Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Thực tiễn thi hành pháp luật về giải phóng mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 112 trang )


1

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT








PHAN NGC LONG




THựC TIễN THI HàNH PHáP LUậT
Về GIảI PHóNG MặT BằNG ở TỉNH Hà TĩNH



LUN VN THC S LUT HC













H NI 2012


2


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




PHAN NGỌC LONG



THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ GIẢI PHÓNG MẶT BẮNG Ở TỈNH HÀ TĨNH

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Doãn Hồng Nhung



hµ néi – 2012


4
MC LC




Tran
g

Trang phụ bìa


Li cam oan


Mục lục


Danh mc cỏc ch vit tt



Danh mục phụ lục


M U
1

CHƯƠNG 1: lý luận chung về NHà NƯớC THU HồI ĐấT,
giải phóng mặt bằng Và pháp luật về nhà
n-ớc thu hồi đất, giải phóng mặt bằng


6
1.1.
Khỏi nim v thu hi t
6
1.2.
Khái niệm về giải phóng mặt bằng
8
1.3.
Khỏi nim v bi thng thit hi khi Nh nc thu hi t
9
1.4.
Chính sách hỗ trợ, tái định c- khi Nhà n-ớc thu hồi đất
11
1.5.
Vai trũ ca bi thng, gii phúng mt bng
11
1.5.1.
Bi thng, gii phúng mt bng nhm bo m li ớch cụng cng
11

1.5.2.
Bi thng, gii phúng mt bng nhm gii quyt hi ho gia li
ớch nh nc vi li ớch ca ngi b thu hi t

12
1.5.3.
Bi thng, gii phúng mt bng nhm n nh cuc sng lõu di
cho ngi b thu hi t

12
1.6.
Lc s phỏp lut v bi thng, gii phúng mt bng
13
1.6.1.
Giai on trc khi Lut t ai nm 1993 ra i
13
1.6.2.
Giai on sau khi Lut t ai nm 1993 ban hnh n trc khi
Lut t ai nm 2003 ban hnh

14
1.6.3.
Giai on t khi ban hnh Lut t ai nm 2003 n nay
16
1.7.
Phỏp lut v bi thng, gii phúng mt bng ca Trung Quc v
nhng bi hc kinh nghim cú th hc tp, vn dng Vit Nam

19
1.7.1.

Phỏp lut v bi thng, gii phúng mt bng ca Trung Quc
19
1.7.2.
Nhng bi hc kinh nghim cú th hc tp, vn dng Vit Nam
23
1.8.
Nhng quy nh ca phỏp lut Vit Nam v thu hi t, gii phúng
mt bng

25
1.8.1.
Thm quyn thu hi t
25


5
1.8.2.
Phạm vi và đối tượng được bồi thường khi thu hồi đất, giải phóng
mặt bằng

25
1.8.3.
Nguyên tắc và điều kiện được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất,
giải phóng mặt bằng

26
1.8.4.
Phân loại bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, giải phóng
mặt bằng


28
1.8.5.
Quy định về hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng
32

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THU
HỒI ĐẤT, GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG Ở TỈNH HÀ
TĨNH

37
2.1.
Tình hình về quản lý, sử dụng đất đai và bồi thường, giải phóng mặt
bằng ở tỉnh Hà Tĩnh

37
2.1.1.
Tình hình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh Hà Tĩnh
37
2.1.2.
Tình hình áp dụng các quy định pháp luật về quản lý, sử dụng đất
đai ở tỉnh Hà Tĩnh

38
2.1.3.
Thực tiễn triển khai công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng ở
tỉnh Hà Tĩnh

42
2.1.4.
Tình hình áp dụng các quy định pháp luật về đào tạo nghề khi Nhà

nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng

43
2.1.5.
Tình hình áp dụng các quy định pháp luật về tài chính và áp giá bồi
thường
43
2.2.
Những quy định về bồi thường, giải phóng mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh
44
2.3.
Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về Nhà nước thu hồi đất, giải
phóng mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh

52
2.3.1.
Về thuận lợi trong quá trình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng
52
2.3.2.
Về những khó khăn, tồn tại trong quá trình thu hồi đất, giải phóng
mặt bằng

53
2.4.
Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật về thu
hồi đất, giải phóng mặt bằng ở Hà Tĩnh

54
2.4.1.
Kết quả trong quá trình thực hiện chính sách bồi thường, giải phóng

mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh

54
2.4.2.
Những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thu hồi, giải phóng
mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh

66
2.4.3.
Nguyên nhân của những khó khăn, tồn tại về thu hồi đất, giải phóng
mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh

70

CHƢƠNG
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI



6
3
:


ĐẤT, GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI
ĐẤT, GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG Ở TỈNH HÀ TĨNH


72

3.1.
Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về thu hồi đất, giải
phóng mặt bằng

72
3.1.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về thu hồi đất
73
3.1.2.
Hoàn thiện quy định về bồi thường khi thu hồi đất, giải phóng mặt bằng
75
3.1.3.
Hoàn thiện quy định về chính sách hỗ trợ, tái định cư
76
3.2.
Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về thu hồi đất, giải
phóng mặt bằng

78
3.2.1.
Đẩy mạnh cải cách hành chính
78
3.2.2.
Xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực về giải phóng mặt bằng
79
3.2.3.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, phòng chống
tham nhũng, lãng phí trong giải phóng mặt bằng

