Tải bản đầy đủ (.doc) (140 trang)

Nâng cao hiệu quả đánh giá tác động dự thảo văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (926.07 KB, 140 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Cao Phan Long
1
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
MỤC LỤC 2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
MỞ ĐẦU 5
1. Tính cấp thiết của đề tài 5
2. Tình hình nghiên cứu 6
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 7
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu 8
5. Những nét mới của luận văn 8
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn 9
7. Kết cấu của luận văn 9
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG 11
DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 11
1.1. Khái niệm chung 11
1.1.1. Văn bản QPPL và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật 11
1.1.2. Đánh giá tác động dự thảo văn bản quy phạm pháp luật 13
1.2. Cở sở của đánh giá tác động pháp luật 18


1.2.1. Cở sở lí luận 18
1.2.2. Cở sở thực tiễn 20
1.3. Vai trò của RIA 23
1.4. Đặc điểm của RIA 24
1.4.1. Nguyên tắc thực hiện RIA 24
1.4.2. Phạm vi của RIA 26
1.4.3. Quy trình RIA 30
1.5. Mục đích, ý nghĩa của RIA 31
1.6. Báo cáo RIA 34
1.6.1. Báo cáo RIA ban đầu 34
1.6.2. Báo cáo RIA đầy đủ/cuối cùng 35
1.7. Mối quan hệ giữa RIA và phân tích chính sách 37
1.7.1. Khái niệm 37
1.6.2. Phân tích chính sách trong chu trình chính sách[11] 39
1.6.3. RIA, một công cụ phân tích chính sách 40
1.7. Kinh nghiệm của một số nước thuộc khối OECD về thực hiện RIA 41
2
1.7.1. Phạm vi đánh giá tác động 41
1.7.2. Nội dung đánh giá tác động 44
1.7.3. Quy trình thực hiện 50
1.7.4. Chủ thể đánh giá tác động và trách nhiệm của các cơ quan 53
1.7.5. Bài học rút ra từ kinh nghiệm của các nước 55
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG DỰ THẢO VĂN BẢN QUY
PHẠM PHÁP LUẬT Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 58
2.1. Thực trạng quy định về đánh giá tác động đối với chính sách, pháp luật ở Việt Nam
trước khi có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 58
2.1.1 Thực trạng pháp luật 58
2.1.2 Một số ví dụ cụ thể về việc tổng kết thực tiễn, lập dự báo tác động pháp luật khi
xây dựng chính sách, pháp luật 64
2.2. Thực trạng quy định về đánh giá tác động đối với chính sách, pháp luật ở Việt Nam

theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 77
2.3. Thực tiễn đánh giá tác động của dự thảo văn bản quy phạm pháp luật 85
2.3.1. Báo cáo đánh giá tác động của dự thảo pháp lệnh và dự thảo nghị định 94
2.3.2. Báo cáo đánh giá tác động của một đạo luật 96
2.4. Nhận xét chung 108
2.5. Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện RIA ở Việt Nam 110
CHƯƠNG 3. NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG 113
DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM 113
3.1. Hoàn thiện các quy định về đánh giá tác động pháp luật 113
3.2. Thành lập cơ quan có chức năng giám sát RIA ở trung ương 114
3.3. Triển khai RIA ở giai đoạn sớm nhất 115
3.4. Tăng cường đánh giá chuyên môn của các nhà khoa học 115
3.5. Xây dựng năng lực để nâng cao nhận thức, kỹ năng và kiến thức 116
3.6. Đảm bảo cho hoạt động thu thập dữ liệu và chuẩn mực chất lượng dữ liệu 117
3.7. Lựa chọn phương pháp phân tích RIA hiệu quả 118
3.8. Nâng cao hiệu quả báo cáo RIA 119
KẾT LUẬN 123
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 125
PHỤ LỤC 1 130
PHỤ LỤC 2 131
PHỤ LỤC 3 132
PHỤ LỤC 4 133
133
3
PHỤ LỤC 5 134
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
RIA Regulatory impact assessement
VBQPPL Văn bản quy phạm pháp luật
QPPL Quy phạm pháp luật
PTCS Phân tích chính sách

