6
2.2. Các công trình nghiên cứu về Phật giáo Lý - Trần
Tác giả Lê Mạnh Thát với “Toàn tập Trần Nhân Tông” (Nxb TP Hồ
Chí Minh, 2000), qua khái quát tổng hợp toàn bộ tư tưởng và hành động của
Trần Nhân Tông trong công cuộc dựng nước và giữ nước, đã đặc biệt nhấn
mạnh tài ứng dụng đạo Phật vào trị quốc, an dân. Qua đó tác giả đã làm nổi
bật được tinh thần nhập thế thiết thực ở Phật Hoàng Trần Nhân Tông.
Nguyễn Tài Thư với “Xu hướng nhập thế trong tư tưởng Phật giáo
Trần Nhân Tông” (tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 11/2009, tr. 13-20) đã phân
tích từ tư tưởng xuất thế vốn có của Phật giáo đến tư tưởng nhập thế của Phật

giáo Trần Nhân Tông, cụ thể qua các tác phẩm thiền học của ông. Tác giả kết
luận, ở Trần Nhân Tông yếu tố nhập thế thể hiện rõ ở sự thống nhất hai mặt
trong con người ông: con người triều thần và con người Phật tử, vì vậy tôn
sùng Phật giáo và nhập thế hoạt động luôn là một trong con người Trần
Nhân Tông.
Lịch sử tư tưởng Việt Nam của PGS. Nguyễn Tài Thư (chủ biên), tập I,
(tư tưởng Việt Nam từ thời kỳ Nguyên thủy đến thế kỷ XVIII), Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, năm 1993. Quyển sách này chủ yếu trình bày tư tưởng triết
học của các vị vua, quan và các vị thiền sư.
Thơ văn Lý - Trần, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1977;
Thơ văn Lý - Trần, tập 2, Quyển thượng, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm
1989; Thơ văn Lý - Trần, tập 3, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, năm 1978;
Khóa hư lục (Đào Duy Anh dịch) của Trần Thái Tông, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, năm 1974; Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, năm 2000; Thiền học Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục, Nxb Thuận
Hóa, năm 1997…
Trần Thánh Tông với “Khoá hư lục” đã phản ánh khá rõ ảnh hưởng
của Phật giáo trong đời sống văn hoá tinh thần Đại Việt. Trần Nhân Tông qua
một loạt tác phẩm của mình cũng khẳng định vai trò của Phật giáo trong đời
sống xã hội, ông muốn phát huy hơn nữa vai trò của tôn giáo này, đồng thời
xây dựng một tổ chức giáo hội chặt chẽ, thống nhất để trở thành trung tâm
liên kết toàn xã hội trên lĩnh vực tư tưởng. Các tác phẩm văn học nêu trên khá
phổ biến trong giới nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, các tác phẩm phần lớn
chú trọng tư tưởng Thiền học và văn thơ. Thông qua đó, người nghiên cứu lý

7
giải vai trò của tư tưởng nhập thế Phật giáo thời Lý - Trần tác động đến
đường lối xây dựng chính trị, ngoại giao cũng như văn hóa, giáo dục để tiến
đến xây dựng nền độc lập chủ quyền quốc gia.
2.3. Các công trình nghiên cứu về tinh thần nhập thế của Phật giáo

nói chung và Phật giáo Lý - Trần nói riêng
Cũng đã có nhiều bài viết nghiên cứu, tiêu biểu là tác giả Nguyễn
Hùng Hậu với “Tinh thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần”
trong “Phật giáo và văn hóa dân tộc” (Phân viện Nghiên cứu tôn giáo Hà Nội,
1990, tr. 39-45). Tinh thần nhập thế ở Trần Nhân Tông đã được nhìn nhận
trong xu hướng chung của tinh thần nhập thế thời kỳ Lý - Trần. Ở đây tác giả
cho chúng ta thấy rõ, nhập thế là sự lựa chọn tích cực của Phật giáo Việt Nam
nói chung và Phật giáo Lý - Trần nói riêng, trong đó Trần Nhân Tông chỉ là
một điển hình nổi trội. Tác giả Đỗ Quang Hưng với “Phật giáo Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa” (tạp chí Khoa học xã hội số
9/2006, tr. 58-66). Trong bài viết này, tác giả đã rất đề cao vai trò của Phật
giáo trong xã hội hiện đại và những thay đổi của Phật giáo nói chung cho phù
hợp với thời đại mới, từ đó chỉ ra nhiệm vụ của Phật giáo trong giai đoạn hiện
nay. Tác giả cũng nhấn mạnh, Phật giáo hiện nay là Phật giáo nhập thế. Khái
niệm “nhập thế” được tác giả phân tích, chứng minh là không đồng nhất với
khái niệm “thế tục hóa” của Phương Tây. Xu hướng nhập thế của Phật giáo
được tác giả khảo cứu qua Phật giáo ở Nhật Bản, Trung Quốc và Phật giáo
Việt Nam. Tác giả Đới Thần Kinh (Trần Nghĩa Phương dịch) với “Thế tục
hóa và thần thánh hóa” (tạp chí Nghiên cứu tôn giáo số 4/2007, tr. 11-17) đã
xuất phát từ phân tích khái niệm thế tục hóa của tôn giáo nói chung khi các
tôn giáo đều có xu hướng chuyển từ lấy thần thánh làm trung tâm sang lấy
con người và xã hội loài người làm trung tâm, từ đó đi đến khẳng định xu
hướng của Phật giáo ở Châu Á là Phật giáo nhập thế. Tác giả dường như đã
đồng nhất khái niệm “nhập thế” với khái niệm “thế tục hóa” và kết luận “dưới
sự chỉ đạo của tinh thần nhập thế, các tôn giáo tích cực tham gia bảo vệ hòa
bình thế giới, thúc đẩy các công cuộc phát triển xã hội, phục vụ xã hội”.
Tác giả Nguyễn Thị Minh Ngọc với “Phật giáo dân gian: con đường
nhập thế của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo số 8/2008,
tr. 25-32) đã phân tích rấtcụ thể khái niệm nhập thế dưới góc độ chức năng,


