Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng tại Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 105 trang )

1




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








TRƯƠNG THỊ HỒNG NHUNG





PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI VIỆT NAM







LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Hà Nội – 2013



2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








TRƯƠNG THỊ HỒNG NHUNG








PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG TẠI VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 603850


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thương Huyền




Hà nội – 2013


4

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GTGT
Giá trị gia tăng
NSNN
Ngân sách nhà nước

DN
Doanh nghiệp
TNDN
Thu nhập doanh nghiệp
NNT
Người nộp thuế



5

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 14
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ
THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG 14
1.1. Quản lý thuế Giá trị gia tăng 14
1.1.1 Một số nhận thức về thuế Giá trị gia tăng 14
1.1.2 Khái niệm quản lý thuế Giá trị gia tăng 17
1.1.3 Các đặc điểm của hoạt động quản lý thuế Giá trị gia tăng 19
1.1.4 Sự cần thiết của hoạt động quản lý thuế Giá trị gia tăng 21
1.2. Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng 22
1.2.1 Khái niệm pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng 22
1.2.2 Những nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng 24
CHƯƠNG 2 40
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ TRỊ GIA
TĂNG Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 40
2.1. Thực trạng pháp luật về thủ tục hành chính thuế 40
2.1.1 Các quy định về đăng ký thuế GTGT 40

2.1.2 Các quy định về khai thuế GTGT 43
2.1.3 Các quy định về nộp thuế GTGT 46
2.1.4 Các quy định về hoàn thuế GTGT 50
2.1.5 Các quy định về xóa nợ tiền thuế, tiền phạt 61
2.2. Thực trạng pháp luật về giám sát và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật quản lý
thuế 65
2.2.1. Các quy định về quản lý thông tin người nộp thuế 65
2.2.2. Các quy định về kiểm tra, thanh tra thuế GTGT 68
2.2.3. Các quy định về xử lý vi phạm và cưỡng chế thi hành quyết định hành
chính thuế 72

6

2.2.4. Các quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong quản lý thuế GTGT 80
CHƯƠNG 3 81
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ GIÁ
TRỊ GIA TĂNG Ở VIỆT NAM 81
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt
Nam ……………………………………………………………………………………81
3.2. Căn cứ để xác định giải pháp hoàn thiện pháp luật Quản lý thuế giá trị gia
tăng ở Việt Nam 82
3.2.1. Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và hoàn thiện nền
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay 82
3.2.2. Sự chi phối của nền Kinh tế thị trường Việt Nam 84
3.2.3. Kết quả nghiên cứu khoa học, kinh nghiệm xây dựng, thực hiện pháp luật
quản lý thuế ở nước ta và một số nước trên thế giới 86
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt
Nam ……………………………………………………………………………………87
3.3.1. Hoàn thiện các quy định về thủ tục hành chính thuế 87

3.3.2. Hoàn thiện pháp luật đảm bảo sự giám sát và tuân thủ pháp luật thuế 91
3.4. Cơ chế đảm bảo thực hiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt
Nam ……………………………………………………………………………………97
3.4.1. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý thuế 97
3.4.2. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý và nâng cao trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý thuế 99
3.4.3. Đẩy mạnh phát triển công nghệ thông tin nhằm tiến tới thực hiện quản lý
thuế điện tử 101
3.4.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế 102
KẾT LUẬN 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Error! Bookmark not defined.



7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế hiện hành của
thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Thực tiễn áp dụng thuế GTGT ở
nước ta trong hơn 15 năm qua đã cho thấy sự tác động lớn, nhiều mặt đến đời
sống kinh tế, xã hội của thuế GTGT và khẳng định được sự đúng đắn trong việc
áp dụng sắc thuế GTGT. Chính vì tầm quan trọng của sắc thuế này, việc đặt ra yêu
cầu quản lý thuế GTGT trở nên hết sức cần thiết.
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề quản lý thuế GTGT cũng như quản lý các sắc
thuế khác được quy định trong một đạo luật về Quản lý thuế nói chung. Luật Quản
lý thuế ban hành ngày 29/11/2006 đã có những thay đổi căn bản trong phương
thức quản lý thuế theo hướng chặt chẽ, hiệu quả, thống nhất chính sách quản lý
thu thuế; tạo sự đồng bộ, nâng cao tính rõ ràng, minh bạch; tăng cường vai trò
kiểm tra giám sát của Nhà nước, xã hội trong công tác quản lý thuế nói chung và

quản lý thuế GTGT nói riêng. Với nhiều quy định tiến bộ, Luật quản lý thuế 2006
bước đầu đã phát huy được hiệu quả thực thi hệ thống chính sách thuế nói chung
và thuế GTGT nói riêng của Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, pháp luật về quản lý thuế GTGT đã bộc
lộ những bất cập nhất định như: Một số quy định không bảo đảm tính thống nhất
hoặc chưa phù hợp, hoặc thiếu tính khả thi, hoặc chưa có quy định cụ thể, rõ ràng.
Các thủ tục hành chính thuế còn phức tạp, trùng lắp và thiếu đồng bộ, chi phí tuân
thủ pháp luật của người nộp thuế còn cao, …Điều này đã gây khó khăn nhất định
cho công tác quản lý thuế GTGT cũng như cho người nộp thuế. Để pháp luật về
quản lý thuế GTGT phát huy vai trò quan trọng đối với việc thực thi có hiệu quả
sắc thuế GTGT và để đảm bảo tốt hơn quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế thì
pháp luật về quản lý thuế GTGT nói riêng cũng như pháp luật về Quản lý thuế nói
chung cần được tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện.
Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 đã xác định mục
tiêu tổng quát của Chính phủ: “Xây dựng ngành thuế Việt Nam hiện đại, hiệu lực,

8

hiệu quả; công tác quản lý thuế, phí và lệ phí thống nhất, minh bạch, đơn giản, dễ
hiểu, dễ thực hiện dựa trên ba nền tảng cơ bản: Thể chế chính sách thuế minh
bạch, quy trình thủ tục hành chính thuế đơn giản, khoa học phù hợp với thông lệ
quốc tế; Nguồn nhân lực có chất lượng, liêm chính; ứng dụng công nghệ thông tin
hiện đại, có tính liên kết, tích hợp, tự động hóa cao, … phấn đấu đưa Việt Nam
thuộc nhóm các nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á trong xếp hạng các mức độ
thuận lợi về thuế vào năm 2010” [6].
Từ thực tiễn nêu trên đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ lý
luận về pháp luật điều chỉnh quan hệ về quản lý thuế GTGT để trên cơ sở đó đánh
giá một cách toàn diện, khách quan về thực trạng pháp luật về quản lý thuế GTGT
ở nước ta, từ đó xác định phương hướng và giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao
hiệu quả pháp luật quản lý thuế GTGT nói riêng cũng như pháp luật Quản lý thuế

nói chung ở Việt Nam hiện nay.
Với những lý do trên đây, luận văn“Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia
tăng tại Việt Nam” là vấn đề có tính cấp thiết cả về phương diện lý luận lẫn thực
tiễn, cần được nghiên cứu một cách cơ bản và có hệ thống ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Qua nghiên cứu, tìm hiểu các công trình nghiên cứu khoa học đã được công
bố, có thể nêu một số công trình có liên quan đến vấn đề quản lý thuế GTGT là:
- “Những vấn đề pháp lý về việc áp dụng thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam”
(2002), luận án tiến sĩ luật học; Nguyễn Thị Thương Huyền, Viện nghiên cứu nhà
nước và pháp luật.
- Pháp luật về quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam – những
vấn đề lý luận và thực tiễn (2012), Luận án tiến sĩ Luật; Vũ Văn Cương, Đại học
Luật Hà Nội;
- Pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, thực trạng và hướng hoàn
thiện(2006); Luận văn thạc sĩ luật học; Trần Thị Minh Hiền, người hướng dẫn
khoa học: TS. Phạm Thị Giang Thu;

9

- Pháp luật về thuế GTGT và các biện pháp bảo đảm thực hiện (2002), Luận
văn thạc sỹ, Lê Thị Bích Liên, Hà Nội;
- Một số ý kiến trao đổi về dự thảo luật thuế GTGT và Luật thuế thu nhập
Doanh nghiệp (2008), TS. Phạm Giang Thu, Tạp chí Luật học số 4/2008;
- Luật quản lý thuế và những vấn đề cần bàn thêm (2008), TS. Nguyễn Thị
Thương Huyền, Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 29/2008;
- Thông tin về người nộp thuế trong pháp luật quản lý thuế ở nước ta hiện
nay; ThS.Vũ Văn Cương; Tạp chí Luật học; Trường Đại học Luật Hà Nội, Số
4/2009, tr. 3 – 12;
- Pháp luật quản lý thuế ở Việt Nam, thực trạng và hướng hoàn thiện (2006);
Khoá luận tốt nghiệp; Nguyễn Minh Phương; Người hướng dẫn: ThS. Vũ Văn

Cương, Đại học Luật Hà Nội.
Có thể thấy, trong các công trình khoa học kể trên, các tác giả hướng tới
nghiên cứu pháp luật nội dung về thuế giá trị gia tăng hoặc nghiên cứu về vấn đề
quản lý thuế nói chung mà chưa có một nghiên cứu nào hoàn chỉnh về vấn đề
quản lý thuế GTGT.
Tình trạng này xuất phát từ việc các công trình nghiên cứu đó được thực hiện
trong điều kiện pháp luật thực định không có sự tách biệt giữa hai bộ phận pháp
luật là pháp luật quy định nội dung chính sách thuế và pháp luật về quản lý thuế
[9, 51].
Hơn nữa, do pháp luật thuế Việt Nam được cải cách, xây dựng và hoàn thiện
trong điều kiện nền kinh tế ở nước ta đang trong giai đoạn đầu của quá trình
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, nên có quá nhiều vấn đề đặt ra đối với chính
sách thuế cần tập trung giải quyết. Vì vậy, xu hướng hoàn thiện pháp luật thuế
trong những năm qua chủ yếu tập trung vào các quy định phản ánh chính sách
thuế mà ít quan tâm đến bộ phận pháp luật về quản lý thuế [4, 5].
Như vậy, nhìn lại các công trình nghiên cứu trong thời gian qua có thể khẳng
định cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào về pháp luật quản lý thuế

10

GTGT ở Việt Nam. Bởi vậy, tác giả cho rằng, công trình nghiên cứu ở cấp độ luận
văn thạc sỹ về “Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam” là cần
thiết và có ý nghĩa thiết thực cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua luận văn “Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng ở Việt Nam”, tác
giả muốn tập trung phân tích thực trạng pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở
Việt Nam hiện nay, những ưu điểm, thành tựu đạt được cũng như những vướng
mắc trên thực tế và chỉ ra nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc đó. Trên cơ
sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn để luận chứng khoa học cho việc xác

định phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả
pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. Những kiến nghị của luận văn
hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định
pháp luật của Việt Nam nhằm mục đích đảm bảo một môi trường pháp lý phù hợp
và tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan điểm khoa học, các số liệu thực tiễn có liên quan đến điều chỉnh
pháp luật đối với quan hệ quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng.
- Các quy định của pháp luật quản lý thuế GTGT hiện hành và một số quy
định của pháp luật quản lý thuế GTGT trên thế giới.
- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế và hoàn thiện thể
chế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN liên quan đến quản lý thuế nói
chung và quản lý thuế GTGT nói riêng.
- Các văn bản của Bộ Tài chính, ngành thuế liên quan đến quản lý thuế.
- Kinh nghiệm của một số nước về quản lý thuế GTGT và pháp luật điều
chỉnh quan hệ quản lý thuế GTGT.
3.3. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn

11

Hiện nay, khái niệm quản lý thuế có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và
nghĩa hẹp. Theo nghĩa hẹp, quản lý thuế là “quản lý hành chính nhà nước về thuế,
việc tổ chức, quản lý, điều hành quá trình thu nộp thuế, bao gồm các hoạt động
mang tính chất hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế, là hoạt động chấp hành
theo kế hoạch và trình tự nhất định được thực hiện bởi các cơ quan quản lý thuế”.
Tùy thuộc vào mục đích của người nghiên cứu mà vấn đề quản lý thuế nói chung
và quản lý thuế GTGT nói riêngsẽ được tiếp cận ở những phạm vi khác nhau. Để
phù hợp với mục đích của việc nghiên cứu, trong luận văn này, tác giả nghiên cứu
vấn đề quản lý thuế GTGT theo nghĩa hẹp, đồng thời tập trung nghiên cứu các quy
định của pháp luật quản lý thuế GTGT trong hệ thống pháp luật do Nhà nước Việt

Nam ban hành, từ khi có Luật quản lý thuế năm 2006.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên nền tảng phương pháp luận biện chứng duy vật
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Để thực hiện luận văn này,
tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: Phương pháp tiếp
cận lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê để giải quyết nội
dung khoa học của luận văn.
Phương pháp phân tích, so sánh được sử dụng nhiều ở chương 1 để làm rõ
những khái niệm, phạm trù mà luận án sử dụng từ đó rút ra được những kết luận
khoa học làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng và xác định phương hướng, giải
pháp cho việc hoàn thiện pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt nam hiện nay.
Phương pháp tiếp cận lịch sử, phân tích, so sánh, phương pháp thống kê
được sử dụng trong chương 2 để luận giải cho nhận định, đánh giá về thực trạng
pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng nhiều ở chương 3 để rút ra những kết
luận và định ra được các giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế trong nền
kinh tế thị trường.
5. Những đóng góp mới của luận văn

12

Luận văn là chuyên khảo khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu một cách
cơ bản, hệ thống về vấn đề quản lý thuế GTGT ở Việt Nam dưới giác độ pháp lý,
vì vậy luận văn có những điểm mới sau về mặt khoa học:
- Luận văn phân tích bản chất pháp lý của quản lý thuế GTGT, xây dựng
khái niệm quản lý thuế GTGT.
- Luận văn đưa ra kết luận khoa học về thực trạng pháp luật quản lý thuế
GTGT và thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế, kết luận về nguyên nhân của
thực trạng để làm cơ sở cho việc xây dựng giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm
nâng cao hiệu quả pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay.

- Luận văn xác định những tư tưởng cơ bản để định hướng chung cho các
giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế GTGT ở Việt
Nam hiện nay.
- Luận văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý thuế GTGT
ở Việt Nam hiện nay dựa trên các căn cứ khoa học và thực tiễn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện về mặt pháp luật
quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp
phần bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận và hoàn thiện pháp luật về quản
lý thuế nói chung và pháp luật về quản lý thuế GTGT ở Việt Nam nói riêng.
Luận văn là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy khoa học pháp
lý phục vụ việc hoạch định chính sách; phục vụ quản lý hoạt động thực tiễn trong
các cơ quan tài chính, thuế, hải quan, … và các đối tượng thực hiện nghĩa vụ thuế.
Các kết luận, các ý kiến được trình bày trong luận văn có thể giúp ích cho
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong xây dựng chính sách, xây dựng pháp
luật quản lý thuế GTGT nói riêng và pháp luật Quản lý thuế nói chung cũng như
trong tổ chức thực hiện pháp luật thuế GTGT.
7. Kết cấu của luận văn

13

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
trình bày với kết cấu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật quản lý thuế giá trị gia tăng
Chương 2:Thực trạng pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam và
những vấn đề đặt ra
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế giá trị gia tăng ở Việt
Nam



14

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT QUẢN LÝ THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1. Quản lý thuế Giá trị gia tăng
1.1.1 Một số nhận thức về thuế Giá trị gia tăng
Thuế GTGT là một sắc thuế quan trọng trong hệ thống thuế hiện hành của
thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Theo Điều 2 Luật thuế GTGT Việt
Nam năm 2008: “Thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hoá,
dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”.
Xét về bản chất, thuế GTGT “là thuế gián thu, đánh vào việc sử dụng thu
nhập, tức đánh vào việc tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ mà cụ thể là đánh vào hành vi
chuyển giao tài sản và cung cấp dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất, lưu
thông, tiêu dùng thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ” [14, 9].
Thuế GTGT mang một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Thuế GTGT là thuế gián thu đánh trên bình diện rộng, nghĩa là
thuế GTGT không trực tiếp đánh vào thu nhập và tài sản của người nộp thuế mà
đánh một cách gián tiếp thông qua giá cả hàng hóa và dịch vụ. Các nhà sản xuất,
kinh doanh và cung cấp dịch vụ là người nộp thuế nhưng người tiêu dùng thực
chất là người chịu thuế thông qua giá cả hàng hóa, dịch vụ. Có thể thấy, mọi đối
tượng tồn tại trong xã hội đều là chủ thể chịu thuế, chủ thể thực tế phải chi trả một
phần thu nhập do hành vi tiêu dùng.Còn chủ thể nộp thuế GTGT lại là các chủ thể
sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và các tổ chức, cá nhân nhập
khẩu hàng hóa chịu thuế.Như vậy, người nộp thuế và người chịu thuế GTGT
không đồng nhất với nhau, độc lập và có những thân phận pháp lý khác nhau.[14,
12]
Với quy định này và các quy định khác có liên quan đến đối tượng nộp thuế
GTGT được ghi nhận tại các điều luật khác, việc xác định điều kiện cần và đủ cho
một chủ thể nằm trong diện nộp thuế GTGT là hoàn toàn cần thiết, đồng thời loại