ĐBQH Đại biểu quốc hội
4
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lần đầu tiên đánh giá tác động pháp luật (Regulatory Impact
Assessment, gọi tắt là RIA) được áp dụng trên thế giới là vào giữa những năm
1970 tại Mỹ dưới thời Tổng thống Ford do có lo ngại về gánh nặng quy định
pháp luật đè lên vai xã hội, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, cộng với lo
ngại điều đó có thể làm gia tăng lạm phát[46]. Lúc đầu, người ta chỉ chú ý
phân tích tác động đối với doanh nghiệp sau đó mới chú ý đánh giá tác động
đến chủ thể khác. Đến nay RIA đã được áp dụng ở đại đa số các nước thuộc
OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (Organization for Economic
Co-operation and Development), thành lập năm 1961 trên cơ sở Tổ chức Hợp
tác Kinh tế Châu Âu (OEEC) với 20 thành viên sáng lập gồm các nước có nền
kinh tế phát triển trên thế giới như Mỹ, Canada và các nước Tây Âu. Hiện
nay, số thành viên của OECD là 30 quốc gia, gồm Mỹ, Canada, Áo, Bỉ, Đan
Mạch, Pháp, Đức, Hy Lạp, Iceland, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Nhật
Bản, Phần Lan, Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Mexico, Cộng hòa Séc,
Hungary, Ba Lan, Cộng hòa Slovakia), nhiều nước châu Âu chuyển đổi, châu
Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh.
Ở Việt Nam hiện nay, RIA là một khái niệm mới, đang từng bước được
nhận thức và áp dụng. Nghiên cứu về RIA còn là một lĩnh vực mới mẻ, chưa
có các nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống, toàn diện và sâu sắc.
Hiện nay, trong hệ thống pháp luật của nước ta còn nhiều văn bản, chính
sách hoặc quy định nào đó trong một văn bản không có tính khả thi, rất khó
để áp dụng trên thực tế. Nguyên nhân của thực trạng trên có thể bắt nguồn từ
nhiều khía cạnh, song theo nhận định của nhiều chuyên gia, nguyên nhân
chính nằm ở chỗ chính sách, văn bản đưa ra mang tính chủ quan, áp đặt mà
5

thiếu một hoạt động đánh giá, nghiên cứu tác động mang tính khoa học, khách
quan.
Trong nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, không
thể đứng ngoài dòng chảy pháp luật chung của thời đại. Vì vậy, tiếp thu tinh
hoa, kinh nghiệm của các nhà nước trên thế giới trong lĩnh vực xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật là một đòi hỏi khách quan. Trong số những
thành tựu, kinh nghiệm gần đây của việc xây dựng pháp luật trên thế giới thì
hoạt động đánh giá tác động pháp luật đã chứng tỏ hiệu quả và những ưu việt
đáng để chúng ta tìm hiểu, học hỏi.
Nếu nghiên cứu về hiệu quả pháp luật là đi tìm câu trả lời cho hiệu quả
của chính sách, văn bản tồn tại trên thực tế, “trạng thái của hành vi và trạng
thái của ý thức pháp luật sau khi có sự tác động điều chỉnh của pháp luật”[13],
hơn thế, nó còn có thể có những hậu quả đã phát sinh, thì đánh giá tác động
pháp luật là việc dự liệu, lường trước những hệ quả và cả hậu quả ấy, không
để nó tạo ra những ảnh hưởng xấu, nhiều khi việc khắc phục rất khó khăn và
tốn kém.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói, “đánh giá tác động pháp luật” là một vấn đề mới, phức tạp và
cấp thiết, mang tính lí luận và thực tiễn của luật học. Nghiên cứu vấn đề này
không chỉ có ý nghĩa trong công tác xây dựng pháp luật mà còn để hạn chế,
lường trước những hệ quả xấu có thể phát sinh trên thực tế, những quy phạm
pháp luật đưa ra thiếu tính khả thi.
RIA là vấn đề mới ở Việt Nam, vì vậy chưa có một công trình khoa học
nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc về vấn đề này ở nước ta. Tuy vậy,
đã xuất hiện một số bài báo khoa học, hội thảo nghiên cứu về đánh giá tác
động pháp luật và việc áp dụng nó ở Việt Nam. Trong hệ thống các bài nghiên
cứu đã công bố, vấn đề đánh giá tác động pháp luật cũng hiếm khi được thể
6
hiện như là một đề tài độc lập mà nó thường được đề cập đến trong các bài
viết bàn về đổi mới quy trình lập pháp, quy trình làm luật, hoặc ít nhiều được

nhắc thoáng qua trong các bài viết bàn đến vấn đề các văn bản pháp luật thiếu
tính khả thi, thiếu sức sống trên thực tế.
Một số bài tiêu biểu như một số bài viết sau:
- Các bước làm luật: ở người và ở ta. Tác giả: Nguyễn Đức Lam;
- Một số yếu tố cơ bản tác động đến cơ chế xây dựng và thực hiện pháp
luật trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Tác giả: TS.
Phạm Tuấn Khải;
- Một số nhận xét về thực tiễn ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Tác giả: Phạm Thúy Hạnh;
- Phân tích chính sách-công đoạn quan trọng của quy trình lập pháp. Tác
giả: TS. Nguyễn Sỹ Dũng;
- Những câu hỏi dành cho lập pháp thời hội nhập. Tác giả: TS. Nguyễn
Thị Kim Thoa.

Trong thời gian gần đây, vấn đề đánh giá tác động pháp luật đã thu hút
được sự quan tâm nhiều hơn của các nhà nghiên cứu, đã xuất hiện một công
trình nghiên cứu tương đối toàn diện về vấn đề này, tuy mang tính đào tạo
thực hiện cho các cán bộ, người làm công tác đánh giá tác động pháp luