Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 115 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






NGUYỄN THỊ HUẾ





DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ HUẾ





DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM


Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN AM HIỂU





HÀ NỘI - 2014

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét
để tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Huế

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ 5
1.1. Khái niệm chung 5
1.1.1. Thừa kế và quyền thừa kế 5

1.1.2. Người để lại di sản thừa kế 8
1.1.3. Người thừa kế 10
1.2. Diện và hàng thừa kế 13
1.2.1. Khái quát chung về diện và hàng thừa kế 13
1.2.2. Diện và hàng thừa kế theo quy định của một số nước trên thế giới 17
1.2.3. Tập quán của Việt Nam về thừa kế 24
1.2.4. Cơ sở của việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật 29
Tiểu kết chƣơng 1 33
Chƣơng 2: DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ TRONG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM 34
2.1. Diện thừa kế 34
2.1.1. Diện thừa kế theo quan hệ huyết thống 34
2.1.2. Diện thừa kế xét theo quan hệ hôn nhân 44
2.1.3. Diện thừa kế theo quan hệ nuôi dưỡng 56
2.2. Hàng thừa kế 67
2.2.1. Hàng thừa kế thứ nhất 67

2.2.2. Hàng thừa kế thứ hai 73
2.2.3. Hàng thừa kế thứ ba 78
Tiểu kết chƣơng 2 81
Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ PHƢƠNG
HƢỚNG HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ 82
3.1. Thực trạng giải quyết các tranh chấp về thừa kế trong
những năm gần đây 82
3.2. Nguyên nhân của thực trạng diện và hàng thừa kế theo quy
định pháp luật Việt Nam 91
3.3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về diện và
hàng thừa kế 95
3.3.1. Kiến nghị chung hoàn thiện các quy định pháp luật về thừa kế 95

3.3.2. Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về diện và hàng
thừa kế 96
Tiều kết chƣơng 3 102
KẾT LUẬN 103
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 105








DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1.
BLDS
:
Bộ luật dân sự
2.
HN&GĐ
:
Hôn nhân và gia đình
3.
PLTK
:
Pháp lệnh thừa kế
4.
PLVTK
:

Pháp luật về thừa kế
5.
TAND
:
Tòa án nhân dân
6.
TANDTC
:
Tòa án nhân dân tối cao
7.
UBND
:
Ủy ban Nhân dân
8.
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa




DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 3.1:
Thống kê số lượng vụ án giải quyết tranh chấp
thừa kế của TANDTC từ năm 2006 – 2013
85


Số hiệu biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 3.1:
Các tranh chấp thừa kế giải quyết tại Tòa án từ
năm 2007 - 2011
83
Biểu đồ 3.2:
Thống kê thụ lý, giải quyết tranh chấp về thừa kế
từ năm 2006 - 2013
84


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền thừa kế ra đời là một trong những phương thức pháp lý để bảo
toàn và gia tăng tích lũy của cải trong xã hội. Nhà nước đã công nhận quyền
thừa kế của cá nhân đối với tài sản, coi thừa kế là một trong những căn cứ xác
lập quyền sở hữu. Điều này không chỉ có tác dụng kích thích tính tiết kiệm
trong sản xuất và tiêu dùng mà còn tạo động lực đẩy mạnh niềm say mê, kích
thích sự quản lý năng động của mỗi con người tạo ra khối tài sản của mình.
Khi họ chết, các tài sản của họ để lại sẽ trở thành di sản và được phân chia
cho các thế hệ con cháu, sự chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là
sự nối tiếp về quyền sở hữu. Pháp luật công nhận quyền thừa kế đã đáp ứng
phần nào mong mỏi của con người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật
thừa kế trên thế giới nói chung và pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã
không ngừng phát triển và hoàn thiện chế định này.

Tại Việt Nam, Việt Nam, sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan
trọng của thừa kế, nên ngay những ngày đầu mới dựng nước, các triều đại Lý,
Trần, Lê cũng đã quan tâm đến ban hành pháp luật về thừa kế. Pháp luật
thành văn về thừa kế ở nước ta, lần đầu tiên được quy định trong chương
"Điền sản" của Bộ luật Hồng Đức dưới triều vua Lê Thái Tổ. Trải qua quá
trình đấu tranh cách mạng, xây dựng CNXH ở nước ta, các quy định này đã
được ghi nhận, mở rộng, phát triển và được thực hiện trên thực tế tại các Điều
19 Hiến pháp 1959 "Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo vệ quyền thừa kế tài
sản tư hữu của công dân". Điều 27 Hiến pháp 1980 "Nhà nước bảo hộ quyền
thừa kế tài sản của công dân", Điều 58 Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 và
đặc biệt là sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, sau đó Bộ luật Dân sự năm
2005 đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật Việt Nam nói chung và
pháp luật về thừa kế nói riêng.