8
nhiệm vụ của tăng ni, phật tử và đi đến kết luận, Phật giáo nhập thế là Phật
giáo từ bi và đắc dụng. Sau đó tác giả phân tích, làm rõ tinh thần nhập thế của
Phật giáo dân gian Việt Nam. Tác giả Đặng Thị Lan với “Tìm hiểu về tinh
thần nhập thế của Phật giáo Việt Nam” (tạp chí Khoa học xã hội nhân văn số
1/2003) đã chỉ ra tinh thần nhập thế của Phật giáo thể hiện rất rõ ràng ở hai
khía cạnh: “dùng đạo để hướng dẫn đời và dùng đời để thực hành đạo”. Tác
giả nhấn mạnh “tại thế gian giác” việc giác ngộ thế gian, hiểu rõ thế gian của
người tu sĩ Phật giáo. Tác giả Trần Hồng Liên với “Chức năng của Phật giáo
đối với vấn đề Kinh tế” (tạp chí Khoa học xã hội số 9+10/2007, tr. 81-89) và
“Chức năng của Phật giáo đối với vấn đề xã hội” (tạp chí Khoa học xã hội số
5/2008, tr. 55-65) đã phân tích và làm rõ vai trò, chức năng của Phật giáo
ngày càng gia tăng trong các vấn đề kinh tế, xã hội. Tác giả đi đến khẳng định
Phật giáo trong xã hội hiện đại là Phật giáo nhập thế, thể hiện ở hai khía cạnh
quan trọng là Phật giáo từ bi và trí tuệ.
Như vậy, khi nghiên cứu khái niệm “nhập thế”, một số học giả đã đặt
trong tương quan với khái niệm “thế tục hóa”, một phần do có sự tương đồng
của hai khái niệm này. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ tiếp
thu kết quả nghiên cứu khái niệm “nhập thế”, nên khái niệm “thế tục hóa” chỉ
được nhắc tới khi có nội dụng liên quan trong xu hướng chung của sự phát
triển các tôn giáo hiện đại. Vấn đề nhập thế của Phật giáo không còn phải là
một vấn đề mới mẻ, mà đã được các học giả bàn nhiều và bóc tách dưới nhiều
khía cạnh khác nhau của nhập thế. Song, nhìn chung, các bài nghiên cứu về
vấn đề này còn nói rất chung chung và chủ yếu nhấn mạnh vai trò, tính đắc
dụng của Phật giáo trong xã hội hiện đại mà chưa chỉ ra cụ thể Phật giáo nhập
thế như thế nào và cũng chưa thấy được tinh thần nhập thế của Phật giáo vốn
có ngay từ trong Phật giáo nguyên thủy khi Đức Phật sáng lập tôn giáo này.
Tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, người nghiên cứu tiếp tục
nghiên cứu và sáng tỏ vấn đề, nhưng không chỉ dừng lại ở làm rõ khái niệm,
luận văn còn chỉ ra lôgic phát triển của vấn đề - đó là mạch nguồn xuyên suốt

trong tiến trình phát triển của lịch sử Phật giáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Mục đích của luận văn làm rõ tư tưởng nhập thế
của Phật giáo thời Lý - Trần và ý nghĩa của nó đối với xã hội Việt Nam hiện nay.

9
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày điều kiện, tiền đề ra đời của tư tưởng nhập thế của Phật
giáo thời Lý - Trần.
- Phân tích và làm rõ vai trò của tư tưởng nhập thế của Phật giáo với
đời sống xã hội Việt Nam thời Lý - Trần.
- Nêu ý nghĩa của tư tưởng nhập thế của Phật giáo thời Lý - Trần đối
với xã hội Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư tưởng
nhập thế của Phật giáo thời Lý - Trần.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu nội dung tư tưởng nhập thế của Phật
giáo triều Lý (1009 - 1225), triều Trần (1226 - 1400) và ý nghĩa của tư tưởng
đó đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay (từ khi đổi mới 1986). Đây là
thời điểm đời sống kinh tế xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi nhờ chính sách
đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước. Phật giáo cũng có điều kiện phát
triển và có những tác động mạnh mẽ đến các lĩnh vực của xã hội Việt Nam
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn dựa trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử; quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo nói chung và Phật
giáo nói riêng.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cơ bản của triết học như phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp

logic - lịch sử, phương pháp so sánh - đối chiếu, phương pháp phân tích tài
liệu… để thực hiện mục đích của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ tư tưởng nhập thế của Phật giáo thời
Lý - Trần và ý nghĩa của nó đối với xã hội Việt Nam hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên chuyên ngành
Triết học, Tôn giáo học, Văn hóa học…, đặc biệt việc nghiên cứu về Phật
giáo Việt Nam thời Lý - Trần.


10
7. Đóng góp của luận văn
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ hơn tư tưởng nhập thế của Phật giáo
thời Lý - Trần và vai trò của nó đối với xã hội Việt Nam đương thời trên các
lĩnh vực cơ bản như chính trị, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, trong đó nổi bật
lên là vai trò đóng góp của các thiền sư đối với sự nghiệp bảo vệ và xây dựng
đất nước.
Kết quả nghiên cứu có giá trị thực tiễn của luận văn chỉ ra vai trò và ý
nghĩa của tư tưởng nhập thế của Phật giáo Lý - Trần đối với xã hội Việt Nam
hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn chia thành 2 chương và 4 tiết.


11
CHƢƠNG 1
TƢ TƢỞNG NHẬP THẾ CỦA PHẬT GIÁO LÝ - TRẦN
1.1. Điều kiện, tiền đề hình thành tƣ tƣởng nhập thế của Phật giáo
thời Lý - Trần

1.1.1. Điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội thời Lý - Trần
Năm 938, với sự kiện Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông
Bạch Đằng đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc Đại Việt; chấm dứt hàng
nghìn năm Bắc thuộc, bước vào giai đoạn đầu thời kỳ quân chủ phong kiến
trung ương tập quyền độc lập. Trải qua các giai đoạn Ngô - Đinh - Tiền Lê
(938 - 1009), những cơ sở kinh tế - chính trị - xã hội cho một nền quân chủ
phong kiến trung ương tập quyền độc lập đã bước đầu đạt được.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Năm 1010, ông quyết định dời
đô từ Hoa Lư về Thăng Long nhằm “mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời
cho con cháu” (Chiếu dời đô). Việc dời đô chứng tỏ sự lớn mạnh của nhà nước
trung ương tập quyền muốn mở rộng tầm kiểm soát của nhà nước trung ương
tới các địa phương; chứng tỏ bản lĩnh, sự tự tin của nhân dân Đại Việt với các
triều đại phong kiến phương Bắc. Cùng với việc dời đô Lý Thái Tổ đã quyết
định đặt tên nước “Đại Việt” (1054). Dưới sự lãnh đạo của Lý Thường Kiệt,
nhân dân ta đã đánh bại quân xâm lược nhà Tống (1075 - 1077), giữ vững
được độc lập dân tộc và thu phục được Chiêm Thành ở phía Nam. Theo lịch
sử, nhà Lý một trong những triều đại văn minh, thịnh vượng nhất của nước ta.
Trải qua 218 năm với 8 đời vua từ Lý Thái Tổ đến Lý Chiêu Hoàng, nhà Lý đã
xây dựng một nền độc lập, tự chủ mạnh về quân sự và phát triển về kinh tế từ
thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XII. Những thành tựu to lớn đó, đã để lại những bài
học lịch sử về dựng nước và giữ nước cho các triều đại sau. Năm 1227, xã hội
Đại Việt đứng trước nguy cơ loạn lạc, nhà Lý không thể tiếp tục lãnh đạo đất
nước, dưới sự sắp xếp của Thái sư Trần Thủ Độ, nhà Trần lên ngôi trị vì đất
nước. Trải qua 173 năm (1227 - 1400) với 12 đời vua từ Trần Thái Tông đến
Trần Thiếu Đế. Nhà Trần thừa kế truyền thống bảo vệ và xây dựng đất nước
Đại Việt trên cơ sở ý thức tự lập, tự cường dân tộc. Ba lần giặc Nguyên -
Mông sang xâm lược nước ta là ba lần chúng đều đại bại. Dưới thời Trần, đất
nước hoà bình, thịnh trị, nhân dân sống ấm no. Có thể nói, trong lịch sử Việt
Nam dưới triều đại Lý - Trần, nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành


12
tựu hết sức to lớn về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và đặc biệt có những
chiến công hiển hách trong những cuộc chiến tranh chống ngoại xâm để bảo vệ
nền độc lập của Tổ quốc.
* Điều kiện kinh tế
Về nông nghiệp: Thời Lý - Trần đặc biệt quan tâm đến sản xuất nông
nghiệp. Sức lao động của nông dân trên đồng ruộng, sức kéo trong nông
nghiệp là trâu bò được nhà nước bảo vệ. Khi Lý Công Uẩn mới lên ngôi năm
1010, đã xuống chiếu bắt tất cả những người đào vong phải trở về bản quán,
như vậy cốt là để số lượng lao động được đảm bảo. Năm 1065, Lý Thánh
Tông hạ chiếu khuyến nông. Các vua nhà Lý còn thực hiện công việc cày
ruộng tịch điền và nhà vua còn tự đi xem gặt ở hành cung Ứng Phong (Nghĩa
Hưng, Nam Định). Nhà Lý cũng có lệnh bảo vệ trâu bò. Trộm trâu hay giết
trâu bị tội rất nặng. Năm 1117, thái hậu Linh Nhân nói rằng: “Gần đây ở kinh
thành, hương ấp có nhiều người trốn, lấy việc trộm trâu làm nghề nghiệp, trăm
họ cùng quẫn, mấy nhà cày chung một trâu. Trước đây ta đã từng nói đến việc
ấy, nhà nước đã có lệnh cấm. Nay giết trâu càng nhiều hơn trước” [29, 143].
Vì thế, vua ra lệnh kẻ nào ăn trộm trâu, giết trâu, phạt 80 trượng người biết mà
không tố giác cũng bị phạt 80 trượng. Bên cạnh việc bảo vệ người lao động và
sức sản xuất nhà nước cũng chú ý tới việc khẩn hoang, xây dựng và quản lý
các công trình thuỷ lợi để ngăn chặn lũ lụt của nhà nước đã được các tầng lớp
nhân dân hưởng ứng. Nhiều đoạn đê quan trọng ở lưu vực sông Hồng và
những sông lớn ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã được đắp và thường xuyên tu
bổ, triều đình đặt ra những Hà đê chánh sứ, phó sứ để coi sóc đê điều và thuỷ
lợi. Việc khai khẩn đất hoang đề ra từ thời Lý và đặc biệt được đẩy mạnh vào
thời Trần. Hàng năm, nhà vua thường cử hành lễ cày ruộng vào đầu tháng
riêng để cổ vũ ý thức trọng nông trong nhân dân. Chính sách “Ngụ binh ư
nông” được thi hành từ thời Lý đã kết hợp với việc xây dựng quân đội với việc
bảo vệ sức sản xuất trong nông nghiệp. Nhìn chung, nền nông nghiệp thời Lý -
Trần qua các chính sách khuyến nông, làm đường, trị thủy và xây dựng thủy

lợi, nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ. Bước đầu đã đem lại những kết quả to
lớn xã hội Đại Việt có thể đứng khá vững chắc, đời sống của cư dân khá ổn
định, là cơ sở cho những thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Tống và
Nguyên - Mông, bảo vệ Tổ quốc.

13
Ngành thủ công nghiệp, cũng có những tiến bộ lớn, những nghề dệt lụa,
nung gạch ngói, làm đồ gốm, luyện kim, đúc chuông và mỹ nghệ đều phát đạt
và đạt chất lượng cao. Gấm vóc được dùng để may lễ phục cho vua quan. Đồ
gốm vừa phong phú về loại hình, vừa đẹp và tinh xảo. Xuất hiện một số làng
thủ công và sự phân chia thành khóm phường của thị dân ở Thăng Long, việc
trao đổi hàng hoá ở trong nước và việc buôn bán với nước ngoài cũng được
đẩy mạnh.
Nghề dệt là nghề khá phổ biến ở nước ta vào thời Lý - Trần. Năm 1013,
vừa lên ngôi được 3 năm, Lý Thái Tổ đặt thuế khóa trong cả nước, trong đó có
thuế bãi dâu, một nguồn thu nhập quan trọng của triều đình. Như vậy, nghề dệt
tơ lụa đã phổ biến và Nghi Tàm chính là tên của làng đã mang nghĩa sự phồn
thịnh của nghề nuôi tằm dệt lụa. Năm 1040, “Vua đã dạy cung nữ dệt được
gấm vóc. Tháng ấy, xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho
để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì có áo bào bằng gấm, từ
cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc, để tỏ ra vua không dùng gấm vóc của
nước Tống nữa” [33, 146]. Đồ dệt của nhà vua chủ yếu vẫn là tơ tằm. Tiếng
động của khung cửi thường vang đến cung vua. Chẳng thế mà Trần Nhân
Tông có viết:
“Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ”.
(Thức dậy, tiếng chày đập vải tơ đã vắng ngắt
Bóng trăng vừa hé gọi trên chùm hoa mộc”. [33, 206]
Điều này cho thấy nghề dệt gấm vóc của nước ta đã đạt đến chất lượng
cao thậm chí sản phẩm làm ra còn cống sang nước Tống nữa.

