Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Đăng ký kinh doanh theo luật doanh nghiệp Việt Nam - thực trạng và một vài kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 105 trang )


1

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



LÊ THẾ PHÚC




ĐĂNG KÝ KINH DOANH THEO LUẬT DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ MỘT
VÀI KIẾN NGHỊ



CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ : 60 38 50



TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - NĂM 2006


Công trình được hoàn thành tại: Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội.



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn Thị
Lan Hương



Phản biện 1:

Phản biện 2:




Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận
văn thạc sĩ họp tại:

vào hồi giờ ngày tháng năm 200





Có thể tìm hiểu luận văn tại thư viện: Trung tâm
Thông tin Thư viện - Đại học Quốc gia Hà Nội


4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa 1
Lời cam đoan 2
Lời cảm ơn 3
Mục lục 4
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt 7
Danh mục các bảng 8
Mở đầu 9

Chương 1. Cơ sở lý luận của đăng ký kinh doanh và pháp luật về Đăng ký
kinh doanh 15
1.1. Đăng ký kinh doanh một phương thức thực hiện quyền tự do kinh
doanh 15
1.2. Vài nét về lịch sử pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam 16
1.3. Khái niệm đăng ký kinh doanh và pháp luật đăng ký kinh doanh 18
1.3.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh 18
1.3.2. Khái niệm pháp luật về đăng ký kinh doanh 20
1.4. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về đăng ký kinh doanh 22
1.4.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh 22
1.4.2. Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng giữa các chủ thể kinh
doanh 22
1.4.3. Nguyên tắc công khai, minh bạch 23
1.4.4. Nguyên tắc chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm 24
1.4.5. Nguyên tắc giảm chi phí gia nhập thị trường 25

1.5. Đặc điểm của pháp luật về đăng ký kinh doanh 26
1.5.1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang tính chất lãnh thổ sâu sắc 26


5
1.5.2. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang đặc điểm của thủ tục hành
chính 26
1.5.3. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang bản chất tư pháp 27
1.5.4. Pháp luật về đăng ký kinh doanh vì mục đích kinh tế 27
1.5.5. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang đặc trưng xã hội 28
1.6. Mục đích và ý nghĩa của pháp luật về đăng ký kinh doanh 28
1.6.1. Mục đích của pháp luật về đăng ký kinh doanh 28
1.6.2. ý nghĩa của pháp luật về đăng ký kinh doanh 31

Chương 2. Thực trạng pháp luật về đăng ký kinh doanh theo Luật doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay 34
2.1. Khái quát nội dung pháp luật về đăng ký kinh doanh hiện nay ở
Việt Nam 34
2.1.1. Cơ quan đăng ký kinh doanh 37
2.1.2. Điều kiện đăng ký kinh doanh 39
2.1.3. Trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh 43
2.1.4. Giải quyết các tranh chấp về đăng ký kinh doanh 44
2.2. Những thành tựu đạt được của pháp luật về đăng ký kinh doanh 45
2.2.1. Những đổi mới mang tính tiên phong của Luật doanh nghiệp năm
1999 46
2.2.2. Tiếp tục ghi nhận những đổi mới tích cực trong Luật doanh
nghiệp năm 2005 48
2.3. Một số vấn đề bất cập phát sinh trong quá trình xây dựng và thực
thi pháp luật về đăng ký kinh doanh hiện nay 50
2.3.1. Về địa điểm đăng ký kinh doanh 51

2.3.2. Về nội dung đăng ký kinh doanh 54
2.3.3. Về chủ thể đăng ký kinh doanh 62


6
2.3.4. Về hồ sơ đăng ký kinh doanh 65
2.3.5. Về trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh 66
2.3.6. Về giấy phép và điều kiện kinh doanh 70
2.3.7. Về cơ quan đăng ký kinh doanh 72
2.1.8. Giải quyết tranh chấp về đăng ký kinh doanh 76
2.4. Những nhân tố tác động tới thực trạng pháp luật về đăng ký kinh
doanh ở Việt Nam hiện nay 79
2.4.1. Nền tảng chính trị chưa thực sự ủng hộ cho doanh nghiệp dân
doanh 79
2.4.2. Nền kinh tế kém phát triển và chưa ổn định 80
2.4.3. Đặc trưng văn hoá kìm hãm doanh nghiệp ra đời và phát triển 80
2.4.4. Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ và còn nhiều bất cập 82
2.4.5. Năng lực bộ máy, con người còn nhiều yếu kém 83

Chương 3. Một vài kiền nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đăng ký kinh
doanh trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam 85
3.1 Từ những hạn chế của pháp luật về đăng ký kinh doanh đến việc
hoàn thiện chính sách và pháp luật 85
3.2. Kiến nghị về Cơ quan đăng ký kinh doanh 87
3.3. Kiến nghị về chủ thể đăng ký kinh doanh 91
3.4. Kiến nghị về thủ tục đăng ký kinh doanh 91
3.5. Kiến nghị về giấy phép và điều kiện kinh doanh 94
3.6. Kiến nghị về cơ chế giải quyết tranh chấp về đăng ký kinh doanh 96

Kết Luận 98

tài liệu tham khảO 101


7
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT


DNNN
Doanh nghiệp nhà nước
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
LDN
Luật doanh nghiệp
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn



8
DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang

Bảng 2.1. Cơ quan đăng ký kinh doanh 37
Bảng 2.2. Điều kiện chung về đăng ký kinh doanh 40
Bảng 2.3. Những chủ thể không được đăng ký kinh doanh 40
Bảng 2.4. Điều kiện về hồ sơ đăng ký kinh doanh 41