2
Bộ luật Dân sự 2005 được xem là kết quả cao của quá trình pháp điển
hoá những quy định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những
quy định phù hợp với thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi
của người thừa kế một cách có hiệu quả nhất. Hiện nay các tranh chấp về thừa
kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở nên phức tạp hơn. Sự nhận thức
không đầy đủ về pháp luật của cá nhân, sự áp dụng pháp luật không thống
nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó
khăn, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo
đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, một trong
những khó khăn vướng mắc lớn khi áp dụng các quy định của pháp luật để
giải quyết tranh chấp thừa kế chính là vấn đề xác định sao cho đúng về diện
và hàng thừa kế. Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để
làm sáng tỏ một số vấn đề về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế
theo pháp luật là một đòi hỏi tất yếu, khách quan cả về mặt lý luận cũng như
thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế.

2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất
nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu.Tiến sĩ Phùng Trung Tập đã
giới thiệu với bạn đọc tác phẩm "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam
từ năm 1945 từ trước đến nay"; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của cuốn
"Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam"; Phó giáo sư,
Tiến sĩ Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác phẩm "Hỏi đáp về pháp luật
thừa kế". Ngoài ra, còn có nhiều bài viết về đề tài này được đăng tải trên sách,
báo, tạp chí. Bên cạnh đó còn có nhiều cử nhân, học viên chọn nội dung thừa kế
làm đề tài cho các bài tập cá nhân, bài tập lớn hay luận văn tốt nghiệp của mình.
Có công trình nghiên cứu trên phạm vi rộng mang tính toàn diện, bao quát toàn
bộ chế định thừa kế, cũng có công trình chỉ một phần nhỏ của chế định thừa kế.

3
Riêng với đề tài "Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Việt Nam", tác giả tập
trung nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của diện và hàng thừa kế dọc
theo chiều dài lịch sử pháp luật Việt Nam qua đó đi sâu vào quy định pháp luật
hiện hành về Diện và hàng thừa kế, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị mang
tính giải pháp hoàn thiện các quy định về nội dung và hình thức trong luật.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy
định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế. Khi nghiên cứu đề tài,
tác giả sẽ tham khảo toàn bộ các quy định pháp luật của nước ta về diện và
hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn trong lịch sử theo sự phát triển của đất
nước, trong các sách chuyên khảo, đặc biệt là các quy định trong Bộ luật dân
sự 2005, so sánh với các quy định của một số nước trên thế giới về diện và
hàng thừa kế qua đó có cái nhìn về diện và hàng thừa kế theo pháp luật hiện
hành một cách tổng quát hơn, cụ thể hơn.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các biện pháp

nghiên cứu sau:
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử.
Bên cạnh đó còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác – Lênin có sự phối hợp với một số phương pháp như: phương pháp
thống kê, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng
hợp để đánh giá tổng thể các vấn đề cần nghiên cứu.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của
diện và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam. Trên cơ sở đó,
xác định đúng, chính xác về diện và hàng thừa kế cũng như thứ tự hưởng ưu

4
tiên theo quy định của pháp luật thừa kế từng giai đoạn lịch sử nhất định và
đặc biệt là BLDS năm 2005.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn
tại khi áp dụng quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra
những đề xuất, kiến nghị mang tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế,
tồn tại, góp phần hoàn thiện hơn các quy định về thừa kế.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
lĩnh vực thừa kế. Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung
này một cách toàn diện, bao quát, nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên
cứu một khía cạnh nhỏ của chế định thừa kế.
Đề tài luận văn này không phải là đề tài nghiên cứu mới. Đã có những
tác giả chọn để làm công trình nghiên cứu riêng của mình ở nhiều cấp độ khác
nhau. Tuy nhiên khi chọn đề tài nghiên cứu này tác giả nghiên cứu một cách
chi tiết về từng diện và từng hàng thừa gắn với từng quy định của mỗi giai
đoạn lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, tác giả so sánh với các

quy định của một số nước quy định về diện và hàng thừa kế qua đó làm sáng
tỏ những quy định của pháp luật hiện hành và tìm ra những vướng mắc còn
tồn tại trên thực tế và đề xuất kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về diện và hàng thừa kế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về thừa kế.
Chương 2: Diện và hàng thừa kế trong các quy định của pháp luật
Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện
những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng
thừa kế.

5
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ

1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Thừa kế và quyền thừa kế
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được
pháp luật bảo vệ. Điều 32, Hiến pháp 2013 quy định “Quyền sở hữu tư nhân
và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” [27].
Từ điển tiếng Việt thừa kế là hưởng của người khác để lại cho.
Theo các tác giả của Giáo trình Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội,
thừa kế được hiểu là: Việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho
những người còn sống. Khái niệm này đã phản ánh chính xác bản chất cũng
như nội dung thừa kế.
Người có quyền thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam là
công dân, tổ chức. Quyền thừa kế thuộc về cá nhân được thể hiện theo hai chủ

thể nhất định, đó là chủ thể để lại tài sản (quyền của người để lại di sản) và
chủ thể hưởng thừa kế di sản (quyền của người nhận di sản). Quyền thừa kế
thuộc về tổ chức được thể hiện theo một chủ thể nhất định, đó là chủ thể
hưởng thừa kế di sản (và chỉ trong trường hợp thừa kế theo di chúc).
Những người được thừa kế theo quy định của pháp luật không phụ
thuộc vào mức độ năng lực hành vi. Người có hay không có năng lực hành vi
hoặc người có năng lực hành vi không đầy đủ đều có quyền thừa kế. Trong
trường hợp này, người giám hộ sẽ thực hiện giúp những người này các quyền
và nghĩa vụ trong phạm vi tài sản của họ.
Thừa kế luôn gắn với quan hệ sở hữu xuất hiện đồng thời với quan
hệ sở hữu và sự phát triển của xã hội loài người. Khi nhà nước và pháp luật
chưa ra đời thì quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã tồn tại như một tất

6
yếu khách quan. Thừa kế xuất hiện phụ thuộc vào quan hệ sở hữu. Nếu sở
hữu là yếu tố quyết định thừa kế, thì thừa kế là phương tiện duy trì và củng
cố quan hệ sở hữu.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất
hiện ngay trong thời kỳ sơ khai của xã hội loài người - Chế độ Cộng sản
Nguyên thủy. Trong thời kỳ này, quan hệ thừa kế chỉ đơn thuần là một quan
hệ xã hội, việc thừa kế chỉ nhằm di chuyển tài sản của người chết cho những
người còn sống được tiến hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những
phong tục tập quán riêng của từng bộ lạc, thị tộc quyết định.
Khi nhà nước ra đời việc chiếm giữ của cải vật chất giữa người với
người được điều chỉnh bằng pháp luật theo hướng có lợi cho giai cấp thống
trị. Nhà nước đã sử dụng pháp luật là công cụ để bảo vệ tài sản và quyền tài
sản của người chết cho những người còn sống. Lúc này các quan hệ thừa kế
và quan hệ sở hữu không chỉ tồn tại một cách khách quan với ý nghĩa là một
phạm trù kinh tế nữa, mà những quan hệ này đã bị ràng buộc bởi những quy
phạm pháp luật và làm xuất hiện khái niệm quyền thừa kế.

Xét thừa kế dưới góc độ là phạm trù kinh tế tồn tại khách quan thì
quyền thừa kế là một phạm trù pháp lý chỉ phát sinh khi có nhà nước và pháp
luật. Nếu thừa kế là một quan hệ xã hội phát sinh ngay cả khi xã hội chưa
phân chia giai cấp, chưa có nhà nước và pháp luật, thì quyền thừa kế lại là
một quan hệ pháp luật chỉ ra đời và tồn tại trong xã hội đã phân chia giai cấp
và dẫn tới sự ra đời của nhà nước.
Xét thừa kế dưới góc độ pháp luật dân sự, quyền thừa kế bao gồm
tổng thể các quy phạm pháp luật do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết
sang cho người khác còn sống theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất
định do pháp luật quy định. Đồng thời, quy định quyền và nghĩa vụ cũng

7
như các phương thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ đó của những chủ thể
trong quan hệ thừa kế.
Xét thừa kế dưới góc độ là quyền năng dân sự, quyền thừa kế là
những quyền năng cụ thể của chủ thể trong việc để lại di sản thừa kế và nhận
di sản thừa kế. Đó là những cách thức mà các chủ thể được phép xử sự theo
quy định của pháp luật: Được để lại di sản thừa kế như thế nào, phân định
phần di sản cho từng người thừa kế ra sao, việc lập di chúc phải tuân thủ
những yêu cầu gì, sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc trong điều kiện
nào, ai là người được nhận di sản thừa kế, khi nào thì bị tước quyền hưởng di
sản thừa kế, giao nghĩa vụ cho người thừa kế như thế nào, Trong các quan
hệ về thừa kế, các chủ thể chủ động hiện thực hóa những quyền năng đó để
biến nó thành những quyền dân sự cụ thể qua đó đáp ứng được nhu cầu và
thực hiện được lợi ích cho bản thân mình.
Tóm lại, quyền thừa kế là tổng thể các quy phạm pháp luật do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh
việc chuyển dịch tài sản của người chết cho cá nhân, tổ chức theo di chúc
hoặc theo pháp luật, cũng như quy định phạm vi quyền, nghĩa vụ, phương

thức bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế và được thực hiện theo
những trình tự thủ tục nhất định.
Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho
người lao động, tôn trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển
kết quả đó cho những người thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền thừa kế
ở nước ta là một trong những phương tiện để củng cố và phát triển các quan
hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể trong quan
hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc đã thành
niên nhưng không có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo đảm quyền sở
hữu cho mọi cá nhân trong xã hội.

8
Như vậy thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang
cho người còn sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá
nhân gắn bó chặt chẽ với quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền
đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập
quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự của tất cả các nước trên
thế giới bao giờ cũng quy định về vấn đề thừa kế như là một phương thức bảo
đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu.
1.1.2. Người để lại di sản thừa kế
Quyền để lại thừa kế là một quyền cơ bản của cá nhân được pháp luật
Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi công
dân đối với những thu nhập hợp pháp của mình. Theo đó bất kỳ ai cũng có
quyền quyết định đối với các loại tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình.
Vì thế cá nhân có quyền lập di chúc cho người khác hưởng tài sản thuộc quyền
sở hữu riêng của mình sau khi mình chết, nếu không có di chúc thì tài sản này
được chia theo pháp luật.
Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong quá trình xây dựng và tổ chức
thực hiện pháp luật thừa kế nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt của người
có tài sản là nguyên tắc hết sức quan trọng, một mặt đã ghi nhận sự bảo hộ

của pháp luật đối với quyền về thừa kế, mặt khác nó còn thể hiện một cách
đầy đủ nhất các quyền dân sự chủ quan của mỗi cá nhân trong việc định đoạt
toàn bộ tài sản của mình.
Nội dung của nguyên tắc tôn trọng quyền định đoạt được ghi nhận
khá đầy đủ trong BLDS 2005.Trước hết đối với cá nhân người để lại tài sản
với tư cách là chủ sở hữu hợp pháp đối với những tài sản của mình, cá nhân
có quyền lập di chúc để thực hiện quyền định đoạt tài sản của mình sau khi
chết. Pháp luật không cho phép bất kỳ ai có hành vi cản trở, cưỡng ép, đe
doạ người lập di chúc. Người để lại thừa kế có thể thực hiện quyền định

9
đoạt thông qua hình thức di chúc viết hoặc di chúc miệng, có thể nhờ người
làm chứng cho việc lập di chúc, có thể yêu cầu công chứng viên đến chỗ ở
của mình để lập di chúc.
Khi thực hiện quyền định đoạt trong di chúc, người lập di chúc có
quyền chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế;
phân định phần di sản cho từng người thừa kế, dành một phần tài sản trong
khối di sản để di tặng, thờ cúng, giao nghĩa vụ cho người thừa kế, chỉ định
người giữ di chúc; người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Trong trường hợp di chúc đã được xác lập, nếu cần có sự thay đổi "ý
nguyện" cũng như nội dung, người lập di chúc còn có quyền sửa đổi, bổ sung,
thay thế hoặc huỷ bỏ di chúc vào bất kỳ lúc nào.
Quyền định đoạt của cá nhân để lại di sản được thể hiện không những
trong việc lập di chúc để định đoạt tài sản của họ, mà còn thể hiện ngay trong
việc họ không lập di chúc để định đoạt tài sản để lại sau khi họ chết. Đây
cũng là một cách thể hiện ý chí của cá nhân bằng việc không lập di chúc để
định đoạt tài sản của họ, mà ý chí đó thể hiện ở việc chỉ để lại di sản của họ
cho những người có quyền thừa kế theo pháp luật.
Như vậy pháp luật ghi nhận quyền định đoạt tài sản của người chết
thông qua việc lập di chúc để chỉ định thừa kế, truất quyền hưởng di sản của

người thừa kế. Vì thế họ có quyền chỉ định bất cứ ai có thể là cá nhân trong hay
ngoài diện thừa kế, thậm chí cũng có thể là nhà nước hoặc tổ chức nào đó.
Cần lưu ý rằng, người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không thể là
các pháp nhân hay tổ chức. Các pháp nhân hay tổ chức được thành lập với
những mục đích và nhiệm vụ khác nhau và tài sản của các pháp nhân, tổ chức
đó nhằm để phục vụ cho các hoạt động của chính mình. Khi các pháp nhân, tổ
chức đó đình chỉ hoạt động của mình (phá sản, giải thể ) tài sản của các pháp
nhân, tổ chức được giải quyết theo các quy định của pháp luật. Các pháp