Đất nung: Gạch, ngói làm vật liệu xây dựng có số lượng lớn. Dùng để
xây dựng các chùa chiền, bảo tháp, cung điện và bề mặt các loại gạch thường
có hoa văn phong phú như rồng uốn khúc, dây cúc, hoa sen, tượng Phật…
Nghề gốm đã tồn tại khá lâu trong lịch sử dân tộc, đến thời Lý - Trần
đã đạt trình độ cao về kỹ thuật lẫn nghệ thuật. Đồ gốm được sử dụng phổ biến
trong xây dựng tiêu biểu là hai công trình chùa Diên Hựu và tháp Sùng Thiện
Diên Linh. Thời này cũng có trung tâm sản xuất gốm tiêu biểu như Bát Tràng
(Gia Lâm, Hà Nội). Gốm này đẹp, tinh vi được làm đồ cống phẩm bang giao
và buôn bán với nước ngoài.

14
Nghề đúc đồng cũng có những thành tựu. Đồng được sử dụng để đúc
chuông, tượng, tiền, vũ khí và các đồ dùng sinh hoạt. Số đồng chi phí vào công
việc này khá lớn. Năm 1035, Lý Thái Tông cho phát 6000 cân đồng đúc
chuông treo ở chùa Trùng Quang ở núi Tiên Du (Bắc Ninh). Sau đó lại phát
7560 cân đúc tượng Di Lặc và 2 vị Bồ tát… Trung tâm đúc đồng cổ truyền
thời Lý - Trần ở làng Bưởi (làng Đại Bái, Gia Lương, Bắc Ninh).
Nghề rèn sắt. Được phát triển mạnh hình thành nhiều làng chuyên
nghiệp. Ở các phủ Diễn Châu, Nghệ An có hai làng Tùng Lâm và Hoa Chàng.
Người thợ rèn ở đây vừa làm ruộng vừa rèn sắt. Lò rèn được đặt ở nơi cư trú
và quặng sắt lấy ở núi thuộc khu vực Trường Sắt cách Nho Lâm về phía nam
hơn 10 km. Mặc dù, kỹ thuật bấy giờ là thủ công nhưng dân ta đã biết cách
nung chảy kim loại để chế tạo vũ khí, làm đồ dùng sinh hoạt.
Nghề làm giấy và in bản gỗ cũng được phát triển. Do sự phát triển kinh
tế, văn hóa, giáo dục và yêu cầu của văn thư hành chính đòi hỏi nghề làm giấy
và khắc bản in phải ngày càng mở rộng. Vua Anh Tông khi làm thái thượng
hoàng đã tặng chùa Siêu Loại 500 hòm kinh Đại Tạng. Nhiều địa phương làm
giấy xuất hiện và nổi tiếng ở kinh thành như làng Bưởi, Yên Thái, Yên Hòa,
Làng Hồ, Làng Nghề (Nghĩa Đô) còn lưu giữ cho đến ngày nay.
Thủ công nghiệp thời Lý - Trần phát triển khá phong phú với nhiều

ngành nghề khác nhau phần nào phản ánh được trình độ phát triển xã hội của
nước ta thời bấy giờ. Tuy nhiên, những ngành nghề này chỉ phát triển trong gia
đình nhỏ lẻ, manh mún chưa có sự phân công rõ ràng trong từng ngành nghề
vẫn mang tính tự phát. Nhìn chung, những ngành thủ công nghiệp này cũng
góp phần không nhỏ vào việc giữ gìn và bảo tồn nền văn hóa đậm đà tiên tiến
của dân tộc.
Về thương nghiệp, đồng tiền đã được thông dụng trong nội thương và
ngoại thương. Kinh tế tiền tệ đã có vai trò quan trọng. Tiền là phương tiện lưu
thông hàng hóa. Thời Lý đã thu thuế cấp bổng lộc bằng tiền. Năm 1013, nhà
nước thu thuế bãi dâu bằng tiền và thóc. Cuối năm 1040, nhân dân làm xong
nhiều công trình Phật giáo, nhà Lý “xá nửa tiền thuế cho cả nước” [33, 148].
Năm 1067, nhà nước cấp bổng lộc cho các quan đô hộ phủ mỗi người, mỗi
năm 50 quan tiền, 100 bó lúa và cá muối mọi thức; cho ngục lại mỗi năm 20
quan tiền, 100 bó lúa để nuôi đức “liêm” [33, 148]. Nhà Lý còn cho phép dùng

15
tiền để chuộc tội tùy theo tội nặng hay nhẹ mà nộp tiền nhiều hay ít. Như thế,
đồng tiền đã đóng vai trò quan trọng trong thuế khóa, trong buôn bán, trong cả
pháp luật triều đình. Kinh tế tiền tệ đã len lỏi trong nhiều quan hệ xã hội.
Ngoài ra, trên thị trường còn sử dụng nhiều tiền của Trung Quốc. Đến nhà
Trần đã mở rộng việc mua bán đất bằng tiền, nộp tiền để mua quan chức. Tiền
tệ phát triển là điều kiện cho thương nghiệp phát triển một cách ổn định bền
vững. Thương nghiệp quy tụ chung quanh lưu vực sông Hồng, sông Mã, và
trung tâm kinh tế - kinh đô Thăng Long với 61 phố phường hình thành và sớm
trở nên sầm uất. Tiêu biểu nhất cho mạng lưới nội thương là hệ thống chợ ở
đồng bằng sông Hồng. Số lượng chợ tương đối nhiều vì thế, sứ giả nhà
Nguyên là Trần Phu có viết: “Trong các xóm làng thường có chợ, cứ hai ngày
họp một phiên, hàng hóa trăm thứ bày la liệt. Hễ cứ năm dặm thì dựng một
ngôi nhà ba gian, bốn phía đặt chõng làm nơi họp chợ” [33, 210].
Ngoài chợ ra còn có phố. Các trung tâm phủ lị bên sông lớn, đầu mối

giao thông thủy bộ đều có phố cả như phố Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh)
bên bờ sông Dâu là nơi buôn bán cố định.
Một địa điểm ngoại thương quan trọng thời này là cảng biển Vân Đồn.
Đây là quân cảng và thương cảng có dáng vẻ quốc tế của nước Đại Việt thời
Lý - Trần. Biển cả vốn là con đường giao thông quốc tế quan trọng nhất của
nước ta, là mạch nối giữa Đại Việt và các nước xung quanh. Các cửa biển Hội
Thống, Cần Hải (đều thuộc Nghệ - Tĩnh), Hội Triều (Thanh Hóa) và đặc biệt
Vân Đồn, đây là những trung tâm buôn bán lớn với người nước ngoài, những
điểm quy tụ đường biển thời Lý - Trần. Tại các cảng này, hàng hóa khá nhiều,
thương nhân tấp nập. Sứ giả Trần Phu có viết: “Phủ Tinh Hoa (Thanh Hóa)
cách thành Giao Châu (chỉ Thăng Long) 200 dặm. Thuyền bè nước ngoài đến
tụ hội ở đây (chỉ cửa Hội Triều) mở chợ ngay trên thuyền. Cảnh buôn bán thật
là thịnh vượng” [33, 211]. Điều này cho thấy vào thời kỳ này các đồ thủ công
mỹ nghệ và nông sản đã đạt được độ tinh sảo và có giá trị nên việc buôn bán
với nước ngoài mới tấp nập nhộn nhịp.
Tương ứng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi, các đường giao
thông thuỷ bộ, các hệ thống trạm dịch trong thời Lý - Trần cũng được mở
mang thêm. Từ Thăng Long toả đi các nơi có cả một hệ thống đường thuỷ bộ
nhất là trên các đường sông và ven biển đã có nhiều thuyền lớn đi lại tấp nập.

16
Có thể nói nền kinh tế của nước Đại Việt đã phát triển với một sinh lực
dồi dào và đạt tới trình độ khá cao trong khuôn khổ một chế độ sở hữu phong
kiến đặc thù lúc bấy giờ.
* Điều kiện chính trị, xã hội:
Ở nước ta, từ thời Đinh cho đến giữa thời Trần, chế độ sở hữu nhà
nước về ruộng đất chiếm ưu thế trong xã hội. Đại bộ phận ruộng đất trong
nước lúc ấy là công điền, công thổ của làng xã. Nhưng ruộng đất này lại thuộc
quyền sở hữu tối cao của nhà vua. Bên cạnh ruộng công của làng xã còn có
ruộng quốc khố của triều đình, điền trang thái ấp của quý tộc và ruộng của nhà

chùa. Ngoài ra lúc này, chế độ tư hữu về ruộng đất cũng đã xuất hiện và có xu
thế ngày càng tăng lên vào cuối thời Trần. Đó là ruộng đất của tiểu nông và địa
chủ. Phần đất phong cấp vĩnh viễn cho quan liêu quý tộc cũng trở thành ruộng
đất tư hữu. Nó làm cho cơ cấu bộ máy nhà nước phong kiến từ thời Lý tới
Trần có những thay đổi, những chức vụ quan trọng của nhà nước phong kiến
vốn nằm trong tay tầng lớp quý tộc đã chuyển dần sang tầng lớp nho sĩ. Đến
cuối thời Trần, tầng lớp quan liêu nho sĩ đã trở thành chỗ dựa quan trọng để
nhà vua tiến hành trị nước.
Thích hợp với quan hệ kinh tế nói trên, các thời Đinh, Tiền Lê, Lý,
Trần cũng có một kết cấu giai cấp tương ứng. Giai cấp phong kiến thống trị
trước hết là tầng lớp quý tộc và quan liêu mà đại biểu là vua nắm giữ mọi
quyền hành ở trong triều đình và trong xã hội. Tiếp đó là giai cấp địa chủ, lúc
đầu còn ít về sau tăng dần lên. Tăng lữ là một tầng lớp xã hội đáng kể và có
một lực lượng đông đảo từ cuối thời Bắc thuộc đến đầu thời Trần. Nhưng chỉ
có tầng lớp quý tộc đi tu và tầng lớp trên trong nhà chùa mới thực sự gia nhập
vào hàng ngũ giai cấp phong kiến. Nhà nước phong kiến sử dụng số tăng lữ
này với tầng lớp nho sĩ mới xuất hiện để duy trì sự ổn định xã hội và củng cố
quyền lực của triều đình.
Còn đông đảo quần chúng nhân dân bị thống trị gồm có người nông
dân ở làng xã lĩnh canh công điền công thổ hoặc ruộng của địa chủ. Bên cạnh
đó, nông nô và nô tỳ trong các điền trang và trong các gia đình quý tộc. Do
nhiệm vụ cứu nước mà mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và nhân dân thời kỳ
này chưa diễn ra một cách quyết liệt và sâu sắc bằng các thế kỷ sau. Nhưng
mâu thuẫn đó vẫn âm ỷ và cuối cùng phát triển thành những cuộc khởi nghĩa

17
của nông dân vào nửa cuối thế kỷ XII và nửa cuối thế kỷ XIV mà tiêu biểu
cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ và Trần Tề.
* Điều kiện văn hóa, giáo dục
Cùng với bước phát triển về kinh tế và chính trị từ thế kỷ X trở đi

trong điều kiện của một quốc gia phong kiến độc lập tự chủ, nền văn hóa tinh
thần của nước Đại Việt cũng phát triển mạnh. Nhất là khi vương triều Lý
được xác lập, sự phát triển ấy đã đạt được những thành tựu rực rỡ. Mấy thế kỷ
sau sự phát triển ấy vẫn tiếp tục, đặc biệt vào thời Trần sau khi nhân dân ta đã
ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên - Mông.
Thời đầu Lý, nền giáo dục Đại Việt chủ yếu Phật học. Lý Công Uẩn đã
học ở chùa Lục Tổ. Các sư tăng đồng thời cũng là những trí thức. Dần dần,
cũng như Nho giáo, giáo dục khoa cử Nho học ngày càng phát triển.
Thời Lý - Trần, Nho học phát triển từ trên xuống dưới. Năm 1070, Văn
Miếu được thành lập, cũng là nơi dành riêng để dạy học cho Hoàng Thái tử.
Lúc đầu, khi mới mở trường Quốc Tử Giám (năm 1076), chỉ có các quý tộc
quan liêu và con em được theo học. Nhìn chung, việc giáo dục Nho học ở thời
Lý còn khá hạn chế.
Giáo dục Nho học đã có nhiều tiến bộ dưới thời Trần. Quốc Tử Giám,
với những tên gọi mới (Quốc tử viện, Quốc học viện) đã được củng cố và mở
rộng đối tượng học tập. Năm 1236, đặt chức Thượng thư tri Quốc tử viện, đưa
con em văn thần và tụng thần vào học. Năm 1253, Nhà nước sai sửa sang
Quốc học viện, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Mạnh Tử, vẽ tranh Thất
thập nhị hiền để thờ, lại xuống chiếu vời Nho sĩ trong nước đến Quốc tử viện
giảng Tứ thư lục kinh. Năm 1272, xuống chiếu tìm người tài giỏi, đạo đức,
thông hiểu kinh sách làm Tư nghiệp Quốc Tử Giám, có thể giảng bàn ý nghĩa
của Tứ thư, Ngũ kinh sung vào hầu nơi vua đọc sách.
Ngoài Quốc tử viện một loại trường Nho học cấp cao, thời Trần còn
một số trường Nho học khác. Ta có thể kể đến: trường phủ Thiên Trường,
trường Lạn Kha thư viện (ở chùa Phật Tích), trường của Chiêu quốc vương
Trần Ích Tắc và trường Cung Hoàng của Nho sĩ Chu Văn An, trước đó đã
từng giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám. Năm 1397, triều đình lại đã chính
thức sai đặt nhà học và chức học quan (được nhà nước trợ cấp phần ruộng
công thu hoa lợi) ở các lộ phủ địa phương như Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải


18
Đông, với chức năng là “giáo hóa dân chúng, giữ gìn phong tục, dạy bảo học
trò thành tài nghệ, chọn người ưu tú tiến cử lên triều đình” [29, 99].
Cùng với giáo dục, khoa cử ở Đại Việt đã có từ thời Lý. Năm 1075, mở
khoá thi Minh kinh bác sĩ Nho học đầu tiên. Lê Văn Thịnh người Bắc Ninh là
người đỗ đầu Thái học sinh (Tiến sĩ sau này), được đưa vào giúp vua học, sau
này thăng đến chức Thái sư. Tuy nhiên, Nho học và khoa cử thời Lý vẫn chưa
ổn định. Sau vụ Lê Văn Thịnh bị buộc tội mưu phản (có thể là kết quả của
một âm mưu chống Nho học của các thế lực Phật giáo), khoa cử hầu như đã bị
đình hoãn lại. Cả triều Lý có 3 khoa thi. Năm 1195, nhà Lý có mở khoa thi
Tam giáo (Nho, Phật, Đạo), loại thi này còn tồn tại đến đầu thời Trần.
Các kỳ thi Thái học sinh đời Trần được tổ chức quy củ và thường
xuyên hơn, niên hạn là 7 năm một kỳ. Cả thời Trần có tất cả 14 khoa thi (10
khoa chính thức và 4 khoa phụ), lấy đỗ 282 người đại khoa, có học vị Thái
học sinh. Năm 1374, có tổ chức thi Đình cho các tiến sĩ. Ba người đỗ đầu
được gọi là Tam khôi: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa (sau đặt thêm
một học vị cấp cao nữa là Hoàng giáp). Có một thời gian, nhà Trần đã chia
thành hai loại Trạng nguyên: Kinh Trạng nguyên và Trại Trạng nguyên (dành
riêng cho vùng Thanh - Nghệ). Các vị tân khoa được nhà vua trọng đãi: ban
mũ áo, dự yến tiệc, được dẫn đi thăm kinh thành Thăng Long trong 3 ngày.
Có một số người đỗ đại khoa khi tuổi đời còn rất trẻ: Trạng nguyên Nguyễn
Hiền (13 tuổi), Bảng nhãn Lê Văn Hưu (18 tuổi), Thám hoa Đặng Ma La (14
tuổi), Hoàng giáp Nguyễn Trung Ngạn (16 tuổi). Cũng dưới triều Lý - Trần,
hệ thống giáo dục võ nghiệp phát triển khá mạnh mẽ, bên cạnh hàng loạt
những trường dạy võ tức giảng võ đường. Lúc này, triều đình cũng đã tổ chức
các khoa thi võ, nhưng bằng cấp vẫn chưa được rõ rệt như các triều đại sau
này
Nói về văn hóa ta có thể thấy văn hóa Lý - Trần là giai đoạn phát triển
thịnh đạt của văn hóa Đại Việt. Văn hóa Lý - Trần đã chủ động khôi phục lại
những yếu tố văn hóa Việt, đồng thời cải biến tích hợp những yếu tố văn hóa

ngoại sinh, tạo nên một phong cách riêng cho mình. Văn hóa Đại Việt thời Lý
- Trần, vì thế, đã mang tính dân tộc sâu sắc.
Cũng dựa trên sự cân bằng văn hoá, văn hóa Lý - Trần là sự hỗn dung
của dòng văn hóa dân gian với dòng văn hóa cung đình, giữa những yếu tố

19
bình dân với những yếu tố bác học, giữa Phật - Đạo và Nho. Gam màu nổi bật
của văn hóa thời kỳ này là sự ưu trội của dòng văn hóa dân gian, đan xen vào
sinh hoạt văn hóa cung đình, tuy xu thế phát triển của nó là ngả dần sang văn
hóa Đông Á Nho giáo. Văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần đã mang đậm tính
dân gian.
Đậm đà màu sắc Phật - Đạo và dân gian, ảnh hưởng của Nho giáo còn
ở mức khiêm tốn, văn hóa Lý - Trần không bị ràng buộc nhiều bởi những giáo
điều, tín điều. Khái niệm “lễ” trong Nho giáo ở thời Lý - Trần còn rất nhạt,
thay vào đấy là tính cởi mở, nhân bản, gần gũi con người với một “mép lề
phóng khoáng”. Văn hóa Đại Việt thời kỳ này do vậy, hàm chứa nhiều tinh
thần khai phóng.
Văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần chính là một sức mạnh tinh thần, vừa
là một xung lực vừa là một kháng thể trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước. Đồng thời nó cũng là một tố chất cố kết cộng đồng người Việt, trên cơ
sở tìm về một cội nguồn lịch sử và văn hóa chung, làm chín muồi ý thức quốc
gia và tinh thần dân tộc Việt.
Như vậy, trong những thế kỷ đầu độc lập, với tinh thần dân tộc và ý
thức tự cường, nhân dân Đại Việt đã xây dựng nên một nền kinh tế, chính trị,
xã hội và văn hóa - giáo dục vững chắc bước đầu đã đạt được những thành
tựu. Họ đã phát huy mọi khả năng để tạo nên một nền văn hóa dân tộc đa
dạng, phong phú, đặc sắc vừa có những nét tiếp nối nền văn hóa cổ truyền
vừa có những nét sáng tạo, mới mẻ xuất phát từ sự tiếp nhận ảnh hưởng của
các nền văn hóa các nước xung quanh. Nền văn hóa Đại Việt thời Lý - Trần
đã trở thành cơ sở vững bền cho những thành tựu văn hóa của các giai đoạn

lịch sử tiếp sau của dân tộc.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XIV, là một thời kỳ lịch sử mở đầu cho kỷ
nguyên độc lập tự chủ của nước Việt Nam. Nhân dân ta bước vào thời kỳ lịch
sử như từ trong đêm tối bước ra ngoài ánh sáng tươi đẹp của một buổi bình
minh đầy hứa hẹn. Cả dân tộc tích cực bước vào xây dựng đất nước với một
luồng tư tưởng đầy nhân văn và nhà nước đã dựa trên nền tảng tư tưởng này để
tổ chức xã hội. Nếu như thời Lê - Nguyễn hệ tư tưởng chủ đạo của nhà nước
phong kiến là Nho giáo, thời Lý - Trần hệ tư tưởng căn bản dựa trên tư tưởng