Bảng 2.5. Điều kiện về địa điểm đăng ký kinh doanh 42
Bảng 2.6. Điều kiện về nội dung đăng ký kinh doanh 43
Bảng 2.7. Thủ tục chung về đăng ký kinh doanh 44
Bảng 2.8. Đăng ký kinh doanh kiểu hành doanh nghiệp 52
Bảng 2.9. Tên doanh nghiệp, sao khó thế! 54
Bảng 2.10. Tên doanh nghiệp và truyền thống 58
Bảng 2.11. Doanh nghiệp và quyền tự do kinh doanh 60
Bảng 2.12. Thuế môn bài, rào cản mới đối với tinh thần kinh doanh 64
Bảng 2.13. Lỗ hổng hậu đăng ký kinh doanh 74
Bảng 2.14. Giải quyết tranh chấp về đăng ký kinh doanh 77



9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đăng ký kinh doanh là một chế định quan trọng của Luật doanh nghiệp
(LDN), các chủ thể kinh doanh muốn được kinh doanh dưới các hình thức
pháp lý quy định trong LDN thì phải tiến hành đăng ký kinh doanh (ĐKKD)
theo quy định của LDN. Trên cơ sở các quy định của LDN, hoạt động ĐKKD
đã được tiến hành khá nhanh chóng về thủ tục, thông thoáng về điều kiện
thành lập. Cùng với việc đơn giản hoá thủ tục là việc giảm chi phí để thành
lập mới một doanh nghiệp, bãi bỏ những điều kiện mà doanh nghiệp khó đáp
ứng, đồng thời nâng cao yêu cầu và trách nhiệm của cơ quan nhà nước với các
doanh nghiệp. Do vậy, hiện nay để thành lập mới một doanh nghiệp theo quy
định của LDN về mặt lý thuyết là rất đơn giản.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tế áp dụng các
quy định về ĐKKD đôi lúc mang lại những kết quả trái ngược, trong đó có
những kết quả không mong muốn, trái với mục đích của LDN. Những quy

định liên quan đến ĐKKD và thực tế hoạt động ĐKKD trên cả nước trong
thời gian qua đã bắt đầu nảy sinh nhiều vấn đề thể hiện ở các mặt như: buông
lỏng quản lý hoạt động ĐKKD; thủ tục ĐKKD và điều kiện kinh doanh đôi
lúc còn chưa rõ ràng và thiếu nhất quán; doanh nhân kinh doanh mà không
ĐKKD; hoạt động kinh doanh sai giấy phép kinh doanh; đặc biệt là nhiều địa
phương, ban ngành còn đặt ra nhiều rào cản khắt khe cho việc gia nhập thị
trường đối với doanh nhân thông qua việc ban hành các loại giấy phép kinh
doanh, chứng chỉ hành nghề kinh doanh… như là một yêu cầu bổ sung cho
điều kiện kinh doanh áp dụng cho một số ngành nghề, dịch vụ. Việc kéo dài
những hiện tượng này trong nền kinh tế nước ta đã khiến cho nhiều doanh
nhân khó tiếp cận hoạt động kinh doanh một cách chính thức và công bằng.


10
Trước thực tế phát sinh trong hoạt động ĐKKD thời gian vừa qua đòi hỏi
cần có những nghiên cứu thật sự sâu sắc và toàn diện về bản chất của hoạt
động ĐKKD nói chung cũng như nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề này
nói riêng để từ đó có thể đưa ra những kiến giải cả về mặt cơ sở lý luận, cả về
mặt đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn.
Kết quả thu được từ những nghiên cứu toàn diện và có hệ thống về hoạt
động ĐKKD trên cả bình diện lý thuyết và thực tiễn sẽ đem lại những kết luận
đúng đắn về nhiều vấn đề như: bản chất của ĐKKD là gì? Tại sao doanh nhân
phải ĐKKD? Pháp luật về ĐKKD nên được hoàn thiện như thế nào để đáp
ứng được nhu cầu khuyến khích toàn dân kinh doanh? Cần phải có những giải
pháp gì để cải thiện hơn nữa chất lượng các quy định của pháp luật về ĐKKD
cũng như hiệu quả việc áp dụng các quy định này trên thực tế?
Mặt khác, trong khuôn khổ của chương trình đào tạo thạc sĩ luật học –
Chuyên ngành luật kinh tế. Tác giả nhận thấy việc lựa chọn đề tài “Đăng ký
kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam – Thực trạng và một vài
kiến nghị” là phù hợp với mã ngành Luật kinh tế và hoàn toàn có thể giành

cho một học viên cao học thực hiện và hoàn thành trong thời gian nghiên cứu
khoảng sáu tháng.
Trên đây là những lý do thôi thúc tác giả lựa chọn nội dung nêu trên làm
đề tài nghiên cứu trong luận văn cao học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhìn chung hoạt động ĐKKD nói chung và pháp luật về ĐKKD nói
riêng đã được nghiên cứu và thực hiện từ trước khi ban hành LDN. Rất nhiều
các chương trình khảo sát các hoạt động khởi nghiệp của các doanh nhân
cũng như những hoạt động quản lý doanh nghiệp của các cơ quan nhà nước
cũng đã được tiến hành. Đặc biệt, sau sáu năm thi hành LDN đã có rất nhiều


11
những khảo sát, tổng kết đánh giá quá trình thực hiện LDN của các cơ quan
Nhà nước cũng như các tổ chức tiến hành đánh giá hoạt động kinh doanh và
ĐKKD của các doanh nhân Việt Nam. Các báo cáo đánh giá hoạt động
ĐKKD của doanh nghiệp Việt Nam đã vạch ra nhiều thiếu sót và gợi mở cho
các nhà làm luật Việt Nam nhiều vấn đề cần phải được thay đổi.
Điển hình trong số đó là cuộc nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý
Kinh tế Trung ương (CIEM) phối hợp cùng chương trình phát triển Liên Hợp
Quốc UNDP về LDN được tiến hành năm 2004, Cuộc khảo sát của Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phối hợp cùng với trương trình phát
triển kinh tế tư nhân MPDF năm 2005; chương trình nghiên cứu về khu vực
kinh tế phi chính thức của Ngân Hàng Thế Giới năm 2003. Báo cáo đánh giá
sáu năm thi hành LDN của CIEM và Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Đức. Văn
phòng Quốc Hội và Chương trình phát triển kinh tế tư nhân có những tổng
hợp phân tích, đánh giá và bình luận về Dự án LDN thống nhất và Dự án Luật
đầu tư chung… Quá trình thi hành LDN cũng được giám sát và đánh giá
thường xuyên của Tổ công tác thi hành LDN. Bên cạnh đó còn nhiều những

bài viết trong các luận văn, luận án; các báo, tạp chí chuyên ngành về quản lý
nhà nước, chính sách pháp luật, chính sách kinh tế. Chẳng hạn Luật văn của
Nguyễn Thị Loan thực hiện tại Khoa Luật năm 200 về quyền tự do kinh
doanh; bài phát biểu của bà Phạm Chi Lan về Giấy phép kinh doanh đủ tốt và
đủ xấu để cải cách trên báo Tuổi trẻ [37]; bài của Nguyên Tấn về Tên doanh
nghiệp, sao khó thế ! trên Thời báo kinh tế Sài gòn [31, tr 11]…
Nhìn chung các bài viết trong những công trình nghiên cứu cũng như
trong các báo, tạp chí đã có nhiều tìm tòi, đánh giá về chính sách đối với hoạt
động ĐKKD của các doanh nghiệp. Các công trình nghiên cứu cũng đã khái
quát được bức tranh tương đối thực tế về hoạt động ĐKKD của doanh nghiệp
và của cơ quan nhà nước trên cơ sở những số liệu khảo sát thực tế. Các công


12
trình cũng đã vạch ra được những bất cập trong hệ thống pháp luật và những
yếu kém trong tổ chức bộ máy về ĐKKD, cũng như những yếu kém trong
thực thi pháp luật về ĐKKD. Tuy nhiên, những công trình nêu trên mới phần
nào phác hoạ được những thành công hay hạn chế của LDN nói chung khi
được áp dụng trong thực tiễn mà chưa đưa ra được những đánh giá và yêu cầu
riêng đối với pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Những bài viết chưa đưa ra được những yêu cầu có hệ thống đối với chính
sách pháp luật về ĐKKD và hướng hoàn thiện chính sách pháp luật về ĐKKD
phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. Đặc biệt là những vấn đề mới
phát sinh trong giai đoạn hiện nay về điều kiện ĐKKD, thẩm quyền của cơ
quan ĐKKD, quản lý thông tin ĐKKD và những rào cản đối với các doanh
nhân trong suốt quá trình tiến hành ĐKKD.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Bản luận văn này được thực hiện với mong muốn làm sáng tỏ cơ sở lý
luận của hoạt động ĐKKD, phân tích thực trạng pháp luật và thực trạng áp

dụng pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở đó đưa ra những
giải pháp hoàn thiện những quy định của pháp luật về vấn đề này trong tương
lai.
Bản luận văn cũng giành nhiều nội dung để tìm hiểu về những nguyên
nhân thúc đẩy hay cản trở các doanh nhân ĐKKD theo LDN, những nguyên
nhân thúc đẩy các cán bộ, công chức áp dụng đúng đắn và sáng tạo các quy
định của LDN về ĐKKD. Thông qua kết quả nghiên cứu, bản luận văn này
cũng có mong muốn đưa ra những khuyến nghị cho cơ quan nhà nước nên
làm gì và làm như thế nào trước những bất cập trong xây dựng và thực thi các
quy định pháp luật này.



13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các quy định của pháp luật
và chính sách hiện hành của Nhà nước về ĐKKD. Bên cạnh đó, luận văn cũng
nghiên cứu một số nhân tố có tác động đến hoạt động ĐKKD của doanh nhân,
doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, công chức nhà nước.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là phân tích và đánh giá những vấn đề
liên quan đến hoạt động ĐKKD của doanh nhân bao gồm những yếu tố tác
động đến doanh nhân trong quá trình doanh nhân thực hiện các quy định của
pháp luật về ĐKKD. Bên cạch việc tập trung nghiên cứu hoạt động ĐKKD
theo quy định của LDN năm 1999 và năm 2005, luận văn cũng giành một
phần nội dung để phân tích hoạt động ĐKKD của các doanh nghiệp hoạt động
theo Luật đầu tư nước ngoài, Luật doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và các
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo Luật hợp tác xã.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong bản luận văn này tác giả sử dụng kết hợp nhiều phương pháp

nghiên cứu như: phương pháp phân tích, phương pháp so sánh và đối chiếu;
phương pháp tổng hợp; phương pháp đánh giá. Tất cả những phương pháp
được sử dụng đều dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và phép biện chứng duy vật.

6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở tổng kết thực tiễn của hơn sáu năm
thi hành LDN, thực tiễn áp dụng luật này sẽ là cơ sở để tác giả đi sâu làm rõ
hơn nữa cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động ĐKKD áp dụng cho các chủ
thể kinh doanh. Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là những thông tin
có giá trị với lý luận và thực tiễn. Những khuyến nghị được đưa ra trong luận


14
văn sẽ có giá trị tham khảo hữu ích đối với cơ quan nhà nước, các cán bộ,
công chức nhà nước những người trực tiếp vận dụng các quy định pháp luật
trong thực tiễn và các doanh nhân, những người chịu tác động trực tiếp từ
những quy định này.

7. Kết cấu và nội dung của luận văn
Luận văn được bố cục thành ba chương và phần kết luận, mỗi chương
được viết nhằm giải quyết từng nhiệm vụ cụ thể. Nội dung các chương có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau tạo cơ sở để hoàn thành mục đích nghiên cứu của
cả luận văn. Kết thúc mỗi chương là kết luận của từng chương, phần cuối
cùng là kết luận của luận văn.

