Tư tưng Tnh đ trong kinh Duy Ma Ct
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhn thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay chính bản thân
mình rồi cũng phải chu qui lut già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo. Đức Pht thành đạo tại thế
gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian này.
A. DẪN NHẬP
Khi Thái tử Tất-đạt-đa nhận thấy tất cả mọi người dân đang chìm trong đau khổ, và ngay
chính bản thân mình rồi cũng phải chịu qui luật già, bệnh, chết nên quyết chí xuất gia học đạo.
Đức Phật thành đạo tại thế gian này và cũng hoằng pháp bốn mươi chín năm cũng tại thế gian
này.
Nếu như nói Tịnh độ hay quốc độ của Phật là nơi mà có Phật đang ở và thuyết giáo thì
cõi Ta bà này có phải là Tịnh độ không? Nếu là Tịnh độ vì đây là cõi giáo hóa của Phật thì tại
sao vẫn còn uế trược và đau khổ của chúng sanh? Đây là câu hỏi của ngài Xá-lợi-phất nêu ra
trong kinh Duy-ma-cật. Nhưng bằng phương tiện của Phật, ngài Xá-lợi-phất cùng chúng hội
nhận ra rằng chính tâm của mình có cấu uế nên mới thấy cõi này là cấu uế và đau khổ. Vậy thì
làm sao cải hóa tâm của chúng sanh từ chỗ bị cấu uế do tham, sân, si và bị năm thứ triền
phược trói buộc để chúng sanh cũng có được Tịnh độ như Phật? Đây là câu hỏi đặt ra cho
những vị bồ-tát sơ phát tâm hành đạo bồ-tát. Và cũng theo kinh Duy-ma-cật, đức Phật nói rằng
chính cõi chúng sanh là cõi Tịnh độ Phật của bồ-tát. Do đó, nhiệm vụ của bồ-tát là giáo hóa tất
cả chúng sanh được thanh tịnh để cõi Phật của mình được thanh tịnh.
Chính Duy-ma-cật đã nói rằng vì tâm chúng sanh bị cấu uế nên chúng sanh cũng bị cấu
uế, nếu tâm chúng sanh được thanh tịnh thì chúng sanh cũng được thanh tịnh. Đây là điểm
then chốt quan trọng chủ yếu cho người hành đạo bồ-tát biết phương pháp xây dựng Tịnh độ
cho chính mình. Vậy theo kinh Duy-ma-cật, vị bồ-tát phải làm những gì để quốc độ Phật của
mình được thanh tịnh?
B. NỘI DUNG
1. Uế đ và tnh đ
1.1. Uế đ
Thế giới này là nơi tồn tại của rất nhiều chúng sanh, bao gồm loài người và không phải
người. Sự hình thành những cộng đồng dân tộc của loài người và những tập quần của các loài
sinh vật không phải người là hệ quả tất yếu trong việc đấu tranh với các sự nguy hiểm để sinh
tồn. Các sự nguy hiểm này có thể là đến từ thiên nhiên như động đất, bão lụt, núi lửa…, và đôi
khi đến từ chính đồng loại của mình.
Tất cả sự xung đột của xã hội loài người nói riêng và muôn loài nói chung đều xuất phát
từ khát vọng sinh tồn, ham muốn hưởng thụ và bảo vệ cuộc sống của chính mình. Nguyên
nhân sâu xa nhất của những vấn đề này có thể tóm tắt trong ba thứ là tham lam, sân hận, si mê
như trong kinhTạp A-hàm, đức Phật đã nói:
Này các tỳ-kheo! Phải khéo tư duy quán sát tâm mình. Vì sao vậy? Từ lâu tâm này đã bị
tham dục làm nhiễm ô, bị sân nhuế, ngu si làm nhiễm ô. Này các tỳ-kheo! Tâm này bị phiền não
thì chúng sanh bị phiền não; tâm thanh tịnh thì chúng sanh được thanh tịnh.[1]
Do vậy, chiến tranh, giết chóc, cướp giật… đã tạo nên một thế giới xã hỗn loạn, đau khổ,
hận thù… Như trong kinh Giải thâm mật nói:
Bạch Thế tôn! Trong uế độ thì những việc gì dễ được, việc gì khó được? Trong tịnh độ thì
những việc gì dễ được, việc gì khó được? Này thiện nam tử! Trong uế độ có việc dễ được, hai
sự khó được. Tám sự dễ được là những gì? Một là ngoại đạo; hai là chúng sanh bị khổ; ba là
sự hưng suy khác nhau của các gia tộc; bốn là làm việc các việc ác; năm là hủy phạm giới cấm;
sáu là ác thú; bảy là hạ thừa; tám là có Bồ tát ý lạc và gia hành đều thấp kém. Hai sự khó được
là những gì? Một là các vị Bồ tát mà ý lạc và gia hành đều tăng thượng; hai là khó có sự xuất
hiện của Như lai. Này Văn-thù-sư-lợi! Trong tịnh độ thì ngượi với những điều trên, cần biết rằng
có tám điều khó được và hai điều dễ được.[2]
Có thể nói, tám điều khó mà kinh nói trên đây đã khái quát tất cả những vấn đề mà
chúng sanh gặp phải trên thế gian này. Ở điều thứ nhất, tuy rằng ngoại đạo cũng có lập trường
giáo thuyết của riêng mình nhưng hầu hết đều thuộc tà chấp hoặc trước nơi cái tưởng sai lầm
của mình. Do đó, nếu ai tin và hành theo thì dễ sa vào tà đạo. Điều thứ hai, chúng sanh trong
thế giới này tất nhiên phải bị nhiều thứ khổ chi phối, đôi khi có người muốn cầu giải thoát
nhưng lại gặp phải ngoại đạo. Có những gia đình quyền quí cao sang, hay bậc vua chúa…
nhưng khi gặp tai tương thì không còn gì cả. trong hoàn cảnh nào đó, có thể là lợi trước mắt
hay vì sân giận nhất thời, hoặc là vì kế sanh nhai mà chúng sanh dễ dàng làm việc ác. Có
những người phát nguyện thọ trì giới cấm của Phật nhưng lại hủy phạm. Những người quyết
chí tu hành nhưng chỉ cầu giải thoát riêng mình, không màng tới sự đau khổ của người khác.
Hoặc có người khá hơn là phát nguyện tu hành bồ-tát hạnh nhưng trong khi hành bồ-tát hạnh
thì gặp quá nhiều trở ngại lại sanh tâm thối lui… Tất cả những điều đó là những biểu hiện và
cũng là nguyên nhân mà chúng sanh trong thế giới này luôn đau khổ và xã hội cũng không một
ngày được an ổn.Chính vì vậy mà ở thế giới này có hai điều khó được là sự xuất hiện của chư
Phật, vì lẽ ác duyên của chúng sanh quá nhiều, vô minh che lấp quá lâu nên làm cho nhân
duyên của chúng sanh với chư Phật bị tiêu mất hoặc không thể dễ dàng thuận lợi để sanh tín
tâm với Phật pháp. Lại nữa, nếu ở thế giới này mà có người phát tâm hành bồ-tát hạnh một
cách mạnh mẽ, dù gặp muôn vàn khó khăn, đôi khi ảnh hưởng đến tánh mạng nhưng vẫn
không bỏ hạnh nguyện của mình và càng tinh trấn dõng mãnh hơn thì thật là rất khó. Cho nên
khi chỉ cho thế giới khổ đau mà chúng ta đang sống, kinh gọi là ta-bà thế giới. Trong Thành duy