10
nhân, tổ chức chỉ tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người được hưởng
di sản theo di chúc.
1.1.3. Người thừa kế
Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo
quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức
nhưng người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ
hôn nhân, gia đình hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản. Giữa người
để lại di sản và người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ pháp lý với nhau.
Người thừa kế có quyền sở hữu đối với phần di sản thừa kế, đồng thời họ phải
gánh vác những nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.
Điều 635 BLDS năm 2005 quy định chỉ những người còn sống vào
thời điểm mở thừa kế mới có năng lực hưởng thừa kế. Tuy nhiên, đối với
những người sắp sinh ra pháp luật cũng quy định họ cũng có thể là người thừa
kế nếu vào thời điểm mở thừa kế (lúc người để lại di sản chết) họ đã thành
thai. Nếu một người chưa thành thai vào thời điểm mở thừa kế hoặc thành thai
trước thời điểm mở thừa kế nhưng sinh ra không sống thì không được hưởng
di sản thừa kế.
Pháp luật quy định: Người thừa kế đang là thai nhi nếu sinh ra sau khi
mở thừa kế và phải còn sống. Thực tế khó xác định được như thế nào là sinh
ra và còn sống. Tại Điều 23, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12

năm 2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch quy định:
Trẻ em sinh ra sống được từ 24 giờ trở lên rồi mới chết
cũng phải đăng ký khai sinh và đăng ký khai tử. Nếu cha, mẹ không
đi khai sinh và khai tử, thì cán bộ Tư pháp hộ tịch tự xác định nội
dung để ghi vào Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký khai tử. Trong
cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký khai tử phải ghi
rõ Trẻ chết sơ sinh [11].

11
Do vậy, có thể coi trường hợp này nhà nước chưa quản lý về hộ
tịch của đứa trẻ dưới một ngày. Như vậy có thể hiểu rằng, đứa trẻ sinh ra
sau một ngày thì coi như là còn sống.
Có quan điểm cho rằng, một đứa trẻ sinh ra phải có những căn cứ
pháp lý, đó là giấy khai sinh mới được coi là một cá nhân trong xã hội. Thực
tế, ở nhiều gia đình do không có điều kiện nên chưa làm giấy khai sinh được
thì đứa trẻ sinh ra được coi là một cá nhân trong xã hội hay chưa? Có được
thừa kế hay không? Thông thường một đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời đã là
một con người trong xã hội. Vì vậy, không có lý do gì mà không thừa nhận sự
tồn tại của chúng trong xã hội. Vấn đề này cũng cần được quy định cụ thể để
tránh hiểu lầm và có căn cứ áp dụng pháp luật thống nhất.
Hiện nay pháp luật đã thừa nhận sinh con bằng phương pháp khoa
học kéo theo vấn đề phải xác định người thừa kế. Theo quy định tại khoản 1,
Điều 21, Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm 2015 quy định về
sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo, việc gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi được thực hiện
trong các trường hợp sau đây:
- Người chồng hoặc người vợ trong những cặp vợ chồng đang điều
trị vô sinh;
- Người có nguyện vọng muốn lưu giữ cá nhân;
- Người tình nguyện hiến tinh trùng, hiến noãn, hiến phôi;

- Cặp vợ chồng vô sinh hoặc phụ nữ độc thân lưu giữ phôi còn dư sau
khi thụ tinh trong ống nghiệm thành công.
Khoản 2, Điều 21, Nghị định 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01 năm
2015 quy định trường hợp người gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi bị chết mà
cơ sở lưu giữ tinh trùng, noãn, phôi nhận được thông báo kèm theo bản sao

12
giấy khai tử hợp pháp từ phía gia đình người gửi thì phải hủy số tinh trùng,
noãn, phôi của người đó, trừ trường hợp vợ hoặc chồng của người đó có đơn
đề nghị lưu giữ và vẫn duy trì đóng phí lưu giữ, bảo quản.
Như vậy, kéo theo vấn đề xác định cha cho con trong trường hợp
này. Theo khoản 4, Điều 21, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 01
năm 2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
Người vợ hoặc người chồng sử dụng tinh trùng, noãn, phôi của người vợ
hoặc người chồng bị chết làm phát sinh các quan hệ ngoài quan hệ hôn nhân
gia đình thì thực hiện theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và pháp
luật dân sự. Điều đó có nghĩa là đứa trẻ được sinh ra từ tinh trùng của người
chồng để lại sau khi qua đời thì theo các quy định của pháp luật hiện hành,
kể từ thời điểm người chồng chết, quan hệ hôn nhân giữa hai người sẽ chấm
dứt (Điều 65, Luật Hôn nhân gia đình năm 2014). Vì thế, việc nhận cha cho
con được thực hiện theo quy định tại khoản 1, Điều 88 của luật Luật Hôn
nhân gia đình năm 2014:
Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ
có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con
được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt
hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn
nhân… [28].
Đứa trẻ được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chồng
chết thì về nguyên tắc, người chồng được xác định là cha của đứa trẻ. Trường
hợp đứa trẻ sinh ra sau 300 ngày kể từ thời điểm người chồng chết sẽ không

được coi là con chung trong thời kỳ hôn nhân. Vì vậy, nếu muốn xác định cha
cho con thì phải làm thủ tục xác nhận cha cho con (khoản 3, Điều 102, Luật
Hôn nhân gia đình năm 2014). Sau khi làm thủ tục xác nhận cha, người chồng
mới được pháp luật thừa nhận là cha của đứa trẻ sinh ra.

13
Người hưởng thừa kế theo di chúc còn có thể là các cơ quan, tổ chức
phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì mới được hưởng di sản.
Nếu như pháp luật quy định người thừa kế có quyền hưởng di sản thì
cũng thừa nhận việc người thừa kế có quyền từ chối hưởng di sản. Quyền từ
chối này không được nhằm mục đích trốn tránh nghĩa vụ tài sản của mình với
người khác. Khi người thừa kế từ chối nhận di sản thì họ phải thể hiện ý chí
từ chối đó bằng hình thức văn bản trong thời gian luật định và phải báo cho
những người thừa kế khác cũng như cơ quan có thẩm quyền mà pháp luật quy
định về việc họ từ chối nhận di sản. Người thừa kế có quyền từ chối toàn bộ
quyền hưởng di sản thừa kế cũng có thể từ chối quyền thừa kế theo di chúc là
không từ chối quyền hưởng thừa kế theo pháp luật và ngược lại. Như vậy tất
cả những người được hưởng di sản thừa kế hay chỉ một số ngời đủ điều kiện
mới có quyền từ chối nhận di sản? Trường hợp người thừa kế chưa đủ 18 tuổi
thì sẽ xử lý như thế nào? Đây là trường hợp cần quan tâm và quy định cụ thể
hơn theo hướng muốn từ chối nhận di sản thì phải được sự đồng ý của cha,
mẹ, hoặc người giám hộ.
1.2. Diện và hàng thừa kế
1.2.1. Khái quát chung về diện và hàng thừa kế
* Diện thừa kế
Diện thừa kế là một trong những nội dung quan trọng của chế định
thừa kế, tuy nhiên vấn đề này lại chưa được các nhà làm luật quy định cụ
thể, chi tiết trong luật. Khái niệm diện thừa kế chỉ được quan tâm nghiên
cứu trong lĩnh vực khoa học pháp lý. Còn luật thực định từ trước đến nay
chưa có văn bản nào quy định cụ thể về vấn đề này. BLDS năm 1995 cũng

như BLDS năm 2005 chưa có nội dung nào quy định về khái niệm diện
thừa kế là gì và diện thừa kế bao gồm những ai? Đây là một vấn đề cần
được khắc phục trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt

14
Nam. Để hiểu về diện thừa kế chúng ta phải tìm hiểu xung quanh các quy
định của pháp luật để rút ra khái niệm.
Theo các tác giả của giáo trình Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội
khái niệm diện thừa kế được hiểu là "phạm vi những người có quyền hưởng di
sản của người chết theo quy định của pháp luật" [41, tr.266].
Theo Tiến sĩ Phạm Văn Tuyết trong “Thừa kế - quy định của pháp
luật và thực tiễn áp dụng” của tác giả được hiểu diện thừa kế là phạm vi
những người được pháp luật xác định nằm trong diện có thể được hưởng di
sản thừa kế theo quy định của pháp luật.
Nhìn chung, các khái niệm đã phản ánh đầy đủ nội dung cũng như
bản chất của diện thừa kế. Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế
theo pháp luật. Mà pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của
từng giai đoạn phát triển xã hội. Vì thế ở mỗi một chế độ xã hội nhất định mà
phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật lại được quy định ở
diện rộng hẹp khác nhau.
Ở xã hội nào những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật đều có
đặc điểm chung là những người thân thích gần gũi với người để lại di sản thừa
kế và do quan hệ hôn nhân và gia đình chi phối. Pháp luật mỗi thời kỳ quy
định khác nhau về phạm vi những người được hưởng di sản do đó kéo theo
diện thừa kế theo pháp luật cũng được xác định rộng, hẹp khác nhau tùy vào
từng giai đoạn lịch sử, điều kiện kinh tế, xã hội. Ở Việt Nam, trước năm 1945
dưới thời Phong kiến tư tưởng trọng nam khinh nữ nặng nề đã ảnh hưởng sâu
sắc đến việc xác định diện thừa kế. Địa vị của người vợ trong quan hệ gia
đình luôn bị đẩy xuống bậc thứ yếu so với các con và người chồng trong
những quan hệ xã hội thông thường và ngay cả trong quan hệ thừa kế.

Ngược lại với bản chất pháp luật thời kỳ phong kiến, pháp luật thừa
kế dưới chế độ mới ở nước ta đã được thể hiện rõ bản chất. Ngay trong bản

15
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Điều 9, Hiến pháp
1946 quy định: "Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" [20],
trong đó người vợ có quyền thừa kế như những người con khác khi chồng
chết trước. Đặc biệt, khi sắc lệnh số 97-SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 được
ban hành, diện thừa kế theo pháp luật theo tinh thần của Điều 10 và Điều 11
bao gồm: con cháu, vợ hay chồng của người để lại di sản.
Như vậy, diện thừa kế theo pháp luật dưới chế độ mới ở nước ta
kể từ năm 1945 đến nay luôn được xác định trên ba mối quan hệ với
người để lại di sản.
- Những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản;
- Những người có quan hệ hôn nhân với người để lại di sản;
- Những người có quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Một người có thể trở thành người thừa kế theo pháp luật đối với di
sản của người chết thì giữa họ phải có mối quan hệ nhất định khi người để lại
di sản còn sống. Mối quan hệ này là sợi dây ràng buộc họ bởi quyền của
người này và nghĩa vụ của người kia hoặc là bổn phận và trách nhiệm giữa họ
khi người để lại di sản còn sống. Những mối quan hệ được bắt nguồn từ sâu
xa của giá trị đạo đức truyền thống cùng sự phù hợp với pháp luật của một
chế độ xã hội nhất định.
Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu
ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ
nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt
ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy, diện thừa kế bao gồm các cá nhân còn sống có quan hệ hôn

nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được

16
tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn
sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di
sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế được xác định theo số
người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của
người để lại di sản.
* Hàng thừa kế
Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định
được người thuộc diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người
thuộc diện thừa kế đều được hưởng di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ
quan hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật phân những người thuộc
diện thừa kế thành các hàng thừa kế.
Hàng thừa kế là những nhóm, người thừa kế được pháp luật xếp trong
cùng một hàng. Việc chia hàng thừa kế có ý nghĩa thiết thực, đảm bảo để
những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những
người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng
thừa kế trước đó đã chết, hoặc do không có quyền hưởng di sản; hoặc bị truất
quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Khái niệm hàng thừa kế là gì cũng không được quy định cụ thể trong
hệ thống pháp luật của Việt Nam và cũng chưa có tác giả nào đưa ra khái
niệm chính xác, đầy đủ thể hiện rõ nội dung của hàng thừa kế.
Điều 676 BLDS năm 2005 quy định những người thừa kế theo pháp
luật được sắp xếp theo ba hàng thừa kế được sắp xếp dựa trên cơ sở mức độ
thân thích với người để lại di sản. Những người thừa kế ở hàng thứ nhất và
hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với
người để lại di sản, giữa họ đều có nghĩa vụ nuôi dưỡng, giám hộ và đại diện
đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều kiện phải giám hộ cho nhau nhất
định. Những người thừa kế ở hàng thứ ba được cơ cấu gồm nhiều thế hệ và