Chương 1. Cơ sở lý luận về ĐKKD và pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam
Trong chương này tác giả nêu và phân tích những vấn đề liên quan đến
cơ sở lý luận về ĐKKD và pháp luật về ĐKKD. Cụ thể chương này tác giả
tập trung phân tích khái niệm và bản chất của ĐKKD và pháp luật ĐKKD.

Mục đích, ý nghĩa và các nguyên tắc của các quy định pháp luật về ĐKKD ở
Việt Nam trong điều kiện hiên nay.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về ĐKKD theo LDN ở Việt Nam hiện
nay
Trong chương này tác giả tập trung tìm hiểu nội dung pháp luật về
ĐKKD, thực trạng ban hành và thực thi pháp luật về ĐKKD hiện nay. Phát
hiện những tồn tại, bất cập của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về
ĐKKD, từ đó xác định những nhân tố tác động đến thực trạng pháp luật về
ĐKKD ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3. Một vài kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về ĐKKD
trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam


15
Trên cơ sở những mặt hạn chế của pháp luật về ĐKKD của Việt Nam
hiện nay. Tác giả đã đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
ĐKKD cũng như việc áp dụng pháp luật về ĐKKD trong thời gian tới.



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐĂNG KÝ KINH DOANH VÀ PHÁP LUẬT
VỀ ĐĂNG KÝ KINH DOANH

1.1. Đăng ký kinh doanh một phương thức thực hiện quyền tự do
kinh doanh
Đối với mỗi người kinh doanh gắn liền với lao động để mưu sinh, hoạt
động kinh doanh vì thế mà khó phân biệt với lao động kiếm sống, tạo thu
nhập. Chính vì vậy nếu nói kinh doanh là quyền tự do gắn liền với quyền cơ
bản của con người cũng không có gì sai lệch. Trong xã hội hiện đại, quyền tự

do kinh doanh ngày càng được coi trọng, nhưng cũng trong xã hội này, càng
ngày càng có nhiều những quy định hạn chế quyền tự do kinh doanh. Những
hạn chế nếu có theo chúng tôi cũng rất hợp lý và nhân bản. Bởi trong thời đại
mà một ý tưởng cũng có thể mang lại rất nhiều tiền thì những quy định bảo vệ
ý tưởng hợp pháp của người này và hạn chế quyền của người khác là có thể
chấp nhận được. Mặt khác, xã hội và pháp luật cần phải có sự giám sát và
quản lý những chủ thể được ĐKKD để hạn chế những tác động không mong
muốn của những chủ thể này tới xã hội và quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể khác. ĐKKD vì thế mà là nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh muốn
được tự do kinh doanh hợp pháp dưới những quy mô và hình thức mà pháp
luật quy định. Do đó, xét ở khía cạnh những quyền và lợi ích mà chủ thể


16
ĐKKD được hưởng sau khi ĐKKD so với những chủ thể chưa hoặc không
ĐKKD thì ĐKKD được nhìn nhận như là một phương thức thực hiện quyền
tự do kinh doanh.
Ở Việt Nam công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp
luật (Điều 57 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992). Trong đó quyền tự do trong việc thành lập doanh nghiệp, hộ kinh
doanh đã được LDN năm 1999 quy định tại Điều 13 “Tổ chức, cá nhân Việt
Nam, tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh
nghiệp tại Việt Nam …”, quy định này vẫn tiếp tục được kế thừa trong LDN
năm 2005. Theo quy định của pháp luật Việt Nam về quyền tự do kinh doanh
và quyền ĐKKD thì về cơ bản kinh doanh là quyền tự do nhưng ĐKKD là
nghĩa vụ của chủ thể kinh doanh. Để được kinh doanh dưới những quy mô và
hình thức theo quy định, doanh nhân có nghĩa vụ phải ĐKKD. Vì vậy, ĐKKD
vừa là nghĩa vụ của doanh nhân vừa là một phương thức để doanh nhân thực
hiện quyền tự do kinh doanh của mình.


1.2. Vài nét về lịch sử pháp luật đăng ký kinh doanh ở Việt Nam
Khi nhìn lại lịch sử pháp luật về ĐKKD ở Việt Nam, chúng ta cũng
không hy vọng học hỏi được nhiều từ một xã hội không coi trọng thương mại
và pháp luật. Trong lịch sử hàng nghìn năm phong kiến, cũng giống như nền
ngoại thương, các thiết chế tổ chức kinh doanh và các quy định về ĐKKD
cũng rất mờ nhạt. Một xã hội “dĩ nông vi bản” không coi trọng thương nhân
và thương mại đã không tạo cho xã hội nhiều điều kiện thuận lợi để tổ chức
kinh doanh. Các quy định hiếm hoi mà lịch sử ghi nhận được về hoạt động
ĐKKD trong truyền thống đó là dưới thời Minh Mạng, các phường, hội, ty
(còn được gọi là cuộc) do nhiều gia đình hợp thành nếu có mười người trở
lên, tự chọn ra người lãnh đạo (cuộc trưởng) và được quan Bố chánh cho phép


17
hoạt động thì hàng năm phải trình quan tỉnh một bản hộ tịnh gồm tên, ngày
sinh và quê quán của những người trong cuộc [25, tr 62]. Như vậy, một thứ sơ
khai của ĐKKD đã hình thành, mục đích chính là để quản lý thuế và các
nghĩa vụ của cuộc [38, tr 238].
Đăng ký kinh doanh thời Pháp thuộc cũng không có nhiều quy định cho
chúng ta tham khảo bởi thời kỳ này pháp luật chủ yếu ban bố chế độ đặc
quyền kinh doanh và khai thác tài nguyên cho người Pháp. Pháp luật kinh
doanh và ĐKKD thời kỳ này cũng không được mở rộng và khuyến khích cho
mọi người dân trong xã hội.
Khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà đã ban hành những quy định đầu tiên về ĐKKD với mục đích tập thể hoá
và kế hoạch hoá nền sản xuất của miền Bắc. Do đó, các quy định về ĐKKD
chủ yếu tập trung vào phát triển nền sản xuất tập thể, kinh tế cá thể và kinh tế
ngoài quốc doanh không được khuyến khích phát triển. Trong giai đoạn từ
năm 1954 đến năm 1986 Nhà nước đã ban hành rất nhiều các văn bản về
ĐKKD. Tuy nhiên, những quy định của pháp luật về ĐKKD trong giai đoạn

này chủ yếu được ban hành dưới hình thức văn bản dưới luật, trong đó có sự
phân biệt rất rõ ràng thủ tục ĐKKD giữa hình thức đơn vị kinh tế quốc doanh,
kinh tế tập thể và cá thể ngoài quốc doanh. Các đơn vị kinh tế quốc doanh
được ĐKKD khá đơn giản (khi có quyết định thành lập), còn các đơn vị kinh
tế tập thể và cá thể thủ tục sẽ phức tạp hơn. Nhìn chung, các quy định về
ĐKKD thời kỳ này mang nặng tư duy quản lý kinh tế cũ, thiếu tính thống nhất
và những nội dung chủ yếu của một hệ thống ĐKKD hiệu quả.
Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đã thể chế hóa mạnh mẽ quyền tự do kinh doanh và tổ chức kinh doanh
của tổ chức, cá nhân trong và ngoài quốc doanh. Cơ sở pháp lý đầu tiên khẳng
định tư tưởng này đó là Luật công ty và LDN tư nhân năm 1990. Cũng từ đây,


18
chế định ĐKKD đã có những bước phát triển mới trên cơ sở những quy định
của luật và các quy định hướng dẫn thi hành hai đạo luật này.
Tuy có nhiều điểm tiến bộ so với những quy định về ĐKKD trước đó
nhưng những quy định về ĐKKD trong giai đoạn này còn rất nhiều điểm còn
hạn chế. Để các quy định pháp luật về ĐKKD thực sự là động lực khuyến
khích toàn dân kinh doanh và thúc đẩy nền kinh tế phát triển thì pháp luật về
ĐKKD cũng như cách thức thực hiện các quy định này phải có sự thay đổi
căn bản trong tình hính mới của đất nước.

1.3. Khái niệm đăng ký kinh doanh và pháp luật đăng ký kinh
doanh
1.3.1. Khái niệm đăng ký kinh doanh
Đăng ký kinh doanh là một thuật ngữ khá mới trong hệ thống thuật ngữ
luật học ở nước ta. Thuật ngữ ĐKKD xuất hiện lần đầu tiên trong Luật công
ty năm 1990 và tiếp tục được sử dụng trong các văn bản pháp luật về tổ chức
kinh doanh sau này. LDN năm 1999 và LDN năm 2005 về cơ bản mới chỉ

quy định ĐKKD như là một chế định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
kinh doanh mà chưa có quy định về thuật ngữ ĐKKD.
Thuật ngữ ĐKKD được ghép từ hai từ ghép “đăng ký” và “kinh doanh”.
Theo định nghĩa của Từ điển Tiếng Việt [47, tr 60], đăng ký được hiểu là “ghi
vào sổ của cơ quan quản lý để chính thức được công nhận cho hưởng quyền
lợi hay làm nghĩa vụ”. Kinh doanh theo giải thích từ ngữ tại khoản 2 Điều 4
của LDN năm 2005 là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Trên cơ sở các quy định của LDN, có thể khẳng định ĐKKD là nghĩa vụ
của các chủ thể muốn kinh doanh và của các cơ quan quản lý nhà nước về


19
ĐKKD. Đối với chủ thể muốn kinh doanh, ĐKKD được hiểu là đăng ký để
được kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận theo quy định của pháp luật,
để được hưởng các quyền lợi hay để thực hiện các nghĩa vụ. Đối với các cơ
quan nhà nước, ĐKKD là việc thực hiện các công việc thuộc trách nhiệm của
mình để thiết lập nên và quản lý một chủ thể pháp lý có mục đích kinh doanh.
Để thành lập một chủ thể pháp lý có chức năng kinh doanh theo quy định của
LDN, chủ thể ĐKKD phải đáp ứng được các điều kiện ĐKKD, hoàn chỉnh hồ
sơ ĐKKD, có nội dung ĐKKD phù hợp và thực hiện các trình tự, thủ tục
ĐKKD. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm kiểm tra các điều kiện ĐKKD,
hồ sơ ĐKKD, nội dung ĐKKD và hướng dẫn các chủ thể ĐKKD thực hiện
các trình tự, thủ tục theo quy định để có căn cứ cho phép hay không cho phép
ĐKKD. Do đó, ĐKKD có thể được hiểu là:
“Đăng ký kinh doanh là việc cá nhân, cơ quan, tổ chức thực
hiện các yêu cầu về điều kiện, nội dung và trình tự thủ tục theo quy
định của pháp luật nhằm thiết lập nên một chủ thể pháp lý (công cụ
pháp lý) có chức năng kinh doanh.”

Trong phạm vi khái niệm này, các chủ thể tiến hành ĐKKD có thể là cá
nhân, tổ chức muốn ĐKKD hoặc là các công chức, cơ quan nhà nước có trách
nhiệm tiến hành ĐKKD. Chủ thể kinh doanh chỉ được hình thành hoặc được
thay đổi nội dung đã ĐKKD khi đáp ứng được các điều kiện về hồ sơ, nội
dung và thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật về
ĐKKD.
Khái niệm ĐKKD nêu trên không được dùng với mục đích duy nhất để
hình thành một doanh nghiệp bởi theo quy định của pháp luật hiện hành thì
ĐKKD không chỉ tạo ra doanh nghiệp hoạt động theo LDN mà còn tạo ra các
chủ thể kinh doanh khác không hoạt động theo LDN và không phải là một


20
loại hình doanh nghiệp như các hộ kinh doanh, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác
xã.
Thuật ngữ ĐKKD sẽ không bị giới hạn bởi quy mô và hình thức ĐKKD,
có nghĩa là ĐKKD sẽ không chỉ được thực hiện đối với các doanh nghiệp mà
còn được thực hiện cả khi ĐKKD hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hộ kinh
doanh.
ĐKKD thành lập mới một doanh nghiệp, chủ thể ĐKKD sẽ được cấp
giấy chứng nhận ĐKKD, giấy chứng nhận ĐKKD chính là sự ghi nhận của
Nhà nước về việc chủ thể kinh doanh đã ĐKKD và cam kết với Nhà nước về
việc sẽ hoàn thành các nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Giấy chứng nhận ĐKKD có bản chất khác với giấy phép kinh doanh,
giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, chứng chỉ hành nghề, chứng nhận
bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp, chứng nhận về vốn pháp định… (gọi
chung là điều kiện kinh doanh). Về mặt chủ thể cấp thì giấy chứng nhận
ĐKKD được cấp thống nhất bởi các Cơ quan nhà nước về ĐKKD (ví dụ như
các Phòng ĐKKD cấp tỉnh và cấp huyện). Tuỳ theo từng ngành nghề, lĩnh
vực mà điều kiện kinh doanh được thực hiện bởi các cơ quan khác nhau dưới

hình thức cấp phép hoặc thẩm định mà không nhất thiết phải do Cơ quan
ĐKKD thực hiện.

1.3.2. Khái niệm pháp luật về đăng ký kinh doanh
ĐKKD và pháp luật về ĐKKD về mặt nội dung có nội hàm khá giống
nhau. Khi nói đến ĐKKD là nói đến những nội dung, hoạt động, thủ tục của
các chủ thể liên quan nhằm thiết lập nên một chủ thể pháp lý có chức năng
kinh doanh hoặc thực hiện các thủ tục hành chính khác liên quan đến tư cách
pháp lý của doanh nghiệp trước Nhà nước và pháp luật. ĐKKD về bản chất là
những hoạt động nhằm mục đích tạo nên mối quan hệ pháp lý giữa một chủ


21
thể kinh doanh và Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật. Trong khi đó
pháp luật về ĐKKD có nội dung là những quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động ĐKKD của các chủ thể. Do đó, trong thực tiễn ĐKKD sẽ có những hoạt
động nhằm mục đích thực hiện ĐKKD nhưng lại chưa được pháp luật về
ĐKKD điều chỉnh. Pháp luật về ĐKKD có thể được hiểu là:
“Pháp luật về đăng ký kinh doanh là tổng thể các quy phạm
pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận bắt buộc áp dụng
và đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh những vấn đề về điều kiện,
nội dung và trình tự thủ tục đăng ký kinh doanh.”
Theo khái niệm này pháp luật về ĐKKD sẽ không chỉ giới hạn trong các
quy định về ĐKKD theo LDN mà sẽ bao gồm cả những quy phạm pháp luật
về ĐKKD được ban hành tại các văn bản pháp luật khác như Luật DNNN,
Luật đầu tư, Luật hợp tác xã Tuy vậy, trong phạm vi luận văn này các quy
định pháp luật được nghiên cứu chủ yếu là các quy định về ĐKKD theo LDN
và một số văn bản có liên quan.
Pháp luật về ĐKKD là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan
hệ xã hội phát sinh giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về ĐKKD với cá

nhân, tổ chức có liên quan về việc đăng ký, thay đổi nội dung ĐKKD tại Việt
Nam. Các quy định của pháp luật về ĐKKD chủ yếu được điều chỉnh đối với
các tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động
kinh doanh tại Việt Nam. Pháp luật về ĐKKD theo nghĩa rộng cũng điều
chỉnh hoạt động kinh doanh và ĐKKD ra nước ngoài của các tổ chức, cá
nhân, tuy vậy trong phạm vi luận văn này tác giả không đi sâu nghiên cứu các
quy định pháp luật về ĐKKD ra nước ngoài mà chỉ tập trung nghiên cứu các
quy định về ĐKKD theo LDN.


22

1.4. Những nguyên tắc cơ bản của pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.4.1. Nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh
Quyền tự do kinh doanh là quyền dân sự – kinh tế quan trọng của mỗi
con người, chúng bắt nguồn từ quyền cơ bản của con người và được coi là
nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Nhà nước Việt Nam đã ghi nhận quyền
này tại Điều 57 của Hiến pháp năm 1992 “công dân có quyền tự do kinh
doanh theo quy định của pháp luật”. LDN năm 1999 và LDN năm 2005 đã cụ
thể hoá quyền tự do kinh doanh trong nội dung của Luật. Doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế có quyền tự do kinh doanh các ngành, nghề mà pháp
luật không cấm (khoản 1 Điều 7 của LDN năm 2005); có quyền tự chủ và
phải tự trách nhiệm trong hoạt động kinh doanh; được lựa chọn, thay đổi hình
thức tổ chức quản lý nội bộ, hình thức đầu tư – kinh doanh phù hợp và được
Nhà nước bảo hộ (Điều 8 của LDN năm 2005). Nhà nước tôn trọng quyền tự
chủ kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp, áp dụng phổ biến chế độ đăng ký
thay cho cấp phép, xoá bỏ những quy định xin cho, phê duyệt, chấp thuận bất
hợp lý gây phiền hà cho doanh nghiệp.

1.4.2. Nguyên tắc đảm bảo quyền bình đẳng giữa các chủ thể kinh

doanh
Quyền bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh có cơ sở từ đặc điểm phổ
quát của pháp luật đó là pháp luật có giá trị áp dụng như nhau đối với mọi đối
tượng chịu sự điều chỉnh mà không có sự phân biệt. Mọi chủ thể kinh doanh
hoạt động trong cùng một môi trường pháp lý sẽ có các quyền và nghĩa vụ
như nhau mà không có sự phân biệt doanh nghiệp lớn hay nhỏ, DNNN hay
doanh nghiệp dân doanh.


23
Thể chế hoá sâu sắc đường lối đổi mới và các chủ trương chính sách đã
được khẳng định tại Đại hội lần thứ IX của Đảng và các Hội nghị của ban
chấp hành Trung ương đảng; nhất là chính sách phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, coi các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng
của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách phát huy
tối đa nội lực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. LDN năm 2005 đã thể
chế hoá mạnh mẽ các nội dung trong các văn kiện nêu trên. Khoản 1 Điều 5
của LDN năm 2005 quy định “Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và phát
triển của các loại hình doanh nghiệp được quy định trong luật này; bảo đảm
sự bình đẳng trước pháp luật của các doanh nghiệp không phân biệt hình
thức sở hữu và thành phần kinh tế; thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt
động kinh doanh”.

1.4.3. Nguyên tắc công khai, minh bạch
Trong các văn bản pháp luật quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc là
thành viên nguyên tắc công khai, minh bạch là những yêu cầu bắt buộc đối
với các cán bộ, công chức và các cơ quan nhà nước. Đối với pháp luật trong
nước nguyên tắc công khai, minh bạch đang dần trở thành một nguyên tắc cơ
bản của cả hệ thống pháp luật Việt Nam. Pháp luật về ĐKKD là một lĩnh vực
pháp luật vừa liên quan đến doanh nghiệp vừa liên quan đến thủ tục hành

chính. Do vậy, việc áp dụng nguyên tắc công khai, minh bạch đối với các
doanh nghiệp và cơ quan nhà nước cũng đang là những yêu cầu cấp bách
nhằm nâng cao hiệu quả của pháp luật về ĐKKD. Nguyên tắc công khai minh
bạch yêu cầu các doanh nghiệp trung thực trong việc ĐKKD, công khai hoá
và minh bạch hoá các hoạt động liên quan đến ĐKKD đặc biệt là khi thay đổi
các nội dung đã ĐKKD. Đối với các công chức, cơ quan nhà nước nguyên tắc
này yêu cầu phải công khai tất cả những luật và quy định liên quan tới


24
ĐKKD, công khai hoá các thủ tục và điều kiện phải thực hiện khi ĐKKD.
Các quy định và thủ tục về ĐKKD phải được người dân tiếp cận một cách dễ
dàng. Bên cạnh đó, các quy định, thủ tục và chính sách có ảnh hưởng và tác
động đến các doanh nghiệp cần phải tham vấn các doanh nghiệp một cách
công khai trước khi được ban hành và có hiệu lực và chỉ những quy định và
thủ tục được tham vấn như vậy mới có hiệu lực. Doanh nghiệp và người dân
có quyền giám sát, đánh giá hoạt động của công chức cũng như của các cơ
quan nhà nước và có quyền thông tin lại cho các cơ quan có thẩm quyền đối
với những hành vi vi phạm pháp luật. Ngoài ra, cần phải có cơ chế tài phán
hiệu quả để xử lý những hành vi lạm quyền của các cán bộ, công chức.

1.4.4. Nguyên tắc chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm
Để tạo cho doanh nghiệp môi trường tự do kinh doanh thì việc can thiệp
của công quyền vào doanh nghiệp càng ngày càng phải được giảm bớt. Bên
cạnh việc giảm bớt những rào cản khắt khe khi gia nhập thị trường cho doanh
nghiệp, phải đồng thời tăng cường trách nhiệm hậu kiểm của các chủ thể liên
quan. Bên cạnh trách nhiệm hậu kiểm của các cơ quan ĐKKD nói riêng và
các cơ quan quản lý nhà nước nói chung, trách nhiệm hậu kiểm còn thuộc về
xã hội, đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, hiệp hội người tiên dùng, các hiệp
hội ngành nghề và các chủ nợ [44, tr 100]. Ngoài ra, chức năng kiểm soát nội

bộ của doanh nghiệp cũng đóng góp tích cực vào cơ chế hậu kiểm. Việc
chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm là nhu cầu tất yếu của nền kinh tế thị
trường vì cơ chế tiền kiểm vừa hạn chế quyền tự do kinh doanh, vừa mang lại
môi trường tiêu cực khi thực hiện. Cơ chế hậu kiểm coi việc khuyến khích,
trợ giúp là một trong những chức năng chính của từng công chức và cơ quan
nhà nước. Quy chế này coi nhà đầu tư, doanh nghiệp là đối tượng phục vụ của
cơ quan hành chính Nhà nước. Trách nhiệm giám sát doanh nghiệp không chỉ


25
là trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước mà còn là trách nhiệm của toàn
xã hội, do đó cần có cơ chế và biện pháp khuyến khích các cơ chế hậu kiểm
ngoài nhà nước hoạt động có hiệu quả. Điều này muốn thực hiện được phải
thay đổi cơ bản phong cách làm việc của từng công chức và từng cơ quan nhà
nước cũng như những quy định và chính sách đối với doanh nghiệp.

1.4.5. Nguyên tắc giảm chi phí gia nhập thị trường
Nguyên tắc giảm chi phí gia nhập thị trường là một nguyên tắc quan
trọng của pháp luật về doanh nghiệp và pháp luật về ĐKKD. Nguyên tắc này
yêu cầu các quy định của pháp luật về ĐKKD nói riêng cũng như các quy
định pháp luật về gia nhập thị trường của doanh nghiệp nói chung phải giảm
đến mức thấp nhất chi phí cho doanh nghiệp khi doanh nghiệp ra nhập thị
trường. Điều này sẽ rất có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp mới lần đầu bước
vào thị trường kinh doanh, đang còn nhiều khó khăn. Thực hiện tốt được
nguyên tắc này sẽ bảo đảm cho việc thành lập doanh nghiệp nhanh chóng với
chi phí thấp, tạo thuận lợi hơn cho gia nhập thị trường. Tuy vậy, nguyên tắc
giảm chi phí gia nhập thị trường chỉ có thể được thực hiện có hiệu quả khi
được thực hiện đồng bộ trên tất cả các quy định về gia nhập thị trường. Giảm
chi phí nếu chỉ được thực hiện trong các quy định về ĐKKD thì sẽ chỉ có ý
nghĩa giảm chi phí ở khâu ĐKKD mà không có nhiều ý nghĩa đối với hoạt

động kinh doanh của doanh nghiệp. Giảm chi phí gia nhập thị trường, chi phí
ĐKKD cần phải được cân nhắc trong mối tương quan với các điều kiện về
ĐKKD và yêu cầu về vốn tối thiểu khi ĐKKD. Mặc dù yêu cầu về vốn tối
thiểu và các yêu cầu về điều kiện ĐKKD không ảnh hưởng trực tiếp đến chi
phí ĐKKD nhưng chúng lại có những ảnh hưởng gián tiếp qua việc bảo đảm
an toàn pháp lý cho thị trường khi ĐKKD. Do đó việc giảm chi phí gia nhập


26
thị trường phải đảm bảo được các doanh nghiệp mới thành lập sẽ vẫn an toàn
cho thị trường và cho những chủ nợ.

1.5. Đặc điểm của pháp luật về đăng ký kinh doanh
1.5.1. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang tính chất lãnh thổ sâu
sắc
Đặc điểm quan trọng của pháp luật về ĐKKD đó là pháp luật về ĐKKD
luôn thể hiện tính chất lãnh thổ sâu sắc. Tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn
kinh doanh tại Việt Nam bắt buộc phải tiến hành ĐKKD theo luật Việt Nam
và ngược lại tổ chức, cá nhân Việt Nam muốn kinh doanh ở nước ngoài phải
ĐKKD theo pháp luật của nước sở tại. Tại các quốc gia khác nhau thủ tục
ĐKKD và đăng ký đầu tư sẽ được tiến hành rất khác nhau và pháp luật mỗi
quốc gia đều khai sinh ra những doanh nghiệp có quốc tịch tại chính quốc gia
đó. Do đó, doanh nghiệp và quốc tịch của doanh nghiệp luôn gắn liền với hệ
thống pháp luật về ĐKKD của mỗi một quốc gia. Pháp luật quốc tế thông
thường vẫn thừa nhận công ty hay doanh nghiệp của các quốc gia nhưng việc
thành lập chủ thể kinh doanh của công ty hay doanh nghiệp đó tại quốc gia
mình phải được thực hiện từ đầu theo pháp luật quốc gia của nước sở tại.

1.5.2. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang đặc điểm của thủ tục
hành chính

Pháp luật về ĐKKD có đặc điểm là một thủ tục hành chính bắt buộc,
trong đó người đại diện doanh nghiệp phải khai trình với cơ quan Nhà nước
và giới kinh doanh về hoạt động kinh doanh của mình. Đăng ký kinh doanh
nhìn ở góc độ quản lý Nhà nước là một hoạt động mang tính chất hành chính,
từ đó Nhà nước ghi nhận cho chủ thể đăng ký được chính thức hưởng các
quyền lợi hay thực hiện nghĩa vụ của một tổ chức kinh doanh. Do đó, để hoạt


27
động kinh doanh được chính thức tuân thủ theo những quy định của pháp luật
thì chủ thể kinh doanh phải ĐKKD theo thủ tục hành chính mà pháp luật đã
quy định.

1.5.3. Pháp luật về đăng ký kinh doanh mang bản chất tư pháp
Pháp luật về ĐKKD còn mang bản chất tư pháp, bởi ĐKKD vừa là sự
ghi nhận của Nhà nước về các quyền và lợi ích mà chủ thể ĐKKD được
hưởng nhưng cũng từ khi ĐKKD, tổ chức kinh doanh được ĐKKD sẽ có
những quyền và nghĩa vụ tư pháp khi tổ chức kinh doanh đó tham gia những
quan hệ tố tụng. Điều này sẽ được thể hiện rất rõ khi tổ chức kinh doanh lâm
vào tình trạng phá sản. Chủ thể ĐKKD là doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã, hộ kinh doanh sẽ chịu ảnh hưởng của các quy phạm pháp luật tố
tụng rất khác so với các chủ thể không ĐKKD. Điều 29 của Bộ luật tố tụng
dân sự quy định tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại
giữa cá nhân, tổ chức có ĐKKD với nhau và đều có mục đích lợi nhuận thì
thuộc thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế (Toà kinh tế). Các tranh chấp
giữa các chủ thể không có ĐKKD hoặc chỉ có một bên có ĐKKD thì sẽ thuộc
thẩm quyền giải quyết các vụ án về dân sự (Xem Điều 29 của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004 và Mục 1 Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-1-
2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định trong Phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật tố

tụng dân sự năm 2004).

1.5.4. Pháp luật về đăng ký kinh doanh vì mục đích kinh tế
Pháp luật về ĐKKD mang mục đích kinh tế, bởi ĐKKD sẽ khai sinh ra
một chủ thể kinh doanh, chủ thể kinh doanh này sẽ có những quan hệ kinh tế
với khách hàng và bạn hàng, từ đó tạo ra những lợi ích kinh tế cho xã hội. Do

×