15

trừ nghĩa vụ của những đối tượng không hội tụ đầy đủ các điều kiện đã đặt ra. Các
đối tượng nộp thuế GTGTđáp ứng các điều kiện sau:
- Có hoạt động sản xuất kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ thông thường
thuộc đối tượng chịu thuế GTGT (được hiểu có đăng ký kinh doanh và đăng ký
nộp thuế GTGT) hoặc có hành vi nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế GTGT.
- Có phần GTGT tăng thêm trên lãnh thổ Việt Nam.
Việc xác định điều kiện cần và đủ cho đối tượng nộp thuế GTGT giúp cho
cơ quan quản lý, thu thuế GTGT và đối tượng sản xuất kinh doanh phân biệt
trường hợp đăng ký, kê khai thuế GTGT với trường hợp phải nộp thực tế một số
tiền thuế GTGT vào NSNN.
Cùng với quy định về chủ thể nộp thuế GTGT, pháp luật cũng quy định
những đối tượng không nộp thuế GTGT. Những đối tượng này mặc dù đều có
hoạt động kinh doanh, có phần giá trị tăng thêm từ hoạt động kinh doanh trên lãnh
thổ quốc gia nhưng xuất phát từ những lí do, mục đích nhất định, pháp luật quy
định họ không phải nộp loại thuế này. Đó là các đối tượng kinh doanh có kết quả
kinh doanh dưới mức quy định (Khoản 25 Điều 5 Luật Thuế GTGT 2008 quy định
về đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT: hàng hóa, dịch vụ của cá nhân
kinh doanh có thu nhập bình quân tháng thấp hơn mức lương tối thiểu chung áp
dụng đối với tổ chức, doanh nghiệp trong nước), hoặc đối tượng kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT.
Thứ hai, thuế GTGT là thuế tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ
do vậy phương pháp tính thuế GTGT chủ yếu dựa trên phương pháp khấu trừ
thuế, cụ thể:
Thuế GTGT được thu qua mỗi khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh. Dựa
trên đối tượng tính thuế là phần chênh lệch giữa giá trị đầu ra và phần giá trị đầu
vào tương ứng, phương án khả thi xác định số thuế phải nộp là tính theo phần thuế
chênh lệch qua các khâu của quá trình sản xuất, lưu thông (phương pháp khấu trừ

thuế) hoặc tính trực tiếp trên phần giá trị tăng thêm do chủ thể nộp thuế tạo ra.

16

Pháp luật thuế GTGT Việt Nam quy định hai phương pháp tính thuế: phương pháp
khấu trừ thuế và phương pháp tính trực tiếp trên GTGT, trong đó phương pháp
khấu từ thuế được coi là phương pháp chủ yếu.
Nội dung cơ bản của phương pháp khấu trừ thuế là số thuế GTGT phải nộp
được tính trên cơ sở số thuế GTGT đầu ra trừ đi số thuế GTGT đầu vào. Thuế
GTGT đầu ra là số thuế xuất hiện ở khâu bán ra, chủ thể nộp thuế đã xác định và
tính trong giá bán cho người nhận hàng hóa dịch vụ (trong giá thanh toán). Phần
thuế này được tính trên toàn bộ giá trị hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Thuế GTGT đầu vào xuất hiện ở khâu mua vào, được tính trong tổng giá mà chủ
thể nộp thuế đã trả để nhận được hàng hóa, dịch vụ. Tương tự số thuế đầu ra, thuế
GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT đã thanh toán được ghi trên hóa đơn
GTGT mua hàng hóa, dịch vụ hoặc chứng từ nộp thuế GTGT hàng hóa nhập khẩu.
Như vậy, số thuế GTGT phát sinh ở các khâu được phản ánh rõ trên chứng từ hóa
đơn. Bằng một nghiệp vụ phát hành hóa đơn, có thể là cơ sở xác định số thuế đầu
ra cho chủ thể cung ứng hàng hóa, dịch vụ; đồng thời lại là căn cứ xác định số
thuế đầu vào cho bên nhận hàng hóa, dịch vụ.
Phương pháp khấu trừ thuế có những ưu điểm nhất định như xác định đúng
số thuế phải nộp ở từng khâu, từng chủ thể nộp thuế, chống thất thu thuế; đảm bảo
thu đủ số thuế cần thiết điều tiết thu nhập của người tiêu dùng; đơn giản hóa quá
trình quản lí và thu thuế. Với nhưng ưu điểm nêu trên, phương pháp khấu trừ thuế
khi tính thuế GTGT được xác định là phương pháp tính thuế chủ yếu. Tuy nhiên,
phương pháp này đòi hỏi chủ thể nộp thuế theo phương pháp khấu trừ phải đạt
được những điều kiện nhất định:
- Chủ thể nộp thuế có hoạt động kinh doanh ổn định, chấp hành chế độ hạch
toán kế toán, chế độ sử dụng chứng từ hóa đơn theo quy định hiện hành dành cho
các chủ thể kinh doanh.

- Đăng ký thuế, đã được cơ quan quản lý thuế cấp mã số thuế theo đúng trình
tự luật định.

17

- Đăng ký với cơ quan thuế và được cơ quan thuế chấp nhận nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ.
Thứ ba, Thuế GTGT mang bản chất liên hoàn. Nói thuế GTGT mang bản
chất liên hoàn vì xét trong mối quan hệ mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các doanh
nghiệp nộp thuế GTGT với nhau thì thuế đầu ra của doanh nghiệp bán là thuế đầu
vào của doanh nghiệp mua. Vì vậy, thuế GTGT phải nộp ở mỗi doanh nghiệp
không chỉ phụ thuộc vào doanh số bán ra và thuế suất mà còn phụ thuộc vào thuế
GTGT ở doanh nghiệp cung ứng đầu vào (thuế đầu vào). Sự phụ thuộc lẫn nhau
này giữa các doanh nghiệp là hệ quả của bản chất liên hoàn của thuế GTGT.
1.1.2 Khái niệm quản lý thuế Giá trị gia tăng
Thuế là một phạm trù kinh tế, pháp lý mang tính lịch sử, sự xuất hiện, tồn tại
và phát triển của thuế luôn gắn với sự ra đời và phát triển của nhà nước. Thuế là
nguồn thu vô cùng quan trọng của NSNN. Chính vì tầm quan trọng và tính chất
đặc biệt của thuế nên bất cứ nhà nước nào cũng cần tìm ra phương thức quản lý
thuế sao cho có hiệu quả nhất để nhằm đạt được mục tiêu và phát huy tối đa vai
trò của thuế trong đời sống thực tiễn.
Có thể thấy, hoạt động quản lý xuất hiện từ khi có hoạt động chung của con
người. Theo từ điển Hán Việt, quản lý và việc trông nom, sắp đặt công việc trong
một tổ chức nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Vậy quản lý là phạm trù
chỉ mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và đối tượng bị quản
lý nhằm đạt được những mục tiêu nhất định đã đề ra. Hiện nay, có rất nhiều cách
hiểu khác nhau về quản lý thuế.
Thứ nhất, theo nghĩa rộng, quản lý thuế là “quản lý của nhà nước trong lĩnh
vực thuế, là quá trình xây dựng chiến lược phát triển hệ thống thuế, ban hành các
luật thuế, tổ chức, quản lý, điều hành, thanh tra, giám sát việc thực hiện cácluật

thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật về thuế, …”.[10, 93]
Như vậy, nội dung quản lý thuế theo nghĩa rộng bao gồm một số vấn đề chủ
yếu như:

18

- Ban hành và hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về thuế,
xây dựng chính sách, kế hoạch, chiến lược phát triển hệ thống thuế;
- Thanh tra, kiểm tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật thuế;
- Áp dụng các biện pháp phòng chống trốn lậu thuế, chiếm đoạt tiền thuế của
nhà nước, thực hiện cưỡng chế thuế;
- Tiếp nhận, xem xét và giải quyết các khiếu nại, tố cáo về thuế;
- Tổ chức thu thập, xử lý cung cấp thông tin về đối tượng nộp thuế;
- Ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thuế;
- Tổ chức quản lý công tác nghiên cứu khoa học, đào tạo, xây dựng đội ngũ
cán bộ quản lý nghiệp vụ thuế….
Thứ hai, theo nghĩa hẹp, quản lý thuế là “quản lý hành chính nhà nước về
thuế, việc tổ chức, quản lý, điều hành quá trình thu nộp thuế, bao gồm các hoạt
động mang tính chất hành chính trong lĩnh vực quản lý thuế, là hoạt động chấp
hành theo kế hoạch và trình tự nhất định được thực hiện bởi các cơ quan quản lý
thuế”.
Theo cách hiểu này, quản lý thuế bao gồm các nội dung chủ yếu như sau:
- Xây dựng cơ chế quản lý thuế tạo cơ sở cho công tác quản lý thuế, trong đó
xác định rõ chủ thể quản lý, đối tượng chịu sự quản lý;
- Xác định rõ các quyền, nghĩa vụ cho đối tượng nộp thuế, quyền hạn và
trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế, cán bộ công chức ngành thuế, trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân trong quản lý thuế;
- Xác định các thủ tục và nội dung quản lý hành chính thuế như: đăng ký
thuế, cấp mã số thuế, mua bán hóa đơn, chứng từ; kê khai thuế, nộp thuế; quyết
toán thuế, miễn giảm thuế, hoàn thuế, xử phạt vi phạm thuế, cưỡng chế thuế,

khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại tố cáo thuế;
- Xây dựng cơ chế quản lý thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế để áp dụng
tại cơ quan quản lý thu thuế các cấp;
- Tổ chức bộ máy quản lý thuế, quy trình nghiệp vụ quản lý thuế để áp dụng
tại cơ quan quản lý thu thuế các cấp;

19

- Tổ chức đội ngũ cán bộ, công chức thuế để thực hiện các nhiệm vụ quản lý
thuế bằng các biện pháp quản lý hành chính thích hợp với diễn biến khách quan
của quá trình sản xuất kinh doanh ở cơ sở và điều kiện quản lý kinh tế trong từng
giai đoạn.
Luật quản lý thuế hiện hành của Việt Nam liệt kê các nội dung quản lý thuế
tại Điều 3 (bao gồm đăng ký thuế, khai thuế, ấn định thuế, thủ tục hoàn thuế, miễn
thuế, giảm thuế …). Từ điều luật này có thể thấy nhà lập pháp hiểu quản lý thuế
theo nghĩa hẹp. Tùy thuộc vào mục đích của người nghiên cứu mà định nghĩa về
quản lý thuế sẽ được tiếp cận ở những phạm vi khác nhau. Để phù hợp với pháp
luật thực định ở nước ta cũng như phù hợp với mục đích của việc nghiên cứu,
trong luận văn này, tác giả sử dụng khái niệm quản lý thuế theo nghĩa hẹp.
Với tính chất là một lĩnh vực quản lý chuyên ngành, quản lý thuế GTGT là
một bộ phận của hoạt động quản lý thuế nói chung. Quản lý thuế GTGT được
hiểu là hoạt động của các cơ quan hành chính thuế từ trung ương đến địa
phương, bao gồm các hoạt độngtổ chức, chấp hành và điều hành các công việc
liên quan đến quá trình thu, nộp thuế GTGT vào NSNN nhằm đạt được những mục
tiêu nhất định.
Việc hiểu đúng bản chất của hoạt động quản lý thuế GTGT có ý nghĩa quan
trọng trong việc thể chế hóa thành pháp luật những nội dung của hoạt động quản
lý thuế, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý thuế và đảm bảo thực
hiện đúng kế hoạch huy động nguồn thu cho NSNN hàng năm.
1.1.3 Các đặc điểm của hoạt động quản lý thuế Giá trị gia tăng

Hoạt động quản lý thuế GTGT với tính chất là một bộ phận của hoạt động
quản lý thuế, vừa mang những đặc điểm của hoạt động quản lý thuế nói chung và
mang những đặc điểm riêng nhất định của lĩnh vực quản lý chuyênngành, cụ thể:
Thứ nhất, về bản chất quản lý thuế là một bộ phận của quản lý tài chính
công. Vì vậy, quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng được tiến
hành trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc quản lý tài chính công và quản lý nguồn

20

thu của NSNN. Do thuế là khoản thu mang tính bắt buộc nên phương pháp quản
lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng thường được sử dụng chủ yếu
là phương pháp quản lý hành chính.
Thứ hai, về chủ thể trong quản lý thuế GTGT
Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, là tài sản quốc gia để phục vụ lợi ích
cho toàn xã hội. Vì thế, tham gia quản lý thuế đồng thời là trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước và các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Việc xác định cơ quan, tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia hoạt động quản lý thuế trong Luật quản lý
thuế 2006 thể hiện tư tưởng xã hội hóa hoạt động quản lý thuế của nhà làm luật.
Tuy nhiên, trách nhiệm quản lý thuế trước hết thuộc về Nhà nước. Để đảm bảo
thực thi trách nhiệm này, Nhà nước trao quyền hạn, trách nhiệm quản lý thuế cho
Bộ Tài chính, mà trực tiếp là hệ thống cơ quan quản lý thuế gồm cơ quan thuế và
cơ quan hải quan chịu trách nhiệm chính trong thực thi nhiệm vụ quản lý thuế.
Đối tượng chủ yếu chịu sự quản lý thuế của nhà nước là người nộp thuế được xác
định trong các Luật thuế cụ thể do nhà nước ban hành. Trong pháp luật về thuế
GTGT, chủ thể chịu sự quản lý thuế của nhà nước bao gồm người chịu thuế và
người nộp thuế. Xét trong mối quan hệ tay ba: cơ quan quản lý thuế, người chịu
thuế và người nộp thuế thì người nộp thuế đóng vai trò trung gian thu thuế hộ cơ
quan quản lý thuế rồi nộp vào NSNN. Cả ba loại chủ thể này đều có thể tham gia
quan hệ quản lý thuế vừa với tư cách là chủ thể quản lý thuế, vừa là đối tượng bị
quản lý, giám sát trong quá trình thực hiện pháp luật thuế.

Thứ ba, quản lý thuế cần các công cụ và phương tiện khác nhau, trong đó
chủ yếu và quan trọng nhất là công cụ pháp luật. Pháp luật là chuẩn mực buộc các
chủ thể phải tuân theo, dù là người thu thuế hay người nộp thuế. Ngoài ra, dư luận
xã hội cũng đóng vai trò rất quan trọng. Do đó bên cạnh việc nâng cao hiệu lực
của các quy định pháp luật thì tác động vào dư luận cũng là một giải pháp hiệu
quả cần phải quan tâm nhằm nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật thuế của các chủ
thể tham gia cũng như “cải thiện hình ảnh của thuế nói chung và công tác quản lý
thuế nói riêng”.

21

Thứ tư, quản lý thuế thuộc lĩnh vực quản lý có tính kỹ thuật phức tạp, mang
tính chuyên môn cao. Có nhiều yếu tố tác động và ảnh hưởng đến hiệu quả của
công tác quản lý thuế như: hệ thống pháp luật về quản lý thuế; ý thức chấp hành
của người dân; trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ; công chức quản lý thuế;
cơ sở vật chất của ngành thuế; hệ thống thể chế quản lý kinh tế, xã hội (quản lý
đất đai, quản lý đăng ký kinh doanh, chế độ kế toán)…. Đặc điểm này đặt ra yêu
cầu muốn nâng cao hiệu quả quản lý thuế cần có các giải pháp đồng bộ, quan tâm
phát triển nhiều mặt thì Nhà nước mới có thể đạt được mục tiêu nâng cao hiệu lực,
hiệu quả trong quản lý thuế nói chung và quản lý thuế GTGT nói riêng.
Thứ năm, Chi phí quản lý hành chính thuế GTGT khá cao. Bởi lẽ thuế
GTGT là loại thuế gián thu đánh trên bình diện rộng, hoạt động chịu thuế GTGT
không chỉ bao hàm các hoạt động chịu thuế doanh thu mà còn bao gồm cả các
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động sản xuất các mặt hàng chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt… Mặt khác thuế GTGT lại vận hành theo cơ chế khấu trừ thuế,
hoàn thuế vì vậy khối lượng công việc quản lý của cơ quan thuế sẽ tăng lên rất
nhiều, bộ máy thuế phải được tăng cường, theo đó chi phí quản lý thuế GTGT sẽ
tốn kém và phức tạp.
1.1.4 Sự cần thiết của hoạt động quản lý thuế Giá trị gia tăng
Thuế GTGT là một sắc thuế tiến bộ, có nhiều ưu điểm so với các loại thuế

khác. Sau hơn 16 năm triển khai thực hiện, pháp luật thuế GTGT đã đạt được
nhiều thành tựu đáng khích lệ, góp phần không nhỏ vào việc xây dựng và phát
triển kinh tế đất nước. Nguồn thu từ thuế GTGT là nguồn thu quan trọng và chiếm
tỷ trọng lớn trong tổng thu NSNN. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được,
vẫn còn các tồn tại tình trạng trốn thuế, làm giả hóa đơn chứng từ, gian lận hoàn
thuế giá trị gia tăng, nợ đọng thuế, …
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Về phía người
nộp thuế, do xuất phát từ những tính chất của thuế nên mặc dù ý thức được sự cần
thiết và tính tất yếu của thuế nhưng thuế chưa bao giờ được người nộp thuế “cảm
nhận như một thực tế dễ chịu”. Chính vì vậy, phía các cơ quan quản lý thuế

22

“thường phải đối mặt với những mối quan hệ khó điều chỉnh, thậm chí đôi khi nảy
sinh xung đột”[3, 263]. Về phía người chịu thuế, thuế GTGT mang tính chất lũy
thoái so với thu nhập nên không đảm bảo công bằng giữa các tầng lớp dân cư. Vì
vậy, khi áp dụng thuế GTGT thường phải kết hợp với nhiều loại thuế trực thu khác
như thuế thu nhập lũy tiến để điều tiết thu nhập của các đối tượng. Ngoài ra, điều
kiện áp dụng thuế GTGT phải đạt đến một mức độ nhất định, phải đáp ứng được
các tiêu chuẩn về kế toán, chế độ chứng từ hóa đơn và khả năng quản lý của các
cơ quan tham gia quản lý, thu thuế GTGT.
Do đó có thể thấy quản lý thuế GTGT là hoạt động rất nhạy cảm, phức tạp,
đòi hỏi phải đảm bảo lợi ích của tất cả các bên chủ thể. Xuất phát từ những lý do
trên, việc đặt ra yêu cầu quản lý thuế GTGT là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp.
Đặc điểm này cũng đặt ra yêu cầu các cơ quan quản lý thuế cần có những phương
thức quản lý linh hoạt, tránh việc quản lý tùy tiện đề ra các quy định có tính áp
đặt, độc đoán. [3, 263]
1.2. Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng
1.2.1 Khái niệm pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng
Theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, pháp luật là kiến trúc thượng tầng còn kinh tế-

xã hội là cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, chính vì
vậy mà các quốc gia trên thế giới có nền kinh tế-xã hội khác nhau dẫn tới hệ thống
pháp luật cũng khác nhau. Pháp luật về thuế là một bộ phận quan trọng trong pháp
luật của mỗi quốc gia và mỗi quốc gia lại có một cách xây dựng hệ thống pháp
luật về thuế riêng để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình.
Thực tiễn lập pháp cho thấy, có hai xu hướng ban hành pháp luật về thuế khá
phổ phiến. Một là, quy định tất cả các sắc thuế trong 1 bộ luật chung về thuế, gọi
là bộ luật thuế vụ. Trong bộ luật này, các nhà làm luật vừa quy định về nội dung
cụ thể của các loại thuế trong hệ thống thuế, vừa quy định về trình tự, thủ tục hành
thu và cơ chế quản lý thu cũng như xử lý vi phạm và giải quyết các tranh chấp
thuế. Hai là, mỗi loại thuế được ban hành bằng một đạo luật riêng, độc lập với
nhau nhưng vẫn đảm bảo tính tương thích với nhau và đồng thời tách bạch các

23

quy định về quản lý thuế bằng một đạo luật riêng biệt so với các đạo luật thuế gọi
là Luật quản lý thuế.
Ở Việt Nam hiện nay, các nhà làm luật áp dụng cách thức thứ hai, ban hành
từng đạo luật riêng cho mỗi loại thuế và ban hành Luật quản lý thuế (2006) để quy
định về trình tự, thủ tục thực hiện công tác quản lý thuế: quy định về thủ tục đăng
ký thuế, cấp mã số thuế, thủ tục về mua hóa đơn, chứng từ; thủ tục về kê khai
thuế, thủ tục hoàn thuế, thủ tục miễn giảm thuế; quy định những hành vi vi phạm
và mức phạt vi phạm về thuế; quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu
nại, tố cáo; thanh tra thuế, ….
Xét về mặt lý thuyết, phápluật thuế bao gồm pháp luật vật chất (hay còn gọi
là pháp luật nội dung) ghi nhận, phản ánh chính sách thuế và pháp luật thủ tục
(pháp luật hình thức) quy định các vấn đề về quản lý thuế. Hay có thể thấy pháp
luật thuế bao gồm hai bộ phận cơ bản là:
- Pháp luật về chính sách thuế, được quy định trong các luật thuế bao gồm
các quy định về đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu

thuế, căn cứ tính thuế, thời hạn nộp thuế và trường hợp đượchưởng ưu đãi… thực
chất các quy định về chính sách thuế đã chỉ rõ trong mỗi loại thuế là ai phải nộp
thuế, số thuế và thời gian nộp, những trường hợp ngoại lệ (trường hợp không áp
dụng, trường hợp được hưởng ưu đãi, miễn giảm thuế…).
- Pháp luật về quản lý thuế được quy định cụ thể trong Luật quản lý thuế
(Luật thủ tục), bao gồm các quy định về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của đối
tượng nộp thuế, cơ quan quản lý thuế và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có
liên quan đến việc thực hiện pháp luật thuế; các quy định về thủ tục hành chính
thuế, cơ chế quản lý thuế, biện pháp quản lý thuế nhằm đảm bảo thực thi có hiệu
quả pháp luật thuế như tuyên truyền, hướng dẫn, tư vấn giúp đỡ đối tượng nộp
thuế, thanh tra, kiểm tra pháp luật thuế, các quy định về khiếu nại, tố cáo và giải
quyết tranh chấp về thuế.

24

Như vậy, trong lĩnh vực thuế thì chính sách thuế được coi là các quy định nội
dung, xác định mục tiêu, còn quản lý thuế bao gồm các quy định mang tính thủ tục
nhằm thực hiện chính sách thuế. Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng: “Ranh
giới giữa pháp luật quản lý thuế và pháp luật về nội dung các sắc thuế không hoàn
toàn rạch ròi trong cách thể hiện. Điều này phụ thuộc vào kỹ thuật, trình độ lập
pháp và sự lựa chọn của các nhà làm luật. Chẳng hạn: các quy định quản lý có tính
chất đặc thù của từng sắc thuế có thể sẽ được đưa vào các văn bản pháp luật nội
dung của sắc thuế đó, còn các quy định quản lý mang tính chất chung sẽ được đưa
vào Luật Quản lý thuế. Điều này không phá vỡ nguyên tắc chung đồng thời đạt
được hiệu quả cao.” [9, 51]
Từ những phân tích trên, có thể hiểu pháp luật về quản lý thuế là tổng hợp
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát
sinh trong hoạt động quản lý thuế của Nhà nước (quan hệ quản lý trong việc thu
nộp thuế cho NSNN của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối với đối tượng
nộp thuế và các đối tượng khác có liên quan).

Pháp luật về quản lý thuế GTGTvới tư cách là một bộ phận của pháp luật
quản lý thuế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ban hành điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động
quản lý thuế GTGT của Nhà nướcnhằm đảm bảo tập trung đầy đủ, đúng hạn
nguồn thu từ thuế GTGT vào NSNN.
1.2.2 Những nội dung cơ bản của pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng
Pháp luật quản lý thuế GTGT bao gồm các nội dung chủ yếu sau: (i) pháp
luật về thủ tục hành chính thuế bao gồm: quản lý việc đăng ký thuế, kê khai thuế,
tổ chức thu nộp thuế, thực hiện hoàn thuế GTGT và (ii) pháp luật về giám sát,
đảm bảo sự tuân thủ pháp luật quản lý thuế, bao gồm pháp luật về quản lý thông
tin người nộp thuế, pháp luật về thanh tra, kiểm tra thuế và xử lý vi phạm pháp
luật thuế.


25

1.2.2.1 Pháp luật về thủ tục hành chính thuế
Pháp luật về thủ tục hành chính thuế bao gồm các nhóm quy phạm pháp
luật sau: Nhóm quy phạm phápluật về đăng ký thuế GTGT;Nhóm quy phạm pháp
luật về khai thuế GTGT; Nhóm quy phạm pháp luật về ấn định thuế GTGT; Nhóm
quy phạm pháp luật về nộp thuế GTGT; Nhóm quy phạm pháp luật về hoàn thuế
GTGT và Nhóm quy phạm pháp luật về xóa nợ tiền thuế, tiền phạt.
Thứ nhất, nhóm quy phạm pháp luật về đăng ký thuế Giá trị gia tăng
Đăng ký thuế là việc người nộp thuế thực hiện khai báo sự hiện diện của
mình và nghĩa vụ phải nộp thuế với cơ quan quản lý thuế. Để xác định được đối
tượng phải quản lý thuế GTGT, các chủ thể có hành vi kinh doanh phải đăng ký
thuế với cơ quan quản lý thuế có thẩm quyền. Pháp luật về đăng ký thuế GTGT là
tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi đăng ký thuếcủa các chủ thể
có trách nhiệm đăng ký thuế.
Sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ đăng ký thuế GTGT là sự ra đời, thay

đổi hoặc chấm dứt của chủ thể kinh doanh. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ này
được xác định kể từ ngày đối tượng nộp thuế được cấp GCN đăng ký kinh doanh.
[14, 94]
Khoảng thời gian mà đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ đăng ký mã
số thuế với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền được gọi là thời hạn thực
hiện nghĩa vụ đăng ký thuế.
Kết quả của việc đăng ký thuế là mỗi chủ thể kinh doanh được cấp một mã
số thuế. Về nguyên tắc, mã số thuế được cấp duy nhất cho một chủ thể nộp thuế
và sử dụng suốt quá trình tồn tại của chủ thể nộp thuế, phục vụ cho việc nhận diện
chủ thể nộp thuế. Mã số thuế giúp cơ quan quản lí thực hiện hoạt động quản lí
thuế trên phạm vi toàn lãnh thổ, trong hoạt động sản xuất kinh doanh thông
thường và quản lí thuế đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Việc quản lí thuế theo
mã số thuế giúp cơ quan có thẩm quyền giám sát về thuế của chủ thể nộp thuế,
theo dõi các vấn đề phát sinh liên quan đến sử dụng chứng từ hóa đơn. Trong

26

trường hợp cần thiết, các thông tin về chủ thể nộp thuế giúp cho cơ quan nhà nước
giám sát hoạt động hoàn thuế hoặc áp dụng các biện pháp phi thuế đối với trường
hợp vi phạm. Để thực hiện mục đích quản lí thuế nói trên của cơ quan nhà nước,
người nộp thuế phải ghi mã số thuế được cấp vào hóa đơn, chứng từ, tài liệu khi
thực hiện các giao dịch kinh doanh; kê khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế và các giao
dịch về thuế; mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng
khác Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác phải ghi mã số thuế trong hồ
sơ mở tài khoản của người nộp thuế và các chứng từ giao dịch qua tài khoản.Cơ
sở kinh doanh khi có quyết định giải thể hoặc chấm dứt hoạt động thì mã số thuế
đã được cấp sẽ không được sử dụng và không được dùng lại để cấp cho đối tượng
nộp thuế khác.
Việc đăng ký thuế kết thúc bằng hành vi cấp giấy chứng nhận đăng ký nộp
thuế của cơ quan thuế cho chủ thể kinh doanh. Như vậy, cấp giấy chứng nhận

đăng ký thuế là hình thức chấp nhận đăng ký thuế của cơ quan thuế hay nói cách
khác là việc cơ quan thuế xác nhận việc đăng ký thuế của chủ thể nộp thuế, đảm
bảo cho chủ thể kinh doanh tiến hành hoạt động kinh doanh bình thường. Giấy
chứng nhận đăng ký thuế bao gồm các thông tin cơ bản phục vụ cho mục đích
giúp cho cơ quan thuế quản lý thông tin, giám sát vi phạm của người nộp thuế.
Đối với cơ quan thuế phải có trách nhiệm sử dụng mã số thuế của đối tượng
nộp thuế để quản lý đối tượng nộp thuế, theo dõi số liệu nộp thuế của đối tượng
nộp thuế và ghi mã số đối tượng nộp thuế trên mọi giấy tờ giao dịch với đối tượng
nộp thuế như thông báo nộp thuế, thông báo phạt, biên bản kiểm tra về thuế, …
Cơ quan thuế có trách nhiệm quản lý toàn bộ hệ thống mã số thuế của các
đối tượng nộp thuế và cập nhật mã số thuế vào hệ thống thông tin thuế, phối hợp
với các Bộ, ngành liên quan để tổ chức đưa mã số thuế vào hệ thống thông tin hiện
có của các Bộ, ngành có chức năng quản lý liên quan đến đối tượng nộp thuế.

×