17
nhiều bậc trên dưới khác nhau theo quan hệ huyết thống nhưng giữa họ không
có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau.
Tóm lại nguyên tắc phân chia di sản tuân theo trình tự hàng, người
thừa kế ở hàng thứ nhất có quyền hưởng di sản trước tiên so với các hàng
thừa kế sau. Thừa kế theo hàng là thừa kế theo trật tự hàng gần hơn loại hàng
xa hơn, Thừa kế theo trật tự hàng mang tính tuyệt đối. Pháp luật thừa kế của
Việt Nam luôn đứng trên tinh thần bảo vệ quyền lợi cho những người có quan
hệ huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dưỡng. Tuy vậy tính ưu tiên trong quan
hệ thừa kế đó là những người thừa kế nằm trong mối quan hệ trực hệ với
người để lại di sản. Trong mối quan hệ trực hệ thì người nào gần nhất sẽ được
ưu tiên hưởng di sản hơn cả.
1.2.2. Diện và hàng thừa kế theo quy định của một số nước trên thế giới
Trên thế giới mỗi quốc gia có hệ thống pháp luật riêng của mình,
thậm chí trong cùng một quốc gia cũng tồn tại vài hệ thống pháp luật khác
nhau. Nhưng trong tất cả các hệ thống pháp luật đó có hai hệ thống pháp luật
có tính chất kinh điển và ảnh hưởng lớn nhất đó là truyền thống pháp luật lục
địa (Civil law) và truyền thống pháp luật án lệ (Com mon law). Trong truyền
thống pháp luật lục địa, cơ sở pháp luật dân sự là luật La Mã (Roman law),
luật dân sự bắt nguồn trước tiên từ các nước châu Âu lục địa như Pháp, Đức,
Italia các nước đã từng là thuộc địa của các nước này (như Việt Nam) sau
đó được thừa nhận ở hệ thống pháp luật phương Tây như Nhật Bản, Thái Lan,
Trung Quốc, bên cạnh đó, ở một số nước truyền thống luật án lệ cũng tồn tại
BLDS, đó là Bang Québec (Canađa) và Bang Lowssiana (Hoa kỳ). Chính vì
vậy, khi nghiên cứu PLVTK của một số nước trên thế giới, luận văn chỉ tập
trung vào một số quốc gia nhất định, cụ thể: BLDS Pháp với ý nghĩa là BLDS
điển hình trên thế giới. BLDS Thái Lan, Nhật Bản là những quốc gia châu á
gần gũi với Việt Nam.


18
1.2.2.1. Diện và hàng thừa kế theo pháp luật Pháp
BLDS Pháp được ban hành 1804, phần thừa kế được quy định trong
quyển 3, từ Điều 718 đến Điều 892 và chia thành 6 chương. Bộ luật quy
định người thừa kế chủ yếu dựa trên quan hệ huyết thống giữa người thừa
kế và người để lại di sản thuộc trực hệ hay bàng hệ và theo đó người thừa
kế được xác định theo trật tự ưu tiên trong việc hưởng di sản. Trước hết di
sản được truyền cho những người bề dưới không phân biệt độ tuổi, giới
tính và không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha mẹ đều được
hưởng di sản [14, Điều 745]. Nếu không có những người thừa kế trực hệ
dưới mình thì những người thừa kế trực hệ phía trên sẽ thừa kế di sản theo
nguyên tắc người ở bậc gần nhất sẽ loại trừ người ở bậc xa hơn và mỗi
người được hưởng một phần bằng nhau.
Điều 737 BLDS Cộng hòa Pháp quy định trong dòng trực hệ có bao
nhiêu đời giữa mọi người là có bấy nhiêu bậc “Con cháu trực hệ là những người
thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất, những con thuộc bậc thứ nhất, cháu thuộc
bậc thứ hai và cứ như thế cho đến vô tận” [14, Điều 737, 747].
Điều 738 BLDS Cộng hòa Pháp quy định trong dòng bàng hệ các bậc
cũng được tính theo đời. Ví dụ từ một người trong các thân thuộc đến ông tổ
chung và không tính ông tổ chung rồi từ ông tổ chung tới người kia: anh em là
bậc hai, chú cháu là bậc ba.
Ngoài ra, pháp luật về thừa kế của cộng hòa Pháp còn quy định
trường hợp bố, mẹ, các con của người chết không còn sống vào thời điểm mở
thừa kế hoặc người chết không có con, thì người là anh chị em hoặc các con
của người đó được hưởng thừa kế.
Ở Pháp quy định di sản được chia thành hai phần cho bên nội và
ngoại của người chết rồi mới chia cho những người thừa kế tùy theo của bên
nội. Tức là bên nếu bên nội còn một người thừa kế, bên ngoại còn ba người

×