80

3.3.
Giải pháp về tổ chức thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng
81
3.4.
Nâng cao hiệu quả giải phóng mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh
83

KẾT LUẬN
87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89

PHỤ LỤC
95



7
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT



BT
: Bồi thường
HT
: Hỗ trợ
TĐC
: Tái định cư
GPMB

: Giải phóng mặt bằng
UBND
: Uỷ ban nhân dân
HN
: Hàng năm
NN
: Nông nghiệp
TS
: Thủy sản



8
DANH MỤC PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Tổng hợp diện tích đất thu hồi của ba dự án nghiên cứu.
Phụ lục 2: Tổng số hộ ảnh hưởng theo loại đất, mức độ bị ảnh hưởng.
Phô lôc 3:
Tæng hîp ®èi t-îng ®-îc båi th-êng vµ kh«ng ®-îc båi th-êng
vÒ ®Êt t¹i ba dù ¸n.
Phụ lục 4: Tổng hợp đơn giá bồi thường đất tại ba dự án.
Phụ lục 5: Tổng hợp đơn giá bồi thường về tài sản tại ba dự án.
Phụ lục 6: Tổng hợp các loại hình và mức hỗ trợ của ba dự án.


9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là cơ sở quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội,

là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là một bộ phận cơ bản của lãnh thổ
quốc gia là yếu tố quan trọng để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đảm bảo
quốc phòng an ninh.
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập,
mở cửa, trong đó, chú trọng đến việc phát triển công nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ v.v , đã thu hút được nhiều chương trình, dự án đầu tư trên tất cả
các lĩnh vực, góp phần phát triển mạnh mẽ về kinh tế- xã hội. Để có điều
kiện cho các chương trình, dự án triển khai có hiệu quả, Nhà nước đã làm tốt
công tác GPMB, thu hồi nhiều diện tích đất đai của hộ gia đình, cá nhân, tổ
chức.
Hiện nay, nhằm đáp ứng đòi hỏi của phát triển kinh tế - xã hội, công
tác quy hoạch đất đai đảm bảo tính bền vững, lâu dài, ổn định, sử dụng có
hiệu quả, đúng mục đích là vấn đề được quan tâm hàng đầu.
Để điều chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực BT, HT,
TĐC, thu hồi đất, GPMB, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
và ngày càng được hoàn thiện, nhất là từ khi Luật Đất đai năm 2003 có hiệu
lực đến nay, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện BT, HT, TĐC, thu hồi đất,
GPMB, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước.
Ở tỉnh Hà Tĩnh, những năm gần đây, nhờ thực hiện nhiều chính sách về
kêu gọi, khuyến khích đầu tư một cách đúng đắn, tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho các nhà đầu tư, nên đã thu hút được nhiều chương trình, dự án trong nước
và ngoài nước, mang tầm trọng điểm Quốc gia, như: Khu kinh tế Vũng Áng;
Dự án Formosa; Thủy lợi Ngàn Trươi - Cẩm Trang; Mỏ sắt Thạch Khê


10
Trong quá trình thực hiện thu hồi đất, GPMB, công tác BT, HT, TĐC
phục vụ cho xây dựng các khu công nghiệp, chương trình, dự án đã đạt được
những thành công nhất định, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tạo điều

kiện phát triển kinh tế, ổn định xã hội
Tuy nhiên, việc thu hồi đất, GPMB, BT, HT, TĐC, nhất là phục vụ
cho các khu công nghiệp, chương trình, dự án nói chung, đang bộc lộ nhiều
khó khăn, vướng mắc, thậm chí có nơi xảy ra khiếu kiện đông người kéo
dài, trở thành “điểm nóng”, đã ảnh hưởng không nhỏ đến tiến độ thực hiện
các chương trình, dự án nói riêng, sự phát triển kinh tế, an sinh xã hội nói
chung. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó phải kể đến
chính sách pháp luật về thu hồi, giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư còn chưa đồng bộ, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đang
diễn ra hiện nay.
Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Thực tiễn thi hành pháp luật về
giải phóng mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài Luận văn Thạc sỹ Luật
học của mình, nhằm góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện pháp luật về
BT, HT, TĐC, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian vừa qua, đã có nhiều công trình nghiên cứu về BT,
GPMB và các bài viết của các nhà khoa học, nhà quản lý được phát hành,
đăng tải, nhưng nghiên cứu về thực tiễn thi hành pháp luật về GPMB với
đặc thù của tỉnh Hà Tĩnh thì chưa có.
Nguyễn Cảnh Quý, Viện Nhà nước và Pháp luật - Học Viện Chính trị-
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã làm Luận án Tiến sỹ Luật học (năm
2001): Hoàn chỉnh Pháp luật đất đai Việt Nam, và chủ biên cuốn sách: Lịch
sử pháp luật đất đai Việt Nam từ năm 1945 đến nay, NXB Chính trị - Hành
chính, Hà Nội 2010; GS, TSKH. Đặng Hùng Võ (2004), Cơ chế bồi thường,
giải phóng mặt bằng, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Luật gia Nguyễn
Thị Mai, Luật gia Trần Minh Sơn: Hỏi đáp pháp luật đất đai về bồi thường,


11
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2005;

Nguyễn Minh, Những điều cần biết về giá đất, bồi thường, hỗ trợ thu hồi
đất, Nxb Tư pháp năm 2005; Nguyễn Vinh Diện (2006), Pháp luật về bồi
thường thiệt hại khi nhà nước thu hồi đất, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Nguyễn Duy Thạch (2007), Pháp luật về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Qua thực tiễn thi
hành tại Thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sỹ Luật học, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội; Lê Công Cường (2008), Hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam, Luận văn
Thạc sỹ, Học viện Chính trị- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh; TS.
Nguyễn Quang Tuyến, Pháp luật về bồi thường, tái định cư của Singapo và
Trung Quốc - Những gợi mở cho Việt Nam hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, tái định cư, Tạp chí Luật học số 10/2010; TS. Trần Quang Huy,
Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí Luật học số 10/2010;
Hoàng Thị Nga (2010), Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt
bằng ở Việt Nam hiện nay: thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ Luật
học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; TS. Nguyễn Thị Nga, Những tồn
tại, vướng mắc phát sinh trong quá trình áp dụng các phương thức bồi
thường khi Nhà nước thu hồi đất, Tạp chí Luật học số 5/2011; PGS, TS.
Phạm Hữu Nghị, Về những điểm mới của Luật Đất đai năm 2003 qua hai
lần sửa đổi, bổ sung, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (2004).
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy, các công trình, bài viết nêu trên mới
đề cập đến việc hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật đất đai về BT, HT,
TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng chưa đi sâu nghiên cứu vào lĩnh vực
thu hồi, BT, HT, TĐC khi tiến hành GPMB để thực hiện các chương trình,
dự án với đặc thù riêng có của tỉnh Hà Tĩnh, là một tỉnh kinh tế còn chưa
phát triển, chủ yếu làm nông nghiệp, một số nơi sống dựa vào nghề rừng,
nghề biển; khí hậu khắc nghiệt, thiên tai thường xuyên xảy ra, sản xuất còn
phụ thuộc nhiều vào yếu tố thời tiết, tự nhiên; tư tưởng người dân còn mang



12
nặng tính dòng họ, làng xã, ngại thay đổi, di chuyển, nên việc chuyển đổi
nghề nghiệp, TĐC rất khó khăn. Hơn nữa, trước tình hình phát triển mạnh
mẽ trên tất cả các lĩnh vực, đang tiến hành hội nhập, mở cửa, có nhiều
chính sách về BT, thu hồi đất, GPMB không phù hợp với thực tiễn ở một số
địa phương, vùng miền nói chung, ở tỉnh Hà Tĩnh nói riêng, đòi hỏi phải
nghiên cứu một cách có hệ thống và phân tích các quy định của pháp luật về
GPMB để hoàn thiện nó.
Trên cơ sở kết quả của các công trình đó nghiên cứu trước đây, tác giả
có sự tổng hợp, kế thừa để nghiên cứu về một số vấn đề pháp lý về GPMB ở
Việt Nam, thực tiễn thi hành pháp luật GPMB ở tỉnh Hà Tĩnh. Từ đó, đưa ra
những nhận định, đánh giá và một số đề xuất giải pháp về lĩnh vực này.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư, thu hồi đất, giải phóng mặt bằng theo quy định của pháp luật
đất đai;
- Phân tích các vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến thực trạng
thu hồi đất, giải phóng mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh;
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hồi
đất, giải phóng mặt bằng nói chung, ở Hà Tĩnh nói riêng trong thời gian tới;
pháp luật về thu hòi đất, giải phóng mặt bằng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về GPMB,
trong đó chú trọng đến quy định của pháp luật đất đai về việc thu hồi đất,
BT, HT, TĐC; thực tiễn thi hành pháp luật về thu hồi đất, GPMB ở tỉnh Hà
Tĩnh trong thời gian qua để thực hiện các chương trình, dự án trọng điểm
(gắn với các văn bản quy phạm pháp luật về thu hồi đất, GPMB mới ban
hành và văn bản quy phạm pháp luật đã áp dụng), tập trung vào Dự án
đường nối Quốc lộ 1A đến mỏ sắt Thạch Khê (từ năm 2007 đến 2009), Dự
án Khu liên hợp gang thép và cảng Sơn Dương của Tập đoàn Hưng Nghiệp

Formosa - Đài Loan (từ năm 2007 đến 2010), Dự án cải thiện môi trường đô


13
thị miền Trung - Tiểu dự án thành phố Hà Tĩnh (từ năm 2007 đến 2009); và
đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động
GPMB; đồng thời về pháp luật thu hồi đất, GPMB.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, Luận văn sử dụng phương pháp thu
thập thông tin, điều tra - tổng hợp và phân tích dữ liệu từ các nguồn văn bản
pháp luật liên quan, tổng hợp thống kê, kết hợp nghiên cứu lý thuyết với
phân tích thực trạng GPMB ở tỉnh Hà Tĩnh (kế thừa những tài liệu, số liệu
của các công trình trước đây, tác giả tham khảo các báo cáo, kiến nghị, đề
xuất của các tổ chức, cá nhân) và đưa ra một số đề xuất giải pháp nâng cao
chất lượng hoạt động GPMB.
6. Kết quả mới của luận văn
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn các quy định về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng.
- Đánh giá các quy định pháp luật hiện hành và đề xuất các giải pháp
để hoàn thiện các quy định của pháp luật về GPMB nói chung, nâng cao
chất lượng công tác GPMB ở tỉnh Hà Tĩnh nói riêng trong thời gian tới.
- Trên cơ sở nghiên cứu về thực tiễn thi hành pháp luật về thu hồi đất,
GPMB ở tỉnh Hà Tĩnh, Luận văn đề xuất bổ sung các quy định của pháp
luật, theo đó cần có quy định bồi thường, hỗ trợ cho ngư dân, những người
sống bằng nghề biển khi Nhà nước lấy mặt biển, ngư trường (cần coi đây là
một dạng mặt bằng nhưng có tính chất riêng biệt, khác với đất liền) để thực
hiện các chương trình dự án (cảng biển, dầu khí ) làm ảnh hưởng đến sản
xuất và đời sống của họ.
7. Kết cấu luận văn

Ngoài lời nói đầu, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Lí luận chung về Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt
bằng và pháp luật về Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt bằng.


14
Chƣơng 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về thu hồi đất, giải phóng
mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh.
Chƣơng 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất, giải phóng
mặt bằng và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về thu hồi đất, giải phóng
mặt bằng ở tỉnh Hà Tĩnh.


15
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT, GIẢI PHÓNG
MẶT BẰNG VÀ PHÁP LUẬT VỀ NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT,
GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG

1.1. Khái niệm về thu hồi đất
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là
nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo ổn định
quốc phòng, an ninh. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: đất đai thuộc sở
hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, Nhà nước giao cho các tổ
chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài, được chuyển quyền sử dụng theo
quy định của pháp luật (Điều 17, Điều 18). Như vậy, chỉ Nhà nước mới có
tư cách là người đại diện sở hữu toàn dân đối với đất đai.
Luật Đất đai năm 2003 đã có nhiều quy phạm pháp luật quy định về
BT, HT, TĐC khi Nhà nước GPMB. Cùng với nó, Chính phủ, các bộ liên

quan đã ban hành nhiều văn bản để điều chỉnh quan hệ phát sinh trong lĩnh
vực này. Ở tỉnh Hà Tĩnh, UBND tỉnh, một số sở, ban, ngành, địa phương
cũng đã ban hành nhiều văn bản để cụ thể hóa chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về BT, HT, TĐC, GPMB nhằm áp dụng có hiệu quả trên
địa bàn.
Điều 4, Luật Đất đai năm 2003 đã giải thích rõ: thu hồi đất là việc
Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc thu
hồi đất đã giao cho tổ chức, UBND xã, phường, thị trấn quản lý.
Có thể hiểu thu hồi đất là tổng hợp những hành vi của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền được tiến hành theo một trình tự, thủ tục theo luật định,
nhằm chấm dứt một quan hệ về đất đai.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, Nhà nước thu hồi đất
trong các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, thu hồi đất vì lý do vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế.


16
Thứ hai, thu hồi đất vì lý do đương nhiên: khi tổ chức được Nhà nước
giao đất không thu tiền sử dụng đất, được Nhà nước giao đất có thu tiền sử
dụng đất mà tiền sử dụng đất có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước hoặc cho
thuê đất thu tiền thuê đất hàng năm bị giải thể, phá sản, chuyển đi nơi khác,
giảm hoặc không còn nhu cầu sử dụng đất; đất được giao không đúng đối
tượng hoặc không đúng thẩm quyền; đất bị lấn, chiếm; cá nhân sử dụng đất
chết mà không có người thừa kế; người sử dụng đất tự nguyện trả lại đất; đất
được Nhà nước giao, cho thuê có thời hạn mà không được gia hạn khi hết thời
hạn.
Thứ ba, thu hồi đất do lỗi của người sử dụng: sử dụng đất không đúng
mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả; cố ý hủy hoại đất; cố ý không
thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước; đất trồng cây hàng năm không được

sử dụng trong thời hạn mười hai tháng liền; đất trồng cây lâu năm không
được sử dụng trong thời hạn mười tám tháng liền; đất trồng rừng không
được sử dụng trong thời hạn hai mươi bốn tháng liền; đất được Nhà nước
giao, cho thuê để thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng trong thời
hạn mười hai tháng liền hoặc tiến độ sử dụng đất chậm hơn hai mươi bốn
tháng so với tiến độ ghi trong dự án đầu tư, kể từ khi nhận bàn giao đất trên
thực địa mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giao
đất, cho thuê đất đó cho phép [28, tr.18-19].
* Phân biệt thu hồi đất với thu hồi các tài sản khác
Giữa thu hồi đất với thu hồi các tài sản khác có những điểm khác
nhau cơ bản sau đây:
- Một là, chủ thể thu hồi đất chỉ là UBND cấp tỉnh và UBND cấp
huyện; còn chủ thể thu hồi các tài sản khác có thể là các cơ quan chức năng
(tòa án, viện kiểm sát, công an, thi hành án ). Vì vậy, chủ thể thu hồi đất
hẹp hơn chủ thể thu hồi các tài sản khác.
- Hai là, khi thu hồi đất có thể người sử dụng đất không có lỗi hoặc có
lỗi; còn thu hồi các tài sản khác thường thì do người bị thu hồi đó có lỗi.


17
- Ba là, trình tự, thủ tục thu hồi đất được tiến hành chặt chẽ, nhiều
công đoạn, công khai, các bên có thể được thỏa thuận một số điều khoản;
còn thủ tục thu hồi tài sản khác tiến hành đơn giản hơn, có khi chỉ cần thực
hiện giữa cơ quan chức năng và người bị thu hồi (không công khai); người
bị thu hồi không được thỏa thuận.
- Bốn là, mục đích của thu hồi đất mang tính tổng thể (phục vụ quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế), còn
thu hồi khác mang tính phục vụ công việc cụ thể nào đó.
1.2. Khái niệm về giải phóng mặt bằng
GPMB là một khái niệm suy rộng của công tác thu hồi đất phục vụ

quốc phòng, an ninh và các dự án phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các
công đoạn từ BT cho đối tượng sử dụng đất, giải toả các công trình trên đất,
di chuyển người dân, tạo mặt bằng cho triển khai các công trình, dự án, đến
việc HT, TĐC cho người bị thu hồi đất, tái tạo lại việc làm, sản xuất, kinh
doanh, ổn định cuộc sống cho họ.
Quá trình thực hiện BT, GPMB luôn phải giải quyết dung hoà mâu
thuẫn về lợi ích của hai nhóm đối tượng: người được giao đất (trong đó có
cả cơ quan nhà nước) luôn tìm cách giảm chi phí BT, GPMB; người bị thu
hồi đất luôn đòi hỏi được trả BT “càng nhiều, càng tốt”, mà trước hết phải là
thoả đáng, mặt khác trong nội bộ những người được BT, có người chấp hành
tốt chính sách pháp luật đất đai, có người chấp hành chưa tốt, do đó, đòi hỏi
phải xử lý công bằng cũng là một việc hết sức khó khăn.
GPMB là vấn đề vừa có tính “thời vụ” vừa mang tính “cấp bách” của
phát triển mà nhiều nước trên thế giới hiện nay cần có đất để phát triển sản
xuất, kinh doanh đang phải đương đầu. Trong những năm gần đây vấn đề
này trở thành trung tâm của dư luận, là một trong những mối quan tâm hàng
đầu của các nhà hoạch định chính sách, nhà quản lý, nhà đầu tư. Thực tiễn
chứng minh rằng, làm tốt công tác GPMB không chỉ tạo được môi trường
thông thoáng cho phát triển, thu hút được đầu tư, mà còn góp phần làm lành


18
mạnh nhiều quan hệ xã hội, củng cố được lòng tin của nhân dân, khắc phục
tệ quan liêu, chống tham nhũng, lãng phí.

1.3. Khái niệm bồi thƣờng thiệt hại khi Nhà nƣớc thu hồi đất
Thuật ngữ bồi thường theo Từ điển Tiếng Việt được hiểu là: đền bù
bằng tiền những thiệt hại về vật chất mà mình phải chịu trách nhiệm [50, tr.82].
Trong lĩnh vực pháp luật, BT được đặt ra khi người này có hành vi
gây thiệt hại cho người khác, quan hệ phát sinh được nhiều ngành luật đề

cập: dân sự, lao động, hôn nhân gia đình, tài chính, ngân hàng
Đối với ngành luật đất đai, bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thực hiện
GPMB đã được quy định từ lâu, tại Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959
của Hội đồng Chính phủ quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất,
Chương II xác định: "Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng".
Từ đó đến nay, qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, Luật Đất đai năm
2003; Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ
hướng dẫn thi hành Luật đất đai năm 2003 (sau đây gọi tắt là Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004); Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày
03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất (sau đây gọi tắt là Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày
03/12/2004); Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ
về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai (sau đây gọi tắt là Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006);
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ về bổ sung về
quy hoạch, sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
(sau đây gọi tắt là Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009), đã quy
định rất rõ về vấn đề này.
Tại Khoản 6, Điều 4, Luật Đất đai năm 2003: "Bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất với diện
tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi".


19
Điều 14, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 quy định: Nhà
nước thu hồi đất của người đang sử dụng có đủ điều kiện quy định thì được
bồi thường.
Như vậy, bồi thường thiệt hại là hậu quả pháp lý trực tiếp của việc
Nhà nước thu hồi đất.
* Phân biệt giữa bồi thƣờng khi Nhà nƣớc giải phóng mặt bằng với

bồi thƣờng thiệt hại dân sự
Quan niệm bồi thường được hiểu là đền bù bằng tiền những thiệt hại
về vật chất và tinh thần mà mình phải chịu trách nhiệm. Giữa bồi thường khi
Nhà nước GPMB với bồi thường thiệt hại dân sự có sự khác nhau ở một số
điểm cơ bản.
Về chủ thể bồi thường: bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, GPMB
là trách nhiệm của Nhà nước (nghĩa vụ) - chủ thể duy nhất; còn chủ thể của
bồi thường thiệt hại trong dân sự thì chủ thể rộng hơn, có thể là tổ chức, cá
nhân, hộ gia đình khi thực hiện nghĩa vụ của mình do có hành vi gây thiệt
hại đối với người khác.
Về chủ thể được bồi thường: đối với bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất, GPMB, chủ thể được BT là người sử dụng đất hợp pháp bị thu hồi và có
đủ các điều kiện theo quy định; còn chủ thể được BT thiệt hại trong dân sự
có thể là bất cứ ai (tổ chức, cá nhân) bị thiệt hại.
Về nguyên tắc và tính chất BT: việc BT khi Nhà nước thu hồi đất,
GPMB thì khi thực hiện phải đảm bảo đầy đủ các điều kiện theo quy định và
ít mang yếu tố thỏa thuận, chủ thể BT có quyền dùng quyết định hành chính
buộc chủ thể được BT thực hiện. Còn BT thiệt hại trong dân sự dựa trên
nguyên tắc theo thỏa thuận giữa chủ thể BT với chủ thể được BT, khi không
thỏa thuận được có thể khởi kiện đến các cơ quan chức năng.
Tính chất việc BT khi Nhà nước thu hồi đất, GPMB vừa bao hàm cả
tính chất hành chính (ra quyết định thu hồi) và tính chất dân sự (BT thiệt hại
về đất, tài sản ) giữa Nhà nước với người sử dụng đất; còn BT thiệt hại


20
trong dân sự chỉ đơn thuần mang tính chất dân sự giữa người có trách nhiệm
với người có quyền lợi. Việc BT khi Nhà nước thu hồi đất, GPMB chỉ được
đặt ra khi người sử dụng đất bị thu hồi, lúc này hậu quả thiệt hại xảy ra
nhưng không mang yếu tố lỗi của Nhà nước (tuy thuật ngữ bồi thường ở đây

gắn với việc Nhà nước phải thực hiện nghĩa vụ do lỗi); còn việc BT thiệt hại
trong dân sự được thực hiện trên cơ sở xác định lỗi và thiệt hại của các bên.
1.4. Chính sách hỗ trợ, tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
Theo Từ điển Tiếng Việt: hỗ trợ là sự giúp đỡ nhau, giúp đỡ thêm vào
[51, tr.457].
Khi người sử dụng đất đai hợp pháp và chấp hành nghiêm chỉnh mọi
quy định của pháp luật thì cũng góp phần vào công tác quản lý Nhà nước về
lĩnh vực đất đai. Vì vậy, Nhà nước tiến hành GPMB, thu hồi đất, người sử
dụng phải di chuyển tài sản, công trình, kéo theo một số thiệt hại nhất định
(nhà cửa, hoa màu), chi phí. Lúc này, Nhà nước với tư cách là quyền lực
công sẽ BT cho người sử dụng đất những thiệt hại theo quy định, nhằm giúp
họ ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất.
Theo Khoản 7, Điều 4, Luật Đất đai năm 2003: Hỗ trợ khi Nhà nước
thu hồi đất làm việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào
tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.
Về tái định cư, Khoản 3, Điều 42, Luật Đất đai năm 2003 chỉ quy định:
"UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập và thực hiện các dự án TĐC
trước khi thu hồi đất để BT bằng nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất mà phải
di chuyển chỗ ở, Trường hợp không có khu TĐC thì người bị thu hồi đất
được BT bằng tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà thuộc sở hữu Nhà nước
đối với khu vực đô thị; BT bằng đất ở đối với khu vực nông thôn ".
Từ những quy định trên, chúng ta có thể hiểu một cách nôm na về
TĐC là: việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải chuẩn bị nơi ở mới, đáp
ứng các điều kiện thuận lợi cho người bị Nhà nước thu hồi đất, GPMB đến
ở, giúp họ sớm ổn định cuộc sống, khôi phục sản xuất, kinh doanh.


21
Thu hồi đất và TĐC là một việc làm để giải quyết các vấn đề mang
tính an sinh xã hội, thể hiện tính nhân văn của Nhà nước ta và tùy tình hình

thực tế mà có các chính sách thực hiện phù hợp.
1.5. Vai trò của bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng
1.5.1. Bồi thường, giải phóng mặt bằng nhằm bảo đảm lợi ích công cộng
Khi tiến hành thu hồi đất, GPMB, Nhà nước có được quỹ đất nhất
định để sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, như: xây dựng hạ tầng cơ
sở; đầu tư các chương trình, dự án, các khu công nghiệp; khu vui chơi, giải
trí
Thêm vào đó, việc BT, HT, TĐC góp phần vào việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng tỷ trọng các ngành mũi nhọn, đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dịch vụ, du lịch đã góp phần
giải quyết việc làm cho đối tượng lao động ở nông thôn.
Điều 38, Luật Đất đai năm 2003, Điều 36, Nghị định số
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 quy định: Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng,
phát triển kinh tế.
1.5.2. Bồi thường, giải phóng mặt bằng nhằm giải quyết hài hoà
giữa lợi ích Nhà nước với lợi ích của người bị thu hồi đất
Khi Nhà nước thu hồi đất, GPMB vì mục đích công cộng, bên cạnh
những mặt được (phát triển hạ tầng cơ sở; công nghiệp; giải trí ) thì cũng
có thể gây ra thiệt hại không nhỏ cho người bị thu hồi đất (mất đất, tài sản,
chi phí ), ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ và gia đình họ. Vì vậy,
nếu không làm tốt việc BT, HT, TĐC thì người bị thu hồi đất sẽ rất khó
khăn trong tạo lập cuộc sống mới, có khi không bằng như khi chưa bị thu
hồi đất.
Giải quyết hài hòa quan hệ giữa lợi ích của người bị thu hồi đất với
lợi ích của Nhà nước là vấn đề vừa đảm bảo cho việc hoạch định, phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, với bảo vệ các quyền lợi hợp
pháp của người sử dụng đất khi GPMB.



22
1.5.3. Bồi thường, giải phóng mặt bằng nhằm ổn định cuộc sống
lâu dài cho người bị thu hồi đất
Như đã trình bày ở trên, khi Nhà nước thu hồi đất, giải phóng mặt
bằng, người sử dụng đất hợp pháp phải di chuyển chỗ ở, thay đổi công
việc có thể gặp khó khăn trong cuộc sống, trong sản xuất, kinh doanh, vì
họ phải tạo lập gần như từ đầu. Để những người trong diện GPMB có điều
kiện ổn định cuộc sống lâu dài, Nhà nước thực hiện chính sách hỗi trợ, tái
định cư phù hợp, với phương châm TĐC phải hơn hẳn hoặc ít nhất phải
bằng nơi ở cũ, làm cho họ an tâm, tự giác chấp hành chính sách, pháp luật,
tập trung khôi phục sản xuất, kinh doanh, tạo lập cuộc sống nơi ở mới, tránh
được những vụ khiếu kiện.
1.6. Lƣợc sử pháp luật về bồi thƣờng, giải phóng mặt bằng
1.6.1. Giai đoạn trước khi Luật Đất đai năm 1993 ra đời
1.6.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1986
Sau khi giành chính quyền từ Thực dân Pháp thuộc địa năm 1945 đến
trước năm 1986, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, một mặt chúng ta phải tập trung xây dựng chính quyền non trẻ,
một mặt chống xâm lược, thống nhất Đất nước. Do đó, việc quan tâm đến
đất đai chưa đúng mức, nên các văn bản phát luật đất đai về BT, HT, TĐC,
GPMB chưa được chú trọng ban hành; ban hành chậm, giản đơn, chắp vá,
không có hệ thống.
Văn bản đầu tiên về BT, thu hồi đất là Điều lệ số 599-TTg ngày
9/10/1955 của Thủ tướng Chính phủ về cải cách ruộng đất ngoại thành,
trong đó Điều 9 quy định: "Khi nào Nhà nước cần lấy ruộng đất để kiến thiết
Thành phố thì Nhà nước sẽ thu xếp công ăn việc làm cho những người có
đất bị lấy hoặc bù cho một số ruộng đất ở nơi khác và sẽ bồi thường cho họ
một cách thích đáng về những ruộng đất bị lấy" [14, tr.1].
Tiếp đến, ngày 14/4/1959, Chính phủ ban hành Nghị định số 151/TTg
quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất (gồm 3 chương, 14 điều).

Theo đó, Điểm a, Điều 1, Nghị định này quy định: những người có ruộng


23
đất bị trưng dụng được bồi thường và trong trường hợp cần thiết được giúp
giải quyết công ăn việc làm [5, tr.1].
Đặc biệt, tại Điều 18, Hiến pháp năm 1959 đã quy định: "Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu của công dân về của cải, thu nhập hợp pháp, của cải để
dành, nhà ở và các thứ vật dụng riêng khác"; và Điều 20, Hiến pháp năm
1959: "chỉ khi nào cần thiết vì lợi ích chung, Nhà nước mới trưng mua hoặc
trưng dụng, trưng thu có bồi thường thích đáng các tư liệu sản xuất ở thành
thị và nông thôn trong phạm vi và điều kiện do pháp luật quy định".
1.6.1.2. Giai đoạn từ năm 1986 đến khi Luật Đất đai năm 1993 ban hành
Giai đoạn này, chúng ta đã xác định đất đai là một trong những nguồn
lực quan trọng để phát triển kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Lần đầu tiên Luật Đất đai năm 1987 và nhiều văn bản hướng dẫn thi
hành luật đất đai được ban hành. Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư đã được đề cập, tuy nhiên, nó chưa được chú trọng, chỉ được đặt ra một
cách rất hạn chế, còn chung chung. Theo đó, bồi thường thiệt hại thực tế cho
người đang sử dụng đất bị thu hồi để bàn giao cho mình, bồi hoàn thành quả
lao động và kết quả đầu tư đã làm tăng giá trị của đất đó theo quy định của
pháp luật; người được Nhà nước giao đất có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại thực
tế cho người bị thu hồi đất (Khoản 5, Điều 48, Luật Đất đai năm 1987); người
bị thu hồi đất được BT thiệt hại thực tế, được bồi hoàn thành quả lao động, kết
quả đầu tư đã làm tăng giá trị của đất (Điều 49, Luật Đất đai năm 1987).
Để cụ thể hóa Luật Đất đai năm 1987 trong lĩnh vực bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, đã có một số văn bản dưới luật
được ban hành, như: Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/5/1990 của Hội
đồng Bộ trưởng về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển

sang sử dụng vào mục đích khác (kèm theo bảng định mức đền bù); Thông
tư số 13/TC-ĐT ngày 2/3/1993 của Bộ Tài chính hướng dẫn sửa đổi, bổ


24
sung về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử
dụng vào mục đích khác.
1.6.2. Giai đoạn sau khi Luật Đất đai năm 1993 ban hành đến trước
khi Luật Đất đai năm 2003 ban hành
Năm 1993, Luật Đất đai được ban hành là đột phá đánh dấu một bước
phát triển mới kể cả về quy mô và chất lượng lập pháp nước ta; lần đầu tiên
trong lịch sử, quyền lợi của người sử dụng đất hợp pháp bị thu hồi được ghi
nhận. Điều 27, Luật Đất đai năm 1993 quy định: "Trong trường hợp thật cần
thiết, Nhà nước thu hồi đất đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì
người bị thu hồi đất được đền bù thiệt hại".
Tiếp đến, nhiều văn bản pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất được ban hành, tiêu biểu như:
Nghị định số 87/CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ quy định về khung
giá các loại đất để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền sử dụng đất khi
giao đất, cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt hại về
đất khi Nhà nước thu hồi đất phát sinh từ sau 15/10/1993 trở đi nếu chưa được
giải quyết. Thông tư số 94/TTLB ngày 14/11/1994 liên bộ Ban Vật giá Chính
phủ - Tài chính - Xây dựng - Tổng cục địa chính hướng dẫn thi hành Nghị định
số 87/CP ngày 17/8/1994 quy định khung giá các loại đất.
Riêng vấn đề BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 90/CP ngày 17/8/1994 về việc đền bù thiệt hại khi
Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng. Theo Nghị định này, người được Nhà nước giao
đất sử dụng vào mục đích nào, thì khi Nhà nước thu hồi đất được đền bù

bằng cách giao đất có cùng mục đích sử dụng để thay thế hoặc đền bù theo
giá đất cùng mục đích sử dụng. Nghị định này quy định rất cụ thể về đối
tượng và phạm vi áp dụng; đền bù thiệt hại về đất; đền bù thiệt hại về tài sản


25
và tổ chức thực hiện đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Quyết định số 302/TTg ngày 13/5/1996 của Thủ tưởng Chính phủ về
việc điều chỉnh hệ số (K) trong khung giá đất ban hành theo Nghị định số
87/CP ngày 17/8/1994. Theo đó, tại Điều 1 quy định: trong trường hợp cùng
một loại đô thị mà đất có khả năng sinh lợi khác nhau, mức độ hoàn thiện cơ sở
hạ tầng khác nhau thì địa phương được phép vận dụng hệ số (K) từ 0.5 đến 1.8
lần mức giá cùng loại đô thị, cùng loại đường phố và vị trí đất [33, tr.1].
Tiếp đến, Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính
phủ về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích
quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Thông tư số
145/1998/TT-BTC ngày 04/11/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành
Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 được ban hành quy định
nhiều vấn đề về BT, thu hồi đất, GPMB.
Luật Đất đai sửa đổi bổ sung một số điều năm 2001 được Quốc hội
thông qua ngày 29/6/2001 đã sửa đổi quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất: Chính phủ quy định về khung giá các loại
đất cho từng vùng, theo từng thời gian và nguyên tắc, phương pháp xác định
các loại đất; trong trường hợp cần thiết, Nhà nước thu hồi đất để sử dụng
vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì
người bị thu hồi được BT hoặc HT; sửa đổi các cụm từ "bồi thường thiệt
hại" (Điều 73), "đền bù thiệt hại" (Điều 28), "đền bù" (Điều 29) thay bằng
cụm từ "bồi thường" [14, tr.39-40].
Như vậy, trong vòng 10 năm (từ 1993- 2003), chúng ta đã ban hành

rất nhiều văn bản pháp luật, tạo thành một hệ thống quy phạm pháp luật đất
đai, pháp luật về BT, HT, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất.
1.6.3. Giai đoạn từ khi ban hành Luật Đất đai năm 2003 đến nay
Trước yêu cầu của thực tiễn đặt ra, khi chúng ta đẩy mạnh công cuộc
đổi mới, tiến hành hội nhập, mở cửa; tình hình phát triển mạnh mẽ trên tất


26
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhiều quy định của pháp luật đất đai về
BT, HT, TĐC, GPMB lúc này không còn phù hợp, chẳng hạn như: giá bồi
thường chênh lệch quá lớn so với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên
thị trường; vấn đề hỗ trợ, đào tạo nghề cho người bị thu hồi đất, xây dựng
các khu tái định cư Điều này đã đặt ra yêu cầu phải sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện pháp luật đất đai, nhất là về bồi thường, GPMB.
Ngày 26/11/2003 Luật Đất đai được Quốc hội thông qua, thay thế
Luật Đất đai năm 1993, vấn đề BT, HTT, TĐC, GPMB được phát triển hơn,
có nhiều thay đổi, quy định cụ thể như: tại Khoản 1, Điều 39: Nhà nước thực
hiện việt thu hồi đất, BT, GPMB sau khi có quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất; Điều 42 quy định chi tiết về điều kiện được bồi thường, phương thức
bồi thường; quy định về xây nhà tái định cư cho người có đất bị thu hồi, các
loại hỗ trợ, tạo việc làm, Sự ra đời của Luật Đất đai năm 2003 có ý nghĩa
quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất, tạo môi
trường pháp lý thông thoáng, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt
Nam.
Cùng với Luật Đất đai năm 2003, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP
ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Đất đai
năm 2003 được ban hành, góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật
đất đai đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của xã hội.
Để thuận tiện cho việc áp dụng Luật Đất đai năm 2003 về BT,
GPMB, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày

03/12/2004 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất. Nghị định này đã quy định rất cụ thể về: phạm vi BT thiệt hại cho người
bị Nhà nước thu hồi đất (Điều 5); đối tượng được BT (Điều 8); các quy định
cụ thể về BT đất (Điều 9); về chính sách hỗ trợ (Điều 27-29), Ngày
07/12/2004 Bộ Tài Chính ban hành Thông tư số 116/2004/TT-BTC hướng
dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004.
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy

×