ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
MA THỊ VÂN KIỀU
VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
ĐÓNG, HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS LÊ VĂN BÍNH
HÀ NỘI- 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Ma Thị Vân Kiều
MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ........................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu .................................................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3
6. Bố cục của luận văn.................................................................................... 4
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ
ĐÓNG, HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI ......................................... 5
1.1.
Khái quát chung về bảo hiểm xã hội .............................................. 5
1.1.1.
Khái niệm chung bảo hiểm xã hội ..................................................... 5
1.1.2.
Những nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội .................................... 6
1.1.3.
Đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội......................................................... 11
1.2.
Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo hiểm
xã hội ở Việt Nam và các yếu tố cấu thành .................................. 11
1.2.1.
Khái niệm và các dấu hiệu của vi phạm pháp luật ........................... 11
1.2.2.
Cấu thành của vi phạm pháp luật .................................................... 13
1.2.3.
Các loại vi phạm pháp luật .............................................................. 15
1.2.4.
Khái niệm vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo
hiểm xã hội ..................................................................................... 16
1.2.5.
Phân loại vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo
hiểm xã hội ..................................................................................... 16
1.2.6.
Các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ......................................................... 17
1.3.
Sự điều chỉnh của pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực đóng, hưởng bảo hiểm xã hội........................ 20
1.3.1.
Về hình thức xử lý .......................................................................... 20
1.3.2.
Về nguyên tắc xử lý ........................................................................ 22
1.3.3.
Về thẩm quyền và thủ tục xử lý....................................................... 24
1.3.4.
Về thời hiệu xử lý ........................................................................... 25
Chương 2: VI PHẠM PHÁP LUẬT VỀ ĐÓNG, HƯỞNG BẢO
HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ..................................................... 27
2.1.
Các hành vi vi phạm pháp luật về đóng, hưởng Bảo hiểm
xã hội ở Việt Nam.......................................................................... 27
2.1.1.
Các hành vi vi phạm pháp luật về đóng Bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam ........................................................................................ 27
2.1.2.
Các hành vi vi phạm pháp luật về hưởng Bảo hiểm xã hội ở
Việt Nam ........................................................................................ 48
2.2.
Hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả vi
phạm pháp luật về đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ....................... 56
2.2.1.
Các hình thức xử phạt chính............................................................ 57
2.2.2.
Hình thức xử phạt bổ sung .............................................................. 62
2.2.3.
Biện pháp khắc phục hậu quả .......................................................... 62
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HẠN CHẾ VI PHẠM
PHÁP LUẬT VỀ ĐÓNG, HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM ................................................................................ 66
3.1.
Nhận xét chung thực trạng vi phạm pháp luật về đóng,
hưởng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam ............................................. 66
3.2.
Nguyên nhân của vi phạm pháp luật về đóng, hưởng Bảo
hiểm xã hội ở Việt Nam ................................................................ 67
3.2.1.
Nguyên nhân từ phía cơ quan Nhà nước ......................................... 67
3.2.2.
Nguyên nhân từ phía người sử dụng lao động ................................. 71
3.2.3.
Nguyên nhân từ phía người lao động .............................................. 73
3.2.4.
Nguyên nhân từ phía tổ chức Cơng đồn......................................... 74
3.3.
Một số kiến nghị nhằm hạn chế vi phạm pháp luật về
đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam ................................... 75
3.3.1.
Về các quy định của pháp luật......................................................... 75
3.3.2.
Về tổ chức và thực hiện .................................................................. 78
KẾT LUẬN ................................................................................................. 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 85
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BHXH
: Bảo hiểm xã hội
BHYT
: Bảo hiểm y tế
BHTN
: Bảo hiểm tự nguyện
BLHS
: Bộ luật Hình sự
CP
: Chính Phủ
DN
: Doanh nghiệp
HĐLĐ
: Hợp đồng lao động
KCN
: Khu công nghiệp
NSDLĐ
: Người sử dụng lao động
NLĐ
: Người lao động
Tp. HCM
: Thành phố Hồ Chí Minh
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
UBND
: Ủy ban nhân dân
VPPL
: Vi phạm pháp luật
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp phần
bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động ổn định chính trị, trật tự an
tồn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc”. (Trích
Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị)
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa
trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có
sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an tồn đời sống cho
người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an tồn xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay tình trạng vi phạm pháp luật về BHXH, trong đó
có vi phạm pháp luật về đóng, hưởng BHXH xảy ra rất phổ biến và ngày càng
trở thành mối quan tâm lớn của xã hội. Trong đó bao gồm rất nhiều vi phạm,
từ phía người sử dụng lao động, phía người lao động, và phía cơ quan bảo
hiểm, cơ quan, tổ chức khác. Ví dụ như các doanh nghiệp khơng đóng, đóng
khơng đúng thời hạn quy định, đóng khơng đúng mức quy định, đóng khơng
đủ số người thuộc diện tham gia BHXH; người lao động thỏa thuận với người
sử dụng lao động không tham gia BHXH; cơ quan bảo hiểm cố tình gây khó
khăn, cản trở việc hưởng các chế độ BHXH của người lao động,... Các vi
phạm đó ảnh hưởng sâu sắc tới vấn đề an sinh xã hội, làm giảm uy tín của
người dân tới chế độ bảo hiểm. Hơn nữa, các chế tài xử phạt những vi phạm
này còn ở mức rất nhẹ chưa mang tính chất răn đe để giảm thiểu vi phạm.
Xuất phát từ thực trạng đó, cùng với niềm đam mê khoa học, tôi đã lựa
chọn nghiên cứu đề tài: “Vi phạm pháp luật về đóng, hưởng bảo hiểm xã hội
ở Việt Nam”.
1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Với lĩnh vực BHXH, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu của nhiều
tác giả, có thể kể đến như: Lê Thị Hồi Thu (2003)“Bảo hiểm xã hội trong hệ
thống an sinh xã hội ở Việt Nam”, Tạp chí khoa học (03), tr. 48-55,
ĐHQGHN; Nguyễn Thị Chính (2010), “Hồn thiện hệ thống tổ chức và hoạt
động chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam” Luận văn Tiến sỹ,
người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Văn Định; PGS.TS. Bùi Huy Thảo, Hà
Nội; Hà Văn Chi (2005), “Hoàn thiện cơ chế xét duyệt, thẩm định và quản lý
hồ sơ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội”, Tiểu đề án, Hà Nội.
Bên cạnh đó, đề tài về vi phạm pháp luật cũng được nhiều nhà khoa
học bỏ cơng tìm hiểu như: Bùi Xn Phái (2007), “Vi phạm pháp luật, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, người
hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Thái Vĩnh Thắng, PGS. TSKH. Lê Cảm, Hà
Nội; “Bàn về vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý”, Tạp chí Tồ án
nhân dân tối cao, (18/2007), tr:2-8, Hà Nội;…
Vấn đề vi phạm pháp luật BHXH, đặc biệt là vi phạm pháp luật về
đóng, hưởng BHXH ở Việt Nam đã có một số cơng trình cụ thể đề cập đến
nó, ví dụ như: Phạm Đức Cường (2012), “Tăng cường các giải pháp xử lý nợ
đọng, trốn đóng BHXH”, Tạp chí BHXH, (9A), tr16-18; Vũ Ngọc Lân (2012),
“Nợ BHXH dưới góc nhìn từ “cái gốc””, Tạp chí BHXH, (9B), tr 30-31;
Nguyễn Văn Dụng (2013), “Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra vi phạm
pháp luật về BHXH”, Tạp chí BHXH, (1A), tr 24-26;...Các vi phạm này xảy
ra khá phổ biến trong thực tiễn và được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm chú
ý.
Trên cơ sở đó, tơi hướng cơng trình của mình tới đề tài cịn khá mới mẻ
và nóng hổi này hằng mong đóng góp một phần nhỏ bé cơng sức nghiên cứu
vào kho dữ liệu pháp lý Việt Nam.
2
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích chủ yếu của việc nghiên cứu, tìm hiểu các quy định về vi
phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH cụ thể là:
Hệ thống hóa và góp phần bổ sung hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng các quy định về vi phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH;
Tìm hiểu nội dung các quy định về vi phạm pháp luật trong đóng,
hưởng BHXH và thực tiễn áp dụng;
Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các quy định về vi
phạm pháp luật trong đóng, hưởng BHXH;
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn là tập trung đi sâu,
tìm hiểu nội dung các quy định thực định về vi phạm pháp luật trong đóng,
hưởng BHXH, các văn bản hướng dẫn thi hành và thực tiễn áp dụng trong
phạm vi cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên cứu
luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin;
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
Phương pháp luận giải, phương pháp phân tích, phương pháp lịch
sử,...được sử dụng trong Chương 1 khi nghiên cứu một số vấn đề lý luận về vi
phạm pháp luật về đóng, hưởng BHXH ở Việt Nam;
Phương pháp phân tích, phương pháp so sánh luật học, phương pháp
đối chiếu,... được sử dụng trong Chương 2 khi nghiên cứu các quy định về vi
phạm pháp luật về đóng, hưởng BHXH ở Việt Nam;
Phương pháp bình luận, phương pháp tổng hợp, phương pháp quy
3
nạp,...được sử dụng trong Chương 3 khi nghiên cứu một số giải pháp nhằm
giảm thiểu vi phạm pháp luật về đóng, hưởng BHXH ở Việt Nam.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục, luận văn kết cấu gồm các chương sau:
Chương 1: Khái quát chung vi phạm pháp luật về đóng, hưởng bảo
hiểm xã hội
Chương 2: Vi phạm pháp luật về đóng, hưởng bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hạn chế vi phạm pháp luật về đóng,
hưởng bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
4
Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VI PHẠM PHÁP LUẬT
VỀ ĐÓNG, HƯỞNG BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội
1.1.1. Khái niệm chung bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế được bù đắp một phần thu nhập
cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa
trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có
sự bảo hộ của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho
người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
”Bảo hiểm xã hội là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước góp phần
bảo đảm ổn định đời sống cho người lao động ổn định chính trị, trật tự an
tồn xã hội, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ tổ quốc” (Trích
Chỉ thị số 15-CT/TW ngày 26/5/1997 của Bộ Chính trị)
Chính sách BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách kinh tế
và xã hội của Nhà nước, là những chủ trương, quan điểm, nguyên tắc BHXH
để giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến một tầng lớp đơng đảo người
lao động và các vấn đề kích thích phát triển kinh tế của từng thời kỳ. Trong
mỗi giai đoạn phát triển kinh tế khác nhau, chính sách BHXH được Nhà
nước đề ra và thực hiện phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế,
xã hội từng giai đoạn.
BHXH được thực hiện ở Việt Nam từ năm 1945 và đã trải qua nhiều
lần bổ sung, sửa đổi đặc biệt trong các năm 1961, 1985 và 1995. Ngày
29/06/2006, Quốc hội khóa XI tại kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật Bảo hiểm
xã hội gồm 11 chương, 141 điều. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày
5
01/01/2007; riêng đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện thì từ ngày 01/01/2008,
đối với bảo hiểm thất nghiệp thì từ ngày 01/01/2009.
1.1.2. Những nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội
BHXH là một hệ thống đa dạng và phức tạp với những nội dung khác
nhau. Tuy nhiên, có thể tập trung vào 4 nhóm nội dung cơ bản sau:
Đối tượng của BHXH
Đối tượng của BHXH là thu nhập của người lao động chứ không phải
bản thân người lao động. BHXH được hình thành để góp phần cân bằng thu
nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc
mất khả năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng. Còn đối
tượng đảm bảo của BHXH là người lao động và gia đình họ theo quy định của
pháp luật BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động, người sử
dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp.
Chủ thể trong quan hệ BHXH
Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mối quan hệ giữa
nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Khác với
bảo hiểm thương mại, trong BHXH, mối quan hệ này dựa trên quan hệ lao
động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được
BHXH. Ở đây cũng cần chú ý, ba bên trong BHXH khác với ba bên trong
quan hệ lao động. Nếu như trong quan hệ lao động, ba bên bao gồm Nhà
nước, người sử dụng lao động và người lao động, thì trong quan hệ BHXH ba
bên này chỉ là một bên tham gia BHXH.
Bên tham gia BHXH là bên có trách nhiệm đóng góp BHXH theo quy
định của pháp luật BHXH. Bên tham gia BHXH gồm có người lao động,
người sử dụng lao động và Nhà nước (trong một số trường hợp). Người lao
động tham gia BHXH để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của
số đông người lao động khác. Người sử dụng lao động có trách nhiệm phải
6
bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Khi tham gia BHXH,
người sử dụng lao động cịn vì lợi ích của chính họ. Ở đây người sử dụng lao
động cũng thực hiện san sẻ rủi ro giữa tập đoàn những người sử dụng lao
động, để bảo đảm cho q trình sản xuất của họ khơng bị ảnh hưởng khi phát
sinh nhu cầu BHXH của người lao động.
Nhà nước tham gia BHXH với hai tư cách. Thứ nhất, Nhà nước tham
gia với tư cách là người sử dụng các công chức và những người hưởng lương
từ ngân sách. Khi đó, Nhà nước phải tham gia đóng góp BHXH thơng qua
kinh phí từ ngân sách, với tỷ lệ đóng góp tương đương người sử dụng lao
động trong các doanh nghiệp. Thứ hai, Nhà nước tham gia BHXH với tư cách
là người bảo hộ cho các hoạt động của quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn,
và hỗ trợ cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra, Nhà
nước tham gia BHXH còn với tư cách chủ thể quản lý, định ra những chế độ,
chính sách, định hướng cho các hoạt động BHXH.
Bên BHXH, đó là bên nhận tiền đóng góp BHXH từ những người tham
gia BHXH. Bên BHXH thường là một số tổ chức (cơ quan) do Nhà nước lập
ra (ở một số nước có thể do tư nhân, tổ chức kinh tế – xã hội lập ra theo quy
định của pháp luật) và được Nhà nước bảo trợ, nhận sự đóng góp của người
lao động, người sử dụng lao động, lập nên quỹ BHXH theo quy định chặt chẽ
của pháp luật. Bên BHXH có trách nhiệm thực hiện chi trả trợ cấp cho bên
được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và có trách nhiệm quản lý và đầu tư cho
quỹ BHXH phát triển.
Bên được BHXH là bên được quyền nhận các loại trợ cấp khi phát sinh
những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do các loại sự kiện, rủi
ro được bảo hiểm gây ra. Trong BHXH, bên được BHXH là người lao động
tham gia BHXH và nhân thân của họ theo quy định của pháp luật, khi họ có
phát sinh nhu cầu được BHXH do pháp luật quy định. Trong kinh tế thị trường,
7
bên tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH (người lao động làm
việc độc lập, khơng có quan hệ lao động chẳng hạn). Đối với người lao động
độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là người được quyền hưởng
BHXH vì họ đóng phí BHXH để bảo hiểm cho chính họ. Giữa các bên có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi, trên cơ sở các
quy định của pháp luật (khác với bảo hiểm thương mại là trên cơ sở hợp đồng).
Nếu không thực hiện đúng các quy định về nghĩa vụ, trách nhiệm đóng góp
(của bên tham gia BHXH) cũng như trách nhiệm đảm bảo quyền lợi cho người
thụ hưởng (của bên nhận BHXH), thì đều là vi phạm pháp luật về BHXH.
Các chế độ BHXH
Các chế độ BHXH là hệ thống các quy định về mức hưởng của từng
trường hợp, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời hạn hưởng cho người lao
động khi họ gặp phải những rủi ro thuộc từng phạm vi bảo hiểm. Hiện nay
pháp luật BHXH của Việt Nam quy định có 5 chế độ, bao gồm: chế độ ốm
đau; chế độ thai sản; chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; chế độ tử
tuất; chế độ hưu trí.
Có thể nói, các chế độ là nội dung cốt lõi nhất của hệ thống BHXH, nó
thể hiện được vai trị và phạm vi trách nhiệm của BHXH đối với người lao
động khi họ tham gia BHXH. Trong các chế độ BHXH, quy định đối tượng
được thụ hưởng, các điều kiện hưởng BHXH, mức hưởng và thời hạn được
hưởng trợ cấp BHXH.
Trợ cấp BHXH là khoản tiền từ quỹ BHXH được bên BHXH (cơ
quan BHXH) chi trả cho mọi người được BHXH khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm và có đủ các
điều kiện quy định.
Quỹ BHXH
Quỹ BHXH là một trong những nội dung quan trọng của hệ thống
8
BHXH. Quỹ BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham
gia BHXH và các nguồn thu hợp pháp khác, hình thành một quỹ tiền tệ tập
trung, được sử dụng để chi trả cho những người được BHXH và gia đình họ
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc bị
mất việc làm hoặc bị chết.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự
phịng; nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện
hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn
tại và phát triển.
Quỹ BHXH được hình thành bởi nhiều nguồn khác nhau. Trước hết, đó
là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước.
Đây là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ. Thứ hai, là phần
tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức BHXH
chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lợi. Thứ ba, là phần nộp phạt của những
cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH. Ngồi ra, quỹ cịn có
các nguồn thu hợp pháp khác được pháp luật của mỗi nước quy định.
Theo mục đích của BHXH, quỹ BHXH phải đảm nhận chi những
khoản chủ yếu như: trả trợ cấp theo các chế độ BHXH (khoản chi này
chiếm tỷ trọng lớn nhất); chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên
nghiệp (tiền lương, đào tạo…) chi phí bảo đảm các cơ sở vật chất cần thiết
và chi phí quản lý khác.
Quản lý BHXH
Quản lý BHXH chung nhất, được hiểu là sự tác động của chủ thể quản
lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm
đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù
hợp với hệ thống quản lý chung của nền kinh tế. Quản lý BHXH cho thấy
phương thức quản lý BHXH và các cơ quan chức năng có nhiệm vụ quản lý
9
BHXH (bao gồm quản lý Nhà nước về BHXH và quản lý hoạt động sự nghiệp
BHXH). Do điều kiện kinh tế – xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau
nên hệ thống BHXH của các nước được xây dựng khác nhau và vì vậy khơng
có mơ hình tổ chức BHXH chung cho tất cả các nước. Tuy nhiên, dù có tổ
chức thế nào thì vẫn có hai nội dung quan trọng, đó là quản lý Nhà nước về
BHXH và quản lý các hoạt động sự nghiệp BHXH.
Quản lý Nhà nước về BHXH
BHXH là một chính sách xã hội của mỗi nước vì vậy phải có sự quản
lý các hoạt động BHXH. Quản lý Nhà nước về BHXH là một trong các hoạt
động quản lý đó. Quản lý Nhà nước về BHXH xuất phát từ chức năng xã hội
của Nhà nước. Quản lý Nhà nước về BHXH được thể hiện thông qua một số
nội dung cơ bản sau: Quản lý thống nhất các hoạt động BHXH trên phạm vi
toàn quốc gia: Dù hệ thống tổ chức và cách thức quản lý của các quốc gia có
khác nhau, nhưng việc các quốc gia đều có sự quản lý thống nhất các hoạt
động BHXH. Việc quản lý thống nhất thể hiện qua việc chỉ có Nhà nước mới
ban hành chính sách vĩ mô định hướng hoạt động của cả hệ thống BHXH.
Nhà nước định ra các chế độ BHXH, các nội dung cơ bản của BHXH; các
chính sách BHXH đối với các nhóm đối tượng cụ thể, phù hợp với điều kiện
kinh tế- xã hội của đất nước trong từng gia đoạn phát triển.
Tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH
Dù mô hình có thể được tổ chức khác nhau, nhưng hoạt động sự nghiệp
BHXH có những chức năng chủ yếu là: Thực hiện thu, chi BHXH; quản lý đối
tượng BHXH (nhóm đối tượng tham gia BHXH và nhóm đối tượng thụ hưởng
BHXH); quản lý quỹ BHXH; thực hiện thanh tra và kiểm tra hoạt động BHXH.
Các loại hình BHXH
Ở nước ta có ba loại hình BHXH là: BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện
và Bảo hiểm thất nghiệp. Trong đó, loại hình BHXH bắt buộc gồm 5 chế độ:
10
ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất. Loại
hình BHXH tự nguyện gồm 2 chế độ: hưu trí; tử tuất. Loại hình Bảo hiểm thất
nghiệp gồm 3 chế độ: hưu trí; hỗ trợ học nghề; hỗ trợ tìm việc làm.
1.1.3. Đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội
Đóng BHXH là việc bên tham gia BHXH trích một khoản tài chính từ
thu nhập, lợi nhuận kinh doanh, ngân sách nhà nước để hình thành quỹ
BHXH. Đóng BHXH vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các bên tham gia
BHXH vì chỉ khi thực hiện trách nhiệm đóng góp tiền phục vụ cho mục đích
BHXH thì các quyền lợi mới được phát sinh từ đó. Mức đóng, phương thức
đóng là khác nhau tùy từng chế độ, đối tượng đóng BHXH.
Hưởng BHXH là việc bên được BHXH được nhận khoản tài chính từ
quỹ BHXH khi phát sinh các trường hợp được hưởng và đáp ứng đủ các điều
kiện hưởng BHXH. Hưởng BHXH là quyền lợi chính đáng, là mục đích của
những người tham gia BHXH. Mức hưởng, phương thức hưởng ở mỗi chế độ,
đối tượng là không giống nhau.
1.2. Vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo hiểm xã
hội ở Việt Nam và các yếu tố cấu thành
1.2.1. Khái niệm và các dấu hiệu của vi phạm pháp luật
VPPL là hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo
vệ. VPPL có những dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất, VPPL phải là hành vi xác định của con người, tức là xử sự
thực tế, cụ thể của cá nhân hoặc tổ chức nhất định, bởi vì pháp luật được ban
hành để điều chỉnh hành vi của các chủ thể mà không điều chỉnh suy nghĩ của
họ. Mác đã từng nói: ngồi hành vi của tơi ra, tôi không tồn tại đối với pháp
luật, không phải là đối tượng của nó. Vì vậy, phải căn cứ vào hành vi thực tế
của các chủ thể mới có thể xác định được là họ thực hiện pháp luật hay vi
11
phạm pháp luật. Hành vi xác định này có thể được thực hiện bằng hành động
(ví dụ: đi xe máy vượt đèn đỏ khi tham gia giao thông) hoặc bằng khơng hành
động (ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế).
Thứ hai, VPPL phải là hành vi trái pháp luật, tức là xử sự trái với các
yêu cầu của pháp luật. Hành vi này được thể hiện dưới các hình thức sau:
Chủ thể thực hiện những hành vi bị pháp luật cấm. Ví dụ: đi xe máy
vào đường ngược chiều…
Chủ thể không thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật bắt buộc phải
thực hiện. Ví dụ: trốn tránh nghĩa vụ phụng dưỡng ông bà, cha mẹ…
Chủ thể sử dụng quyền hạn vượt q giới hạn cho phép. Ví dụ: trưởng
thơn bán đất công cho một số cá nhân nhất định…
Thứ ba, VPPL phải là hành vi của chủ thể có năng lực trách nhiệm
pháp lý, vì hành vi có tính chất trái pháp luật nhưng của chủ thể khơng có
năng lực trách nhiệm pháp lý thì khơng bị coi là vi phạm pháp luật. Năng lực
trách nhiệm pháp lý của chủ thể là khả năng mà pháp luật quy định cho chủ
thể phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Theo quy định của pháp luật,
chủ thể là cá nhân sẽ có năng lực này khi đạt đến một độ tuổi nhất định và trí
tuệ phát triển bình thường. Đó là độ tuổi mà sự phát triển về trí lực và thể lực
đã cho phép chủ thể nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi
đó gây ra cho xã hội nên phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Chủ thể
là tổ chức sẽ có khả năng này khi được thành lập hoặc được cơng nhận.
Thứ tư, VPPL phải là hành vi có lỗi của chủ thể, tức là khi thực hiện
hành vi trái pháp luật, chủ thể có thể nhận thức được hành vi của mình và hậu
quả của hành vi đó, đồng thời điều khiển được hành vi của mình. Như vậy,
chỉ những hành vi trái pháp luật mà có lỗi của chủ thể thì mới bị coi là VPPL.
Cịn trong trường hợp chủ thể thực hiện một xử sự có tính chất trái pháp luật
nhưng chủ thể không nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành
12
vi đó gây ra cho xã hội hoặc nhận thức được hành vi và hậu quả của hành vi
của mình nhưng khơng điều khiển được hành vi của mình thì khơng bị coi là
có lỗi và khơng phải là VPPL.
Thứ năm, VPPL là hành vi xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp
luật bảo vệ, tức là làm biến dạng đi cách xử sự là nội dung của quan hệ pháp
luật đó. Hành vi trái pháp luật ở những mức độ khác nhau đều xâm hại tới
những quan hệ xã hội mà mỗi nhà nước xác lập và bảo vệ. Một cách khái
quát, những gì mà pháp luật khơng cấm, khơng xác lập và bảo vệ thì dù có
làm trái, có xâm hại cũng khơng bị coi là VPPL.
1.2.2. Cấu thành của vi phạm pháp luật
Cấu thành VPPL là những dấu hiệu đặc trưng của một VPPL cụ thể.
VPPL bao gồm 4 yếu tố cấu thành là: mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể
và khách thể.
Mặt khách quan của VPPL là những dấu hiệu biểu hiện ra bên ngồi
thế giới khách quan của VPPL. Nó bao gồm các yếu tố: hành vi trái pháp luật,
hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
nguy hiểm cho xã hội, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm. Hành vi trái
pháp luật hay còn gọi là hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi trái với các
yêu cầu của pháp luật, nó gây ra hoặc đe doạ gây ra những hậu quả nguy hiểm
cho xã hội. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội: là những thiệt hại về người và của
hoặc những thiệt hại phi vật chất khác do hành vi trái pháp luật gây ra cho xã
hội. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội tức
là giữa chúng phải có mối quan hệ nội tại và tất yếu với nhau. Hành vi đã
chứa đựng mầm mống gây ra hậu quả hoặc là nguyên nhân trực tiếp của hậu
quả nên nó phải xảy ra trước hậu quả về mặt thời gian; cịn hậu quả phải là kết
quả tất yếu của chính hành vi đó mà khơng phải là của một ngun nhân khác.
Thời gian VPPL là giờ, ngày, tháng, năm xảy ra vi phạm pháp luật. Địa điểm
13
VPPL là nơi xảy ra vi phạm pháp luật. Phương tiện VPPL là công cụ mà chủ
thể sử dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật của mình.
Khi xem xét mặt khách quan của VPPL thì hành vi trái pháp luật luôn
luôn là yếu tố bắt buộc phải xác định trong cấu thành của mọi vi phạm pháp
luật, còn các yếu tố khác có bắt buộc phải xác định hay khơng là tuỳ từng
trường hợp vi phạm. Có trường hợp hậu quả nguy hiểm cho xã hội và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả nguy hiểm cho xã hội cũng là yếu
tố bắt buộc phải xác định, có trường hợp địa điểm vi phạm cũng là yếu tố bắt
buộc phải xác định.
Mặt chủ quan của VPPL là trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể khi
thực hiện hành vi trái pháp luật. Nó bao gồm các yếu tố: lỗi, động cơ, mục
đích vi phạm pháp luật. Lỗi là trạng thái tâm lý hay thái độ của chủ thể đối với
hành vi của mình và đối với hậu quả của hành vi đó gây ra cho xã hội được
thể hiện dưới hai hình thức: cố ý hoặc vô ý. Lỗi gồm 2 loại: cố ý và vô ý. Lỗi
cố ý lại gồm 2 loại: cố ý trực tiếp và cố ý gián tiếp.
Cố ý trực tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện hành vi trái pháp luật
nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của
hành vi đó và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Cố ý gián tiếp là lỗi của một chủ thể khi thực hiện một hành vi trái
pháp luật nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu
quả của hành vi đó, tuy khơng mong muốn song có ý thức để mặc cho hậu
quả đó xảy ra.
Lỗi vơ ý cũng gồm 2 loại: vơ ý vì cẩu thả và vơ ý vì q tự tin.
Vơ ý vì cẩu thả là lỗi của một chủ thể đã gây ra hậu quả nguy hại cho
xã hội nhưng do cẩu thả nên không thấy trước hành vi của mình có thể gây ra
hậu quả đó, mặc dù có thể thấy trước và phải thấy trước hậu quả này.
Vơ ý vì q tự tin là lỗi của một chủ thể tuy thấy trước hành vi của
14
mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội song tin chắc rằng hậu quả
đó sẽ khơng xảy ra hoặc cỏ thể ngăn ngừa được nên mới thực hiện và có thể
gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
Động cơ VPPL là động lực tâm lý bên trong thúc đẩy chủ thể thực hiện
hành vi trái pháp luật.
Mục đích VPPL là cái đích trong tâm lý hay kết quả cuối cùng mà chủ
thể mong muốn đạt được khi thực hiện hành vi trái pháp luật.
Chủ thể của VPPL là cá nhân, tổ chức có năng lực trách nhiệm pháp lý
và đã thực hiện hành vi trái pháp luật.
Khách thể của VPPL là quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ nhưng bị
hành vi trái pháp luật xâm hại tới.
1.2.3. Các loại vi phạm pháp luật
VPPL có thể được phân loại theo nhiều cách khác nhau dựa vào các
tiêu chí phân loại khác nhau. Ví dụ, nếu căn cứ vào đối tượng và phương pháp
điều chỉnh của pháp luật thì có thể chia VPPL thành các loại tương ứng với
các ngành luật như VPPL hình sự, VPPL dân sự…Trong khoa học pháp lý
Việt Nam phổ biến là cách phân loại VPPL căn cứ vào tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội của VPPL. Theo tiêu chí này, VPPL được chia thành
các loại sau:
VPPL hình sự hay cịn gọi là tội phạm
Theo pháp luật hình sự của Việt Nam thì tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS), do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công
15
dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN.
Vi phạm hành chính
Theo pháp luật về xử lý vi phạm hành chính của Việt Nam thì vi phạm
hành chính là hành vi có lỗi của chủ thể có năng lực trách nhiệm hành chính
trái với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội
phạm hoặc trái với các quy định của pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã
hội nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định
của pháp luật phải bị xử lý hành chính.
Vi phạm dân sự là hành vi trái pháp luật và có lỗi của chủ thể có năng
lực trách nhiệm dân sự xâm hại tới các quan hệ tài sản và các quan hệ nhân
thân phi tài sản.
Vi phạm kỷ luật là hành vi có lỗi của chủ thể trái với các quy chế, quy
tắc xác lập trật tự trong nội bộ cơ quan, tổ chức, tức là không thực hiện đúng
kỷ luật lao động, học tập, công tác hoặc phục vụ được đề ra trong nội bộ cơ
quan, tổ chức đó.
1.2.4. Khái niệm vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo
hiểm xã hội
VPPL trong lĩnh vực đóng, hưởng BHXH là hành vi trái pháp luật và
có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến
quan hệ xã hội về đóng, hưởng BHXH được pháp luật bảo vệ.
Như vậy, VPPL trong lĩnh vực đóng, hưởng BHXH là một loại VPPL
và nằm trong VPPL về BHXH nhưng chỉ trong giới hạn về đóng BHXH và
hưởng BHXH. VPPL về BHXH bao gồm các vi phạm như: VPPL về thủ tục
thực hiện bảo hiểm xã hội; VPPL về sử dụng tiền đóng và quỹ bảo hiểm xã
hội; VPPL về lập hồ sơ để hưởng chế độ bảo hiểm xã hội,...
1.2.5. Phân loại vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng Bảo
16
hiểm xã hội
Có thể phân chia VPPL trong lĩnh vực đóng, hưởng BHXH theo chủ
thể vi phạm, theo lĩnh vực vi phạm, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi vi phạm,...Tuy nhiên trong luận văn này, người viết phân chia
VPPL trong lĩnh vực đóng, hưởng BHXH theo hành vi vi phạm. Theo đó,
VPPL này được phân chia thành: VPPL trong lĩnh vực đóng BHXH và VPPL
trong lĩnh vực hưởng BHXH đối với người sử dụng lao động.
VPPL trong lĩnh vực đóng BHXH bao gồm một số hành vi như: khơng
đóng BHXH cho tồn bộ người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội
bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; đóng bảo hiểm xã hội không đủ số người
thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; đóng bảo
hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp không đúng mức quy định;...
VPPL trong lĩnh vực hưởng BHXH bao gồm một số hành vi như: kê
khai không đúng sự thật hoặc sửa, chữa, tẩy xố những nội dung có liên
quan đến việc hưởng BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, bảo hiểm thất
nghiệp; làm giả hồ sơ để hưởng chế độ BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện,
bảo hiểm thất nghiệp;...
1.2.6. Các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
đóng, hưởng Bảo hiểm xã hội
Cấu thành vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng BHXH là tồn
bộ những yếu tố, những bộ phận làm thành một vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực đóng, hưởng BHXH bao gồm mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và
khách thể.
Mặt khách quan
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đóng, hưởng
BHXH là những biểu hiện ra bên ngồi thế giới khách quan của vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực đóng, hưởng BHXH. Mặt khách quan này bao gồm các nội
17
dung chính là hành vi trái pháp luật, hậu quả của hành vi đó, mối quan hệ
nhân quả của hành vi trái pháp luật và hậu quả xảy ra.
Hành vi trái pháp luật: Là những xử sự của con người không phù hợp
với các quy định của pháp luật về đóng và hưởng BHXH. Pháp luật nói
chung, pháp luật về đóng, hưởng BHXH đã quy định trong từng trường hợp,
hồn cảnh con người được làm hoặc không được làm những gì, nhưng chủ thể
thực hiện hành vi lại khơng tn thủ theo những yêu cầu đó, vậy nên hành vi
của họ là hành vi trái pháp luật. Có thể kể đến một số hành vi như: khơng
đóng, đóng khơng đúng thời gian quy định; đóng khơng đúng mức quy định;
đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH;...
Hậu quả của vi phạm pháp luật: Đó là sự thiệt hại về vật chất hoặc tinh
thần do hành vi trái pháp luật nêu trên gây ra. Hậu quả xảy ra có thể là: người
lao động khơng được đóng BHXH từ đó không được hưởng các chế độ do
BHXH mang lại; người lao động không được hưởng đúng mức BHXH mà
thực tế họ được hưởng do người sử dụng lao động đóng không đúng mức quy
định, xác nhận không đúng thời gian làm việc và mức đóng BHXH; cơ quan
BHXH xách nhiễu gây khó khăn cho người được hưởng BHXH như khơng
cấp sổ hoặc chốt sổ BHXH đúng hạn, chi trả không đúng mức hoặc chi trả
không đúng thời hạn chế độ BHXH;...Các hậu quả trên chủ yếu gây thiệt hại
cho người lao động, đây là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất trong quan hệ
lao động cũng như quan hệ BHXH.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và hậu quả xảy ra:
Đây là mối liên kết chặt chẽ và quan trọng của hành vi trái pháp luật và hậu
quả, tức là hậu quả xảy ra phải xuất phát từ hành vi trái pháp luật và hành vi
trái pháp luật là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến hậu quả đó. Ví dụ như: hành vi
khơng đóng BHXH cho tồn bộ người lao động thuộc diện tham gia BHXH,
đóng BHXH không đủ số người tham gia BHXH dẫn đến hậu quả là người
18
khơng được đóng BHXH thì khơng được hưởng các phúc lợi từ BHXH mang
lại mà lẽ ra họ phải được hưởng; hành vi chậm đóng BHXH, đóng BHXH
khơng đúng mức quy định khiến cho người được hưởng BHXH không được
hưởng toàn bộ quyền lợi mà đáng lẽ họ sẽ được hưởng;...
Mặt chủ quan
Bao gồm 3 yếu tố: lỗi, động cơ, mục đích của vi phạm pháp luật về
đóng, hưởng BHXH. Trong đó:
Lỗi trong lĩnh vực đóng, hưởng BHXH là biểu hiện tâm lý bên trong
của chủ thể khi thực hiện hành vi VPPL trong lĩnh vực này. Lỗi có thể là lỗi
cố ý hoặc lỗi vô ý gây ra những hậu quả như vừa kể trên. Chủ thể vi phạm cố
tình khơng thực hiện hay làm ngơ trước những quy định có liên quan tới đóng
và hưởng BHXH, hoặc cũng có thể chủ thể vi phạm khơng có bất cứ hành
động nào khiến cho hậu quả xảy ra mà không ngăn chặn nó.
Động cơ thực hiện vi phạm trong lĩnh vực đóng, hưởng BHXH là lý do
khiến cho chủ thể vi phạm. Lý do đó có thể là: khơng muốn chi quá nhiều tiền
vào việc đóng BHXH cho người lao động của người sử dụng lao động vì bao
giờ người sử dụng lao động cũng muốn tối thiểu hóa chi phí và tối đa hóa lợi
nhuận; người lao động muốn được hưởng nhiều quyền lợi từ BHXH nên đã
kê khai khơng đúng sự thật hoặc sửa chữa, tẩy xóa những nội dung có liên
quan đến việc hưởng BHXH;...
Mục đích VPPL về đóng, hưởng BHXH chính là kết quả mà chủ thể
VPPL về đóng, hưởng BHXH mong muốn đạt được. Có thể nêu ra một số kết
quả như: Số tiền chi trả cho BHXH của người sử dụng lao động ít đi; số tiền
hưởng BHXH của người lao động tăng lên do kê khai không đúng sự thật; cơ
quan BHXH được hưởng hoa hồng từ các vụ chi trả BHXH;...
Mặt chủ thể
19