20
Phật giáo. Còn Đạo giáo và Nho giáo cũng chiếm một phần đáng kể trong tư
tưởng Lý - Trần.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ trước và sau công nguyên. Trước
khi Phât giáo du nhập vào dân tộc ta đã có tục lệ thờ các vị thần nông nghiệp,
các vị thần về hiện tượng tự nhiên… Tất cả việc thờ cúng này mang ý nghĩa
duy vật thô sơ. Trong thời gian dài, tín ngưỡng dân gian cổ truyền vẫn giữ
một vị trí quan trọng trong sinh hoạt tâm linh của cư dân Đại Việt. Những tín
ngưỡng này được nhà nước ủng hộ, đặc biệt nhà nước thời Lý - Trần, đã góp
phần trực tiếp vào việc sinh hoạt tín ngưỡng và tôn giáo chung của nhân dân.
Nhà Lý đã dựng đền “Đồng cổ” (trống đồng), đền thờ Hai Bà Trưng, đền thờ
Phùng Hưng, đền thờ Phạm Cự Lạng ở kinh thành Thăng Long, nâng lễ thờ
thần Phù Đổng (Bắc Ninh) lên trình độ quốc gia…
Bên cạnh việc lưu giữ những tín ngưỡng dân gian, Phật giáo sớm được
phổ cập trong nhân dân và thịnh đạt nhất trong xã hội thời Lý - Trần. Chùa
chiền mọc lên ở nhiều nơi. Các sư tăng và tín đồ Phật giáo phát triển cả về số
lượng lẫn chất lượng. Nhiều vị cao tăng nổi tiếng là người Việt. Lúc bấy giờ
Thiền tông là tông phái chủ yếu ở nước ta. Ngay sau khi nước ta được giải
phóng khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc và thực sự bước vào
thời kỳ độc lập tự chủ, Phật giáo nước ta đã có vị trí quan trọng trong đời

sống xã hội. Hầu hết các vua Lý (Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân
Tông, Thần Tông, Anh Tông) và nhiều vua Trần (Thái Tông, Thánh Tông,
Nhân Tông) đều sùng Phật, sai dựng chùa tháp, tô tượng đúc chuông, dịch
kinh Phật, soạn sách Phật Như năm 1031, vua Lý xuống chiếu phát tiền,
thuê thợ làm chùa quán ở các hương ấp, tất cả 150 chỗ. Nhiều quý tộc tôn thất
đã quy Phật như Hoàng Thái hậu Ỷ Lan, Tuệ Trung thượng sĩ (Trần Tung).
Khắp nơi, nhiều chùa chiền đã được xây dựng như các chùa Diên Hựu (Một
Cột), Phật Tích, Long Đội, Báo Thiên, Bối Khê, Thái Lạc, Phổ Minh, cụm
quần thể chùa tháp ở Yên Tử… Phần lớn các công trình này đã được nhà
nước tài trợ. Đông đảo quần chúng bình dân trong làng xã nô nức theo đạo
Phật. Lê Quát sống vào cuối đời Trần, nhận xét: "Từ trong kinh thành cho đến
ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà người ta
cứ theo, không hẹn mà người ta cứ tin, hễ nơi nào có nhà ở là ắt có chùa
chiền, Dân chúng quá nửa nước là sư " [29, 96].

21
Thời Lý - Trần, có rất nhiều vị sư tăng nổi tiếng trong cả nước, có uy
tín và địa vị chính trị - xã hội. Có thể, kể đến các nhà sư Vạn Hạnh, Mãn
Giác, Viên Thông, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Giác Hải, Pháp Loa,
Huyền Quang. Do du nhập vào Đại Việt từ nhiều con đường khác nhau cũng
như do sự tiếp thu của người dân Việt đương thời, Phật giáo không chỉ có một
dòng duy nhất. Có 3 tông phái chủ yếu: Tịnh Độ tông thờ đúc Phật Adiđà, chú
trọng đến lễ thức lên chùa lễ Phật, phổ biến trong quần chúng bình dân làng
xã; Mật tông sử dụng nhiều phép lạ và chữa bệnh, phần nào có ảnh hưởng của
Đạo giáo (như các nhà sư Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không); Thiền tông
vốn có truyền thống từ lâu, có thế lực lớn nhất, chú trọng đến thiền định về tư
tưởng, chủ trương Phật tại Tâm, được các giới quý tộc, trí thức hâm mộ.
Trong trào lưu chung đó, giai cấp thống trị mong muốn tìm ra một tôn giáo
làm nền cho sinh hoạt tinh thần và tâm linh của người Việt, thoát khỏi những
ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo phương Bắc. Dòng Thiền của Phật giáo

đã được lựa chọn. Có 2 phái Thiền tông chính: Phái Thảo Đường do Lý
Thánh Tông sáng lập, có nơi trụ trì chính là chùa Khai Quốc (Trấn Quốc, Hà
Nội); đỉnh cao là phái Trúc Lâm, do 3 vị tổ sáng lập: Trần Nhân Tông (tức
Điều Ngự Giác Hoàng), Pháp Loa và Huyền Quang, nơi trụ trì chính cụm
chùa ở núi Yên Tử (Đông Triều, Quảng Ninh).
Nhà nước Lý - Trần tôn chuộng đạo Phật, trong bối cảnh của sự khoan
dung, hòa hợp tôn giáo “Tam giáo đồng nguyên”, chủ yếu là sự kết hợp giữa
Phật và Nho, giữa giáo lý và thực tiễn đời sống. Trần Thái Tông nói: “Đạo
giáo của đức Phật là để mở lòng mê muội, là con đường tỏ rõ lẽ tử sinh. Còn
trách nhiệm nặng nề của tiên thánh tà đặt mực thước cho tương lai, nêu khuôn
phép cho hậu thế” [29, 97]. Hòa nhập Phật giáo và Nho giáo vào cùng một
mục đích chung của công cuộc ổn định xã hội. Phát triển theo tư tưởng đó và
dựa vào lý thuyết của Tuệ Trung thượng sĩ (Trần Tung), Trần Nhân Tông chủ
trương “Sống với đời, vui vì đạo” (Cư trần lạc đạo). Đạo Phật thời Lý - Trần
đã ảnh hưởng đến đường lối cai trị của Nhà nước (chính sách thân dân, khoan
dung), đối trọng tư tưởng của Nho giáo, tạo nên thế cân bằng tôn giáo.
Cuối thời Trần, khi Nho giáo và Nho học phát triển, trong điều kiện
xuất hiện một bộ phận tăng ni biến chất và thoái hóa, Phật giáo đã bước đầu
bị một số nho sĩ như Lê Văn Hưu, Lê Quát, Trương Hán Siêu bài xích. Hồ

22
Quý Ly ra lệnh sa thải bớt tăng đồ, ai chưa đến 50 tuổi phải hoàn tục. Tuy
nhiên, ảnh hưởng của Phật giáo vẫn rất sâu đậm trong xã hội, nhất là trong
các làng xã.
Cùng tồn tại với Phật giáo, nhưng Nho giáo thời Lý - Trần có xu hướng
phát triển ngược lại với Phật giáo. Trong khi thế lực Phật giáo có chiều hướng
suy giảm dần, thế lực của Nho giáo lại ngày càng tăng tiến, từ chỗ lúc đầu
mới chỉ là một nền văn hóa giáo dục được nhà nước phong kiến chấp nhận
trên nguyên tắc dùng làm học thuyết trị nước tới chỗ sau đó (thời cuối Trần)
đã trở nên một ý thức hệ đang trên đà thống trị xã hội.

Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ đầu thời Bắc thuộc dưới một
phương thức giao lưu văn hóa cưỡng chế, vì vậy, trong hơn 10 thế kỷ, tuy chữ
Hán đã trở thành chữ viết chính thức nhưng người biết chữ, biết Nho học còn
ít ỏi nó vẫn chưa có vai trò gì đáng kể, ảnh hưởng xã hội rất nhỏ bé. Các nhà
sư vẫn là lớp trí thức quan trọng bên cạnh các viên chi hậu, viên ngoại lang.
Việc xây dựng nhà nước theo mô hình phương Bắc trở thành tất yếu, Nho học
cũng ngày càng có vai trò quan trọng. Đến thời Lý - Trần, nó đã trở thành một
nhu cầu tư tưởng thiết yếu cho việc xây dựng một thiết chế quân chủ tập
quyền theo mô hình Đông Á Trung Hoa, những nguyên lý cơ bản của phép trị
nước, trong đó một biện pháp chiến lược là chế độ khoa cử. Do vậy, các nhà
vua sùng Phật thời Lý - Trần vẫn cần đến một sự bổ trợ của Nho giáo như một
lợi khí sắc bén trên lĩnh vực chính trị văn hóa và tư tưởng. Trần Thái Tông
nói: “Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau. Như thế đủ biết
đạo giáo của Đức Phật phải nhờ đến tiên thánh [chỉ Khổng Mạnh] mà truyền
lại cho đời…” [29, 97].
Thời Lý, Nho giáo được nhà nước chấp nhận, nhưng vẫn giữ một vị trí
khá khiêm tốn. Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng Văn Miếu, thờ Chu
Công, Khổng Tử và các vị tiên hiền, làm nơi dạy học Hoàng Thái tử. Giáo
dục Nho học chính thức được thiết lập. Năm 1075, nhà Lý tổ chức khoa thi
Thái học sinh đầu tiên, người đỗ đầu là Lê Văn Thịnh; năm 1076, mở trường
Quốc Tử Giám. Đến năm 1086, Triều đình lập Hàn lâm viện, nho sĩ Mạc Hiển
Tích được tuyển bổ làm Hàn lâm học sĩ. Qua thời Trần, Nho giáo và Nho học
khởi sắc hơn. Nhiều trường Nho học được mở, khoa cử đều kỳ hơn. Các vua
Trần đã cố gắng dung hòa Phật - Nho trong đường lối trị nước. Tầng lớp nho

23
sĩ ngày một phát triển, trong đó có những gương mặt nổi bật như Lê Văn
Hưu, Đoàn Nhữ Hài, Nguyễn Trung Ngạn, Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi,
Chu Văn An… Họ đã dần dần tham chính, nắm giữ các chức vụ trọng trách
trước đây chỉ dành cho tầng lớp quý tộc tông thất. Trường hợp của Đoàn Nhữ

Hài, từ một nho sinh giúp vua làm tờ biểu tạ tội, sau được thăng đến chức
Hành khiển, là một ví dụ tiêu biểu.
Thời cuối Trần, quá trình Nho giáo hóa đời sống chính trị - xã hội đã
diễn ra một cách quanh co phức tạp. Một mặt, một số Nho sĩ đã nhiệt thành cổ
vũ tuyên truyền cho đạo Nho và mô hình Nho giáo, bài xích Phật giáo.
Trương Hán Siêu tuyên bố: “Đã là kẻ sĩ đại phu, nếu không phải đạo Nghiêu
Thuấn, không bày tỏ, không phải đạo Khổng Mạnh, không trước thuật…”.
Nhóm nho sĩ Lê Quát, Phạm Sư Mạnh đề nghị triều đình tiến hành cải cách
thể chế theo hướng Nho giáo hóa, mô phỏng thiết chế Trung Hoa nhà Minh.
Mặt khác, quá trình Nho giáo hóa đã gặp sự phản ứng từ nhiều phía, trước hết
từ chính bản thân một số vua Trần. Minh Tông cho rằng “nhà nước đã có
phép tắc nhất định, Nam Bắc khác nhau”. Nghệ Tông kiên quyết phản bác:
“Triều trước [nhà Lý] dựng nước, có luật pháp, chế độ riêng, không theo quy
chế của nhà Tống, là vì Nam Bắc, nước nào làm chủ nước đó, không phải bắt
chước nhau. Khoảng năm Đại Trị [đời Trần Dụ Tông] bọn học trò mặt trắng
được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ
tông thay đổi theo tục phương Bắc như về y phục, âm nhạc… thật không kể
xiết” [29, 98]. Và nhà vua vẫn chủ trương bảo lưu thể chế cũ.
Ở các làng xã, sự phát triển của giáo dục Nho học đã góp phần phổ cập
Nho giáo trong nhân dân với quan niệm về tam cương, ngũ thường, trung
quân. Truyền thống tôn sư trọng đạo cũng hình thành. Tuy nhiên, Nho giáo
vẫn phổ biến chủ yếu trong tầng lớp quan chức, các nho sĩ. Nhân dân chỉ tiếp
nhận những gì gần gũi với họ, góp phần củng cố những tục lệ cổ truyền của
họ, chưa bị ràng buộc bởi những quy phạm Nho giáo. Sứ giả Trung Quốc
Trần Cương Trung sang Việt Nam đời Trần nhận định: “Dân chúng vẫn giữ
những phong tục rất nông nổi. Không biết đến lễ nhạc Trung Hoa”. Nho thần
Lê Quát phàn nàn: “Ta thuở trẻ đọc sách, ít nhiều hiểu đạo thánh hiền để giáo
hoá dân chúng, mà rút cuộc vẫn chưa được một hương nào tin theo. Ta
thường dạo xem sông núi, vết chân trên khắp nửa thiên hạ, đi tìm những học

×