1
MỤC LỤC
Danh mục viết tắt 3
Danh mục bảng biểu 5
Lời mở đầu………………………………………………………………… 6
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về cạnh
tranh quốc gia 9
1.1 Khái niệm cạnh tranh và các yếu tố quyết định năng lực cạnh
tranh quốc gia 9
1.1.1 Khái niệm cạnh tranh 9
1.1.2 Phân loại 10
1.1.3 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia 13
1.2 Kinh nghiệm quốc tế 15
1.2.1 Kinh nghiệm mở cửa, hội nhập và nâng cao sức cạnh tranh của một số
nước trong khu vực 15
1.2.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 19
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam và
những vấn đề đặt ra 24
2.1 Tổng quan về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam 24
2.2 Năng lực cạnh tranh của Việt Nam dựa vào các tiêu chí đánh giá
của WEF 29
2.2.1 Về thể chế Nhà nước và vai trò điều hành của Chính phủ 29
2.2.2 Về Tài chính - Ngân hàng 37
2.2.3 Về mức độ mở cửa và hội nhập 46
2
2.2.4 Về Hạ tầng 60
2.2.5 Về Công nghệ 69
2.2.6 Về Lao động 76
2.2.7 Về Doanh nghiệp 82
2.3 Những mặt hạn chế về năng lực cạnh tranh của Việt Nam 91
Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế của Việt
Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 100
3.1 Định hướng quan điểm 100
3.2 Nhóm giải pháp của doanh nghiệp 101
3.2.1 Chiến lược Sản phẩm 102
3.2.2 Chiến lược Marketing 103
3.2.3 Chiến lược đổi mới Công nghệ 103
3.2.4 Chiến lược phát triển nguồn Nhân lực 104
3.2.5 Chiến lược Liên kết 104
3.3 Nhóm giải pháp của nhà nước 105
3.3.1 Về môi trường thể chế 105
3.3.2 Về môi trường đầu tư 107
3.3.3 Về môi trường kinh doanh 110
Kết luận 114
Tài liệu tham khảo 115
3
DANH MỤC VIẾT TẮT
AFTA Khu vực tự do mậu dịch ASEAN
APEC Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEM Hội nghị thượng đỉnh Á - Âu
ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BOT Xây dựng - Quản lý - Chuyển giao
BCI Chỉ số cạnh tranh kinh doanh
CIEM Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương
CIF Giá bao gồm bảo hiểm và cước vận chuyển
EU Liên minh châu Âu
FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GATT Hiệp định chung về thuế quan
GCI Chỉ số cạnh tranh tăng trưởng
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GNP Tổng sản phẩm quốc dân
ICOR Chỉ số giá trị sản phẩm gia tăng
ILO Tổ chức lao động quốc tế
IMD Viện quản lý phát triển
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
JETRO Tổ chức ngoại thương Nhật Bản
MIS Hệ thống quản lý thông tin
MITI Bộ công nghiệp và thương mại quốc tế Nhật Bản
NIEs Các nền kinh tế mới công nghiệp hoá
ODA Quỹ hỗ trợ phát triển chính thức
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
R&D Nghiên cứu và phát triển
SIBOR Lãi suất liên ngân hàng Singagore
TNCs Công ty Xuyên quốc gia
UBND Uỷ ban nhân dân
UBQGVHN Uỷ ban Quốc gia về hợp tác Kinh tế Quốc tế
UNDP Chương trình phát triển Liên hợp quốc
USD Đô la Mỹ
VND Việt Nam đồng
4
WB Ngân hàng Thế giới
WEF Diễn đàn Kinh tế Thế giới
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
XHCN Xã hội Chủ nghĩa
5
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Vị trí xếp hạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam, 1997 –
2005 25
Bảng 2.2: Các chỉ số năng lực cạnh tranh các nước ASEAN – 2005 27
Bảng 2.3: Các chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam – 2005 . 28
Bảng 2.4: Cấu trúc của hệ thống tài chính Việt Nam 39
Bảng 2.5: Xếp hạng khả năng cạnh tranh của hệ thống ngân hàng - tài
chính Việt Nam và các nước xét theo khả năng gia nhập thị trường 40
Bảng 2.6: So sánh chất lượng hệ thống ngân hàng Việt Nam với một số
nước trong khu vực 44
Bảng 2.7: Vốn đầu tư nước ngoài đăng ký qua các năm 54
Bảng 2.8: So sánh một số chỉ tiêu sử dụng cơ sở hạ tầng giữa Việt Nam
và Thái Lan . 61
Bảng 2.9: Chi phí dịch vụ hạ tầng ở một số thành phố châu Á 63
Bảng 2.10: Đánh giá tác động của kết cấu hạ tầng tới năng lực cạnh
tranh 67
6
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài:
Từ trước đến nay, cạnh tranh là một yếu tố không thể thiếu giữa các
doanh nghiệp cũng như giữa các quốc gia trong nền kinh tế thị trường bởi
cạnh tranh là nguồn gốc thúc đẩy sự phát triển của một nền kinh tế.
Nền kinh tế có năng lực cạnh tranh quốc gia cao sẽ đạt được tốc độ
tăng trưởng cao, tạo việc làm và thu nhập, trình độ khoa học công nghệ được
nâng cao, đời sống người dân được cải thiện. Ngược lại, nền kinh tế chậm
hoặc không nâng cao được năng lực cạnh tranh sẽ dẫn đến ít thu hút được đầu
tư trong nước và nước ngoài, mất thị phần của thị trường trong nước và thế
giới. Các doanh nghiệp không cạnh tranh được sẽ phải chuyển hướng sản
xuất, thậm chí có thể phải giải thể, phá sản dẫn đến lao động mất việc làm,
gây khó khăn về kinh tế, xã hội.
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) trong báo cáo Năng
lực cạnh tranh toàn cầu hàng năm thì Việt Nam hiện đang nằm trong nhóm có
khả năng cạnh tranh thấp. Cụ thể: Năm 2003 Việt Nam xếp hạng 60 trong 102
nước; Năm 2004 xếp hạng 77 trong 104 nước; Năm 2005 xếp hạng 81 trong
117 nước. Với năng lực như vậy, khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế chúng ta sẽ dễ dàng bị tổn thương và thua thiệt. Để tránh nguy cơ trên
và khỏi bị gạt ra ngoài quỹ đạo phát triển chung, Việt Nam cần phải nỗ lực,
chủ động hội nhập vào xu thế chung đồng thời phải nâng cao năng lực cạnh
tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của mình.
Với yêu cầu trên, việc chỉ rõ các hạn chế và những yếu kém về năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam so với các nền kinh tế khác từ đó đề
ra các chính sách nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt
Nam trong quá trình hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế quốc tế đang
7
là vấn đề được các cơ quan, các bộ, ban ngành, các doanh nghiệp và toàn xã
hội quan tâm.
Do sự cần thiết của vấn đề như vậy nên em lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế” trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu:
Cạnh tranh kinh tế là vấn đề hấp dẫn, đã có nhiều tác giả tìm hiểu,
nghiên cứu. Ở Việt Nam cũng đã có nhiều hội thảo, dự án nghiên cứu về năng
lực cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp, nghiên cứu những rào cản, những
mặt hạn chế về năng lực cạnh tranh của Việt Nam nhưng chưa nghiên cứu
một cách có hệ thống năng lực cạnh tranh của Việt Nam và việc đưa ra các
giải pháp cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình
hội nhập và chuẩn bị gia nhập WTO.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Chỉ ra những mặt lợi thế và hạn chế, yếu kém về năng lực cạnh tranh
của Việt Nam trong quá trình hội nhập.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt
Nam trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Nghiên cứu những vấn đề về năng lực canh tranh quốc gia
của Việt Nam. Những vấn đề lý luận, những chính sách và giải pháp liên quan
đến cạnh tranh kinh tế.
- Phạm vi: Nghiên cứu thực trạng năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ
năm 1995 đến nay.
8
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong luận văn này, phương pháp nghiên cứu, tìm hiểu về năng lực
cạnh tranh của Việt Nam là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, dựa trên 8 tiêu chuẩn của WEF để tổng
hợp, thống kê, phân tích và so sánh từ đó rút ra những giải pháp tối ưu.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn:
- Làm rõ thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế như tham gia AFTA và khi Việt Nam
gia nhập WTO.
7. Bố cục của luận văn:
Bố cục của luận văn ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục viết
tắt, danh mục bảng biểu và tài liệu tham khảo, phần nội dung bao gồm có 3
chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế
về năng lực cạnh tranh quốc gia
Chương 2: Thực trạng năng lực cạnh tranh kinh tế của Việt Nam
và những vấn đề đặt ra
Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh kinh tế
của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
9
Chương 1:
Mét sè vÊn ®Ò lý luËn chung vµ kinh nghiÖm quèc tÕ
vÒ N¨ng lùc c¹nh tranh quèc gia
1.1. Khái niệm cạnh tranh và các yếu tố quyết định năng lực cạnh
tranh quốc gia
1.1.1. Khái niệm cạnh tranh:
Cạnh tranh là một khái niệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Trong kinh tế, khái niệm cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua
giữa các quốc gia, các doanh nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất
hoặc khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường. Cạnh tranh
có thể đưa lại lợi ích cho tổ chức này và thiệt hại cho tổ chức khác, song xét
dưới góc độ lợi ích toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực (Ví dụ:
chất lượng tốt hơn, giá rẻ hơn, dịch vụ tốt hơn )
Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản và là động lực phát
triển của nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, khả năng cạnh
tranh là điều kiện cho sự sống còn của mỗi doanh nghiệp. Kết quả cạnh tranh
sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường, vì thế từng doanh nghiệp
đều cố gắng tìm cho mình một chiến lược cạnh tranh phù hợp để vươn lên tới
vị thế cao nhất.
Cạnh tranh kinh tế quốc tế là cạnh tranh giữa chủ thể kinh tế trên thị
trường thế giới, là cạnh tranh kinh tế đã vượt khỏi phạm vi quốc gia. Sở dĩ
như vậy là do sự tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, phân công
lao động quốc tế đã phát triển sâu, rộng, sự phát triển lực lượng sản xuất xã
hội có tính chất quốc tế và do quá trình mở rộng thị trường trên quy mô toàn
thế giới.
10
Năng lực cạnh tranh quốc gia là năng lực của một nền kinh tế đạt được
tăng trưởng bền vững, thu hút được đầu tư, bảo đảm ổn định kinh tế, xã hội,
nâng cao đời sống của người dân.
1.1.2. Phân loại:
1.1.2.1 Lý thuyết cổ điển
a) Lý luận cạnh tranh của Adam Smith
Adam Smith chủ trương tự do cạnh tranh. Ông cho rằng cạnh tranh có
thể phối hợp các hoạt động kinh tế một cách nhịp nhàng và có lợi cho xã hội.
Vì cạnh tranh trong quá trình của cải của quốc gia tăng lên, chủ yếu diễn ra
thông qua thị trường và giá cả, do đó cạnh tranh có quan hệ chặt chẽ với thị
trường. Theo Smith, tự do thôi thúc cá nhân thực hiện các công việc một cách
tốt hơn và năng suất hơn. Từ đó, cạnh tranh có thể khơi dậy nỗ lực của con
người và làm cho của cải của quốc gia tăng lên.
Trong tác phẩm Sự giàu có của quốc gia, theo ông muốn tăng của cải
quốc gia cần thực hiện 3 việc: tăng cường phân công, tăng số lượng tư bản và
cải thiện công cụ của tư bản. Mọi cá nhân không ngừng tìm kiếm thêm lợi
nhuận của họ. Do đó nhà nước không không cần can thiệp vào đời sống kinh
tế. Ngoài ra theo Smith, cạnh tranh có thể điều tiết cân bằng cung cầu. Bởi vì
trong môi trường cạnh tranh sẽ có người tham gia. Do đó, họ phải chú ý tới
điều kiện thị trường, áp lực cạnh tranh. Từ đó thích ứng với quá trình thay đổi
cung cầu.
Cạnh tranh còn có tác dụng nâng cao năng lực của lao động, điều tiết
phân phối các yếu tố sản xuất một cách hợp lý. Cạnh tranh thôi thúc người lao
động nâng cao kỹ năng, hợp lý hoá sản xuất để nâng cao lợi nhuận.
b) Quan điểm cạnh tranh của John Stuart Mill
11
John Stuart Mill đã bổ sung lý luận cạnh tranh của Smith. Theo ông
cạnh tranh không phải là yếu tố kích thích dựa vào mong muốn, nhưng trong
thời đại mà ông đang sống thì cạnh tranh là cần thiết. Quan điểm của Mill về
tự do không chỉ bó hẹp trong chính trị học và đạo đức học mà là vấn đề cốt lõi
trong toàn bộ lý luận về công lợi mà ông nêu ra.
Mill phân biệt rõ tự do kinh tế và tự do cá nhân, ông cho rằng trao đổi
mua bán có thể làm cho hàng hoá được sản xuất ra nhiều hơn, tốt hơn và rẻ
hơn. Mill thừa nhận phải có các biện pháp kiểm soát gian lận thương mại, tuy
nhiên không được kiểm soát hành vi cạnh tranh trong hợp đồng kinh tế. Nếu
cuộc chơi là công bằng thì kẻ thất bại phải chấp nhận thực tế. Lý luận cạnh
tranh của Mill được coi là tiến bộ vì nó chống lại chế độ phong kiến, khuyến
khích tự do cá nhân, gợi mở tư tưởng cho con người mở mang trí tuệ, phát
triển khoa học công nghệ thúc đẩy tiến bộ xã hội.
c) Quan điểm cạnh tranh của C.Mác
C.Mác không có lý luận cạnh tranh riêng, mà lý luận cạnh tranh của
ông nằm trong học thuyết giá trị thặng dư. Theo Mác, sự ra đời và tồn tại của
cạnh tranh trước hết phải dựa vào hai điều kiện cơ bản: phân công xã hội và
chủ thể lợi ích đa nguyên.
Trong lý luận cạnh tranh của Mác, có thể thấy nổi bật quan điểm về
cạnh tranh giữa những người sản xuất, đồng thời cạnh tranh giữa các nhà sản
xuất đã ảnh hưởng tới người tiêu dùng. Cạnh tranh diễn ra ở ba bình diện:
cạnh tranh giá thành thông qua nâng cao năng suất lao động giữa các nhà tư
bản nhằm thu hút được giá trị thặng dư siêu ngạch; cạnh tranh chất lượng
thông qua nâng cao giá trị sử dụng hàng hoá; cạnh tranh giữa các ngành thông
qua khả năng luân chuyển tư bản để từ đó các nhà tư bản chia nhau giá trị
thặng dư. Những luận điểm cơ bản đó đã tạo nên lý luận cạnh tranh của Mác.
12
1.1.2.2 Lý thuyết hiện đại
Lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter: Lĩnh vực nghiên cứu
của Michael Porter chủ yếu tập trung vào hai mặt, quản lý chiến lược doanh
nghiệp và tổ chức ngành. Do vậy trong cuốn Chiến lược cạnh tranh ông đã
chỉ ra ba chiến lược dẫn đầu: chiến lược giá thành, chiến lược về sự khác biệt
và chiến lược tập trung mục tiêu. Trong tác phẩm Lợi thế cạnh tranh ông đề
ra lý luận về chuỗi giá trị là nguồn gốc cơ bản của lợi thế cạnh tranh. Porter
vận dụng lý luận về lợi thế cạnh tranh trong nước Mỹ vào lĩnh vực cạnh tranh
quốc tế và đề ra “Lý thuyết hình kim cương”, còn gọi là lý thuyết về lợi thế
cạnh tranh.
Trong tác phẩm lợi thế cạnh tranh quốc gia, Porter nhấn mạnh đến sự
khác nhau giữa lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh. Ông cho rằng, lợi thế so
sánh được quyết định bởi giá cả thị trường, còn lợi thế cạnh tranh được quyết
định bởi nhiều yếu tố khác như tổ chức ngành, trình độ nhân lực, khoa học
công nghệ, khả năng sáng tạo và tận dụng các cơ hội. Do đó để nâng cao năng
lực cạnh tranh ông đề nghị cần cải thiện môi trường doanh nghiệp và đề ra các
giai đoạn tham gia cạnh tranh. Theo ông có 4 giai đoạn: chạy đua các yếu tố
sản xuất; chạy đua đầu tư; chạy đua sáng tạo; chạy đua của cải tích luỹ tư bản.
Lý luận cạnh tranh của Porter đã đáp ứng được các đòi hỏi của thời đại,
vào lúc các quốc gia đều hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia cạnh
tranh. Lý luận đó giúp các nước đưa ra chiến lược cạnh tranh phù hợp với
điều kiện của mình. Đồng thời chỉ ra các giải pháp chính sách của chính phủ
hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát huy lợi thế so sánh để nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình.
1.1.2.3 Sự thay đổi quan điểm cạnh tranh trong điều kiện toàn cầu hoá
13
Sự thay đổi các quan điểm về cạnh tranh kinh tế xuất phát từ ba tiền đề
cơ bản. Thứ nhất, thế giới đã chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền
kinh tế tri thức, và toàn cầu hoá kinh tế thì cần phải tìm hiểu các quy định và
luật chơi về cạnh tranh trong nền kinh tế tri thức. Thứ hai, xét từ góc nhìn
thương mại quốc tế, cân tìm hiểu cơ sở lý luận cạnh tranh trong từng quốc gia,
đặc biệt là các nước công nghiệp trong hoạt động thương mại. Thực tế cho
thấy, các nước công nghiệp phát triển không căn cứ vào nguyên tắc lợi thế so
sánh như trước đây để hoạch định chính sách thương mại quốc tế mà xuất
phát từ nhu cầu tăng khả năng cạnh tranh cảu họ để chuyển sang cạnh tranh
nhờ vào các quy chế. Thứ ba, trong phần này cũng chú ý tới tính tất yếu của
hợp tác kinh tế để đổi mới quan điểm từ cạnh tranh đối kháng sang cạnh tranh
có tính hợp tác.
1.1.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia:
1.1.3.1 Cơ sở chung
Hiện tại đang có hai phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh quốc
gia được áp dụng rộng rãi. Phương pháp thứ nhất do Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) thiết lập trong bản Báo cáo cạnh tranh toàn cầu. Phương pháp thứ hai
do Viện quốc tế về quản lý và phát triển (IMD) đưa ra trong cuốn Niên giám
cạnh tranh thế giới. Cả hai phương pháp đều do một số giáo sư Đại học Tổng
hợp Havard như Michael E. Porter, Jeffrey D. Sachs, Andrew M.Warner và
các chuyên gia của WEF như Peter K.Cornelius, Mache Levinson và Klaus
Schwab xây dựng.
Cơ sở của các phương pháp đánh giá được xác định bởi năng suất. GDP
bình quân đầu người được xem là thước đo chung nhất về năng suất của quốc
gia, có quan hệ dài hạn với mức sống của người dân và sự thịnh vượng của
14
quốc gia. Đó là thước đo tổng hợp nhất, phù hợp nhất và thể hiện rõ nhất năng
lực cạnh tranh của quốc gia.
Trong luận văn sử dụng phương pháp đánh giá của Diễn đàn Kinh tế
thế giới vì WEF là một tổ chức phi chính phủ rất có uy tín về tính khách quan
và độ xác thực - phối hợp với Đại học Harvard - chuyên nghiên cứu và xếp
hạng năng lực cạnh tranh của các quốc gia toàn cầu dựa trên một phương
pháp luận đã được áp dụng và luôn được hoàn thiện từ 1979 đến nay, kết hợp
tính toán các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô được tham khảo và tính toán từ kho dữ
liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và các tổ chức,
hiệp hội quốc tế khác. Phần quan trọng còn lại là kết quả phỏng vấn, khảo sát
ý kiến của hàng nghìn công ty lớn trên thế giới, các doanh nghiệp có qui mô
toàn cầu về những tiêu chí khó định lượng hoá bằng mô hình toán học.
Cách tiếp cận của WEF thường được các nhà hoạch định chính sách
quan tâm vì nó mang tính khái quát, tổng thể khá cao và tương đối rõ ràng, dễ
hiểu. Hơn nữa, cách tiếp cận này cũng thể hiện được sự gắn kết môi trường
kinh tế chung với các hoạt động kinh doanh và đây là điều quan trọng xét từ
góc độ các nhà kinh doanh. Đặc biệt, quan điểm nhìn nhận tổng thể tính cạnh
tranh cấp độ quốc gia của WEF có được sự “đồng thuận” quốc tế khá cao.
1.1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia:
Theo WEF, năng lực cạnh tranh quốc gia được xác định bởi tám nhóm
chỉ tiêu sau:
1 - Thể chế kinh tế - chính trị;
2 - Vai trò của chính phủ;
3 - Năng lực tài chính - tiền tệ;
4 - Mức độ mở cửa nền kinh tế, bao gồm mở cửa thương mại và đầu tư;
15
5 - Kết cấu hạ tầng;
6 - Trình độ công nghệ;
7 - Lực lượng lao động;
8 - Trình độ quản lý doanh nghiệp;
8 nhóm chỉ tiêu quan trọng trên bao gồm nhiều tiêu chí được định
lượng hoá và so sánh với nhau. Tuỳ theo tầm quan trọng ở từng giai đoạn phát
triển mỗi nhóm có một trọng số nhất định. Trong Chương 2 của Luận văn sẽ
đi sâu vào phân tích cụ thể hơn từng chỉ tiêu năng lực cạnh tranh, những mặt
mạnh cần phát huy và những mặt yếu cần khắc phục của các chỉ tiêu trong
nền kinh tế Việt Nam.
1.2. Kinh nghiệm quốc tế trong việc phát hiện và tận dụng các lợi thế
cạnh tranh quốc gia
1.2.1. Kinh nghiệm mở cửa, hội nhập và nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế một số nước trong khu vực:
1.2.1.1 Kinh nghiệm mở cửa, hội nhập và nâng cao sức cạnh tranh
của một số ngành công nghiệp Nhật Bản
Chúng ta đều biết rằng nền kinh tế Nhật Bản phát triển qua nhiều thời
kỳ với nhiều mô hình tăng trưởng khác nhau. Trong hơn 100 năm của quá
trình phát triển tại Nhật Bản, giai đoạn 1955 - 1973 là một thời kỳ rất đặc biệt.
Kinh tế mỗi năm tăng trưởng bình quân 10% và thành quả này kéo dài trong
khoảng thời gian gần 20 năm. Các nhà nghiên cứu gọi đó là giai đoạn “thần
kỳ” hoặc là “thời đại phát triển cao độ”. Chính vì vậy, vào thời kỳ những năm
70, Nhật Bản được gọi là “siêu cường về kinh tế” và trở thành một trong
những trung tâm kinh tế lớn.
16
Trước khi bước vào giai đoạn phát triển “thần kỳ” này, Nhật Bản đứng
trước một tình huống quốc tế giống như Việt Nam hiện nay là phải có một
chiến lược như thế nào trước trao lưu chung của thế giới là mở cửa, hội nhập
vào nền
kinh tế thế giới trong khi nền kinh tế nước mình còn non yếu.
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, với những nỗ lực của Nhật Bản và
sự trợ giúp của Mỹ, kinh tế Nhật Bản dần dần ổn định từ năm 1949, sau đó
sức sản xuất phục hồi nhanh chóng nhờ nhu cầu đặc biệt từ chiến tranh Triều
Tiên (1959 - 1953). Đến năm 1955, Nhật Bản xem như đã khắc phục được
những hậu quả của chiến tranh và kinh tế đã thực sự hồi phục. Tuy nhiên, dù
kinh tế đã được ổn định và sức phát triển đã được phục hồi, kinh tế Nhật Bản
vào giữa thập niên 1950 vẫn còn rất non kém so với các nước Âu - Mỹ. Xuất
khẩu của Nhật Bản, ngoài tàu thuyền thì có các mặt hàng chủ yếu là từ những
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thô sơ: vải, áo quần, giày dép mà phẩm
chất chưa có uy tín trên thị trường thế giới. Tại thị trường Mỹ vào thời điểm
đó, các sản phẩm sản xuất từ Nhật Bản được coi là biểu tượng cho các sản
phẩm có phẩm chất kém.
Trong bối cảnh kinh tế như vậy, Nhật Bản phải đối mặt với vấn đề nên
gia nhập các tổ chức thương mại, kinh tế thế giới như thế nào? Nhật Bản là
nước nghèo tài nguyên thiên nhiên vào loại nhất thế giới nên ngoại thương có
vai trò vô cùng quan trọng cho kinh tế phát triển. Thị trường trong nước tuy
không nhỏ, nhưng để đạt hiệu quả quy mô kinh tế phải cần đến thị trường
nước ngoài. Rõ ràng việc gia nhập các tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế sẽ
mang lại cơ hội tiếp cận thị trường thế giới rộng lớn. Song, việc gia nhập vào
các tổ chức kinh tế quốc tế lại đi kèm theo những nghĩa vụ phải mở cửa thị
trường nước mình đối với hàng ngoại và hoạt động đầu tư của các công ty
17
nước ngoài trong khi trình độ phát triển kinh tế của Nhật Bản còn non yếu so
với các nước Âu - Mỹ. Chính phủ Nhật Bản thấy rằng không có con đường
nào khác, chỉ có cách là chấp nhận hội nhập và đặt kế hoạch giảm bớt thách
thức, đồng thời đưa ra chiến lược phát triển các ngành công nghiệp Nhật Bản
có tiềm năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Chiến lược mở cửa, hội nhập,
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Nhật Bản gồm ba bộ phận không thể
tách rời là:
Thứ nhất, việc mở cửa phải đảm bảo để hàng nhập không cản trở sự
phát triển của các ngành công nghiệp trong nước.
Thứ hai, việc mở cửa phải kết hợp với chiến lược, chính sách làm sao
cho các ngành công nghiệp ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường trong
nước và thế giới.
Thứ ba, để hội nhập có hiệu quả, tranh thủ được nhiều cơ hội của thị
trường thế giới phải có chiến lược và tổ chức đẩy mạnh xuất khẩu.
Sự phát triển kinh tế “thần kỳ” và sự tăng cường sức cạnh tranh quốc tế
của một số ngành công nghiệp chủ yếu của Nhật Bản trong thời kỳ này chứng
minh sự thành công của chiến lược mở cửa, hội nhập nêu trên.
1.2.1.2 Kinh nghiệm phát triển thị trường cho xuất khẩu hàng hoá
của Trung Quốc:
Để thực hiện công nghiệp hoá theo hướng mở cửa trong điều kiện của
nền kinh tế chuyển đổi, bên cạnh việc có một thị trường nội địa khổng lồ (với
dân số đông nhất thế giới, diện tích lãnh thổ lớn thứ hai thế giới, qui mô sản
lượng sản xuất của nhiều sản phẩm đứng hàng đầu thế giới), Trung Quốc
cũng rất quan tâm đến việc khai thác và mở rộng thị trường quốc tế để đẩy
mạnh xuất khẩu.
18
Những thành tựu trong phát triển kinh tế và phát triển ngoại thương sau
hơn hai thập kỷ đổi mới, cải cách đã đưa nền kinh tế Trung Quốc lên hàng thứ
4 trên thế giới, sau Hoa Kỳ, Nhật Bản, EU và với giá trị xuất khẩu đứng hàng
thứ 8 trên thế giới (chiếm 3,95% tổng giá trị xuất khẩu của thế giới năm
2000), hàng đầu trong số các nước đang phát triển (10,72% tổng giá trị xuất
khẩu của các nước đang phát triển).
Trong hơn hai thập kỷ qua, những vấn đề quan trọng làm tăng mức xuất
khẩu ra thị trường thế giới của Trung Quốc, bao gồm:
Trung Quốc đã lựa chọn và thực hiện một chiến lược khai thác thị
trường toàn cầu một cách hợp lý theo hai hướng: tìm kiếm thị trường xuất
khẩu và tăng mức xuất khẩu trên các thị trường hiện có. Trong chiến lược
khai thác thị trường toàn cầu, Trung Quốc phân chia thị trường thế giới theo
các tiêu thức khác nhau, như:
+ Theo trình độ phát triển, Trung Quốc chia thị trường thế giới thành 3
nhóm: nhóm A gồm các nước công nghiệp phát triển; nhóm B gồm các nền
kinh tế mới công nghiệp hoá (nhóm NIEs) và các nước SNG, Đông Âu, Nam
Phi, Ixrael; Nhóm C gồm những nước còn lại.
+ Theo dung lượng thị trường, Trung Quốc chia thị trường thế giới
thành 2 cấp: cấp 1 gồm các nước có dung lượng thị trường lớn như Bắc Mỹ,
Tây Âu, Đông Á và Đông Nam Á; cấp 2 gồm các nước tuy có dung lượng
nhỏ nhưng có tiềm năng lớn như các nước SNG và Đông Âu, Trung Đông,
Australia và Niu Di lân, Mỹ la tinh, châu Phi.
+ Theo vị trí địa lý, hàng hoá của Trung Quốc chủ yếu được đưa sang 6
khu vực thị trường là: Hồng Kông, Ma Cao; Nhật Bản; Bắc Mỹ; Tây Âu;
SNG và Đông Âu; Đông Nam Á.
19
Việc phân loại thị trường thế giới theo các tiêu thức khác nhau như trên
đã giúp cho Trung Quốc đề ra kế sách khai thác thị trường một cách có hiẹu
quả hơn. Ngay từ khi mới mở cửa, Trung Quốc đã chủ trương tăng cường
quan hệ buôn bán với các nước và vùng lãnh thổ có trình độ phát triển cao về
công nghiệp do các thị trường này có nhiều cơ hội và điều kiện mậu dịch tốt.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu mở cửa, các thị trường Hồng Kông và Ma
Cao là những cơ sở tái xuất khẩu chủ yếu của Trung Quốc sang Đài Loan và
sang các thị trường Hoa Kỳ và Châu Âu. Sau giai đoạn này, các thị trường
Hoa Kỳ và Tây Âu đã trở thành những thị trường xuất khẩu trực tiếp chủ yếu
của Trung Quốc.
Bên cạnh các chiến lược khai thác thị trường cơ bản, xuất phát từ hoàn
cảnh kinh tế thị trường được triển khai muộn, cuộc tranh giành thị trường thế
giới đã bước sang giai đoạn “bổ khuyết cuối cùng”, Trung Quốc còn thực hiện
các chiến lược “bổ khuyết’ để tìm cho mình một phương hướng thị trường
thích hợp. Chiến lược này dựa trên luận điểm cơ bản là ở kỳ thị trường nào
cũng đều có những “mảng trắng”, ở đó thị trường chưa được khai thác, hoặc
chưa được chiếm lĩnh một cách có hiệu quả. Từ đó, theo thuyết “bổ khuyết”,
Trung Quốc phát triển thị trường mặt hàng mới cho xuất khẩu hàng hoá của
mình theo cả hai hướng: mở rộng thị trường xuất khẩu hiện tại trên cơ sở
những hàng hoá có sức cạnh tranh cao của Trung Quốc và những hàng hoá
mới do Trung Quốc sản xuất ra.
Song song với việc thực hiện chiến lược phát triển thị trường đúng đắn
như trên, Trung Quốc còn đặc biệt chú trọng đến các chính sách và chiến lược
như: chiến lược phát triển sản phẩm xuất khẩu; áp dụng chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp FDI tăng cường xuất khẩu; áp dụng chính sách tỷ giá
và kiểm soát ngoại hối hợp lý. Ngoài ra, các chính sách phát triển khác của
Trung Quốc cũng được xem là yếu tố quan trọng trong việc phát triển thị
20
trường xuất khẩu mới, như: Thả nổi giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu. Giá thu
mua hàng xuất khẩu được bên mua và bên bán thoả thuận theo giá thị trường.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm về chính sách cạnh tranh cho Việt Nam
Nghiên cứu chiến lược mở cửa, hội nhập, nâng cao sức cạnh tranh của
một số ngành công nghiệp Nhật Bản và từ thực tiễn thành công của Trung
Quốc trong việc làm tăng mức xuất khẩu ra thị trường thế giới trong hơn hai
thập kỷ qua, có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho chúng ta tham khảo như
sau:
1.2.2.1 Kinh nghiệm từ Nhật Bản:
Một là, từng bước thực hiện “tự do hoá mậu dịch” và bảo hộ sản xuất
để tăng dần sức cạnh tranh của các ngành công nghiệp: Từng bước tự do hoá
mậu dịch liên quan tới việc Nhật Bản gia nhập GATT (Hiệp định chung về
thuế quan và mậu dịch); Điều kiện để gia nhập OECD (Tổ chức hợp tác và
phát triển kinh tế) là không được hạn chế FDI của xí nghiệp nước ngoài vì
vậy Nhật đã xin hoãn chương trình tự do hoá, song song với việc trì hoãn tự
do hoá tư bản và để nhanh chóng tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
và để đối phó với khả năng các công ty xuyên quốc gia đầu tư vào Nhật Bản
theo chương trình tự do hoá tư bản, Bộ Công nghiệp và Thương mại quốc tế
(MITI) đã tích cực khuyến khích, sắp xếp các công ty trong nước tạo thành
các công ty lớn đủ sức cạnh tranh với các công ty xuyên quốc gia sau khi mở
cửa thị trường đầu tư ra nước ngoài.
Hai là, xây dựng chiến lược phát triển và tăng sức cạnh tranh của các
ngành công nghiệp: Nhật Bản đã sớm nhận thức rằng, để mở cửa, hội nhập có
hiệu quả phải tăng sức mạnh cạnh tranh quốc tế của các ngành công nghiệp và
của các công ty trong nước. Vì vậy, song song với chiến lược, kế hoạch phát
21
triển công nghiệp nhằm xây dựng ngành này ngày càng có sức cạnh tranh trên
thị trường nội địa và thị trường thế giới.
Ba là, xây dựng chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá công nghiệp:
Từ lâu Nhật Bản đã nhận thức được vai trò quan trọng của xuất khẩu trong sự
phát triển kinh tế. Ở Nhật Bản trong mấy chục năm qua nền kinh tế thành
công hầu hết là nhờ sự phát triển mạnh mẽ của các ngành công nghiệp hướng
vào xuất khẩu. Cùng với chính sách đẩy mạnh xuất khẩu của chính phủ là sự
tồn tại và lớn mạnh của các Tổng công ty thương mại đã góp phần rất lớn vào
việc đẩy mạnh xuất khẩu của Nhật Bản.
Cuối cùng, sự thành công trong phát triển kinh tế nâng cao sức cạnh
tranh của các ngành công nghiệp Nhật Bản là do việc thực hiện các chiến lược
trên có hiệu quả cao nhờ huy động được sức mạnh tổng hợp, thể hiện ở năng
lực, phẩm chất của công chức nhà nước, của lãnh đạo doanh nghiệp, ở sự phối
hợp chặt chẽ giữa chính phủ với doanh nghiệp và trí thức trong việc định ra
chiến lược, ở sức mạnh của các tập đoan kinh tế.
1.2.2.2 Kinh nghiệm từ Trung Quốc:
Một là, Trung Quốc đã lựa chọn và thực hiện một chiến lược khai thác
thị trường toàn cầu một cách hợp lý theo hai hướng: tìm kiếm thị trường xuất
khẩu và tăng mức xuất khẩu trên các thị trường hiện có. Trong chiến lược
khai thác thị trường toàn cầu, Trung Quốc phân chia thị trường thế giới theo
các tiêu thức khác nhau, như: Theo trình độ phát triển; Theo dung lượng thị
trường; Theo vị trí địa lý. Trung Quốc còn thực hiện các chiến lược “thị
trường bổ khuyết’ để tìm cho mình một phương hướng thị trường thích hợp.
Hai là, kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc khuyến khích các
doanh nghiệp FDI tăng cường xuất khẩu cho thấy cần thực hiện chính sách
thu hút mạnh đầu tư nước ngoài cùng với chính sách khuyến khích các doanh
22
nghiệp FDI đẩy mạnh xuất khẩu. Các doanh nghiệp FDI thường là các công ty
đa quốc gia, họ có mạng lưới sản xuất và phân phối tiêu thụ khắp toàn cầu.
Do đó, các doanh nghiệp FDI có khả năng xuất khẩu hàng hoá đến cả những
thị trường mà Chính phủ của nước nhận đầu tư chưa thực hiện những đàm
phán về mở cửa thị trường, hay khó có khả năng thâm nhập do những qui
định chặt chẽ của nước nhập khẩu về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá; xuất xứ
hàng hoá hay mức độ tín nhiệm của người tiêu dùng về nhãn mác hàng hoá
nổi tiếng.
Ba là, kinh nghiệm điều chỉnh tỷ giá đồng nội tệ so với các ngoại tệ để
đẩy mạnh xuất khẩu của Trung Quốc được xem là một điển hình trong nghệ
thuật “chớp thời cơ”, nó có thể là bài học quý giá đối với Việt Nam. Tuy
nhiên, trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay, việc áp dụng biện pháp
này cần phải hết sức thận trọng. Bởi vì: (a) năng lực sản xuất của Việt Nam
chưa tạo ra sự dư thừa về nhiều hàng hoá để buộc phải phá giá đồng nội tệ để
tăng khả năng xuất khẩu; (b) nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế vẫn khá lớn
và hơn nữa là nhập khẩu phục vụ sản xuất để xuất khẩu là chủ yếu, nghĩa là
nếu phá giá đồng nội tệ để đẩy mạnh xuất khẩu thì có thể làm giảm khả năng
tài chính của nhiều doanh nghiệp sản xuất đang dựa vào nhập khẩu và còn
mang lại bất lợi cho xuất khẩu trong gia đoạn tiếp theo.
Đối với Việt Nam, mặc dù đã qua gần hai thập kỷ đổi mới và phát triển
nền kinh tế hướng về xuất khẩu, nhưng thị trường xuất khẩu của Việt Nam, về
cơ bản vẫn là các thị trường nhập khẩu các sản phẩm nguyên liệu thô, sản
phẩm sử dụng nhiều lao động. Hơn nữa, các nước nhập khẩu nhiều khi vẫn
viện dẫn những “điều khoản” thương mại của WTO hay của các Hiệp định
thương mại khu vực để đưa ra những phân biệt đối xử bất lợi cho hàng hoá
của Việt Nam. Do vậy, Việt Nam bên cạnh việc tích cực tiến hành các cuộc
23
đàm phán thương mại song phương, cần phải đẩy nhanh tiến trình đàm phán
để gia nhập WTO.
Kinh nghiệm của các nước trên đây cho thấy, việc lựa chọn đúng giai
đoạn phát triển của nền kinh tế để tích cực tham gia đàm phán song phương,
hoặc đa phương để trở thành thành viên của tổ chức thương mại khu vực hay
thế giới là hết sức quan trọng. Đồng thời, trong giai đoạn thực hiện chính sách
tự do thương mại, hay tự do hoá nhập khẩu cần phải có lịch trình cụ thể phù
hợp với các giai đoạn chuyển dịch về cơ cấu kinh tế, cơ cấu các ngành công
nghiệp trong nước.
Các nền kinh tế trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá, các
sản phẩm xuất khẩu chủ yếu thường là các sản phẩm nguyên liệu thô và sản
phẩm sử dụng nhiều lao động, trong khi các nước này lại có nhu cầu nhập
khẩu cao về máy móc, thiết bị và công nghệ tiên tiến để phục vụ cho quá trình
công nghiệp hoá. Xét về lợi thế so sánh trong xuất khẩu và hiệu quả nhập
khẩu cũng như tính hiệu quả trong quan hệ thương mại (theo nguyên tắc “có
đi, có lại”) thì thị trường của các nước công nghiệp phát triển có vị trí hết sức
quan trọng đối với cả xuất khẩu và nhập khẩu của các nước đang thực hiện
công nghiệp hoá. Sau đó, khi trình độ phát triển công nghiệp ở các nước công
nghiệp muộn đã được nâng lên, thì sản phẩm xuất khẩu cũng sẽ thay đổi
chuyển dần sang các sản phẩm sử dụng nhiều vốn và công nghệ. Kinh nghiệm
của Trung Quốc về thực hiện chiến lược khai thác thị trường toàn cầu và
chiến lược phát triển sản phẩm là bài học quý đối với nền kinh tế Việt Nam
trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hướng về xuất khẩu hiện nay.
24
Chương 2:
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NỀN KINH TẾ
VIỆT NAM VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
2.1 . Tổng quan về năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thể hiện cụ thể ở khả năng cạnh
tranh của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường. Khả năng cạnh tranh của hàng
hoá và dịch vụ phụ thuộc vào sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp tạo ra hàng hoá đó. Đến lượt mình, hoạt động của doanh nghiệp lại
phụ thuộc vào luật lệ, thể chế và điều hành của Chính phủ, vào môi trường
kinh tế vĩ mô, tức là phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh quốc gia. Mục tiêu
cuối cùng là phải tạo ra nhiều hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh
cao, tuy nhiên những giải pháp quan trọng cần tháo gỡ là nâng cao năng lực
cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Xét về các chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia, theo đánh giá của WEF
bắt đầu xếp hạng kinh tế Việt Nam từ năm 1997 và liên tục xếp hạng cho đến
nay, một số nền kinh tế khác không đủ dữ liệu nên không thể xếp hạng được
mặc dù WEF có nguyện vọng xếp hạng tất cả các nền kinh tế trên hành tinh
này nhằm đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. Mặc dù sau những năm đổi
mới và mở cửa nền kinh tế nước ta đã có nhiều tiến bộ, nhưng so với các
nước, năng lực cạnh tranh quốc gia của Việt Nam còn thấp kém và chậm
được cải thiện. Bảng 2.1 sau đây cho thấy vị trí xếp hạng của Việt Nam qua
các năm cho đến nay như sau:
25
Bảng 2.1: Vị trí xếp hạng của Việt Nam
Năm
1997
1998
1999
2001
2002
2003
2004
2005
Xếp hạng/
Tổng số
49/53
39/53
48/53
60/75
65/80
60/102
77/104
81/117
Khoảng
cách đến
nước thấp
nhât
4
14
5
15
15
42
27
36
Nguồn: Diễn đàn Kinh tế Thế giới 2005
Vị trí xếp hạng không trực tiếp cho thông tin chính xác về cao hay thấp
vì còn phụ thuộc vào số nền kinh tế được xếp hạng, nói Việt Nam được xếp
hạng 39 mà không nói trên 53 nước dễ gây hiểu lầm rằng vị trí đó cao hơn
hiện nay. Vì vậy, hàng 3 nêu khoảng cách giữa Việt Nam và cuối cùng là
thước đo chính xác hơn. Năm 1997 Việt Nam chỉ cách nước cuối có 4 bậc,
đến năm 1998 do nhiều nước châu Á lâm vào khủng hoảng tài chính trầm
trọng bị xếp tụt hạng mạnh nên vị trí của Việt Nam được nâng lên, đạt 39/53,
khoảng cách là 14. Đến năm 1999, các nước trải qua khủng hoảng đã bình ổn
nhanh chóng, vị trí Việt Nam lại trở về 48/53, khoảng cách lại còn 5 bậc.
Trong hai năm sau vị trí là 60/75 và 65/80 vẫn ổn định tương đối do có thêm
12 nước (2000) và 27 nước (2002), khoảng cách đến nước cuối cùng vẫn là
15. Vị trí của Việt Nam được xếp cao nhất trong năm 2003, khoảng cách đạt
đến mức 42 nước so với nước cuối cùng, phản ánh những tiến bộ về Luật
doanh nghiệp, bỏ giấy phép con của Chính phủ Việt Nam (các xếp hạng có độ
trễ ít nhất là một năm do việc thu nhận phỏng vấn của doanh nghiệp, bản thân
doanh nghiệp cũng phải có thời gian để thể nghiệm và đánh giá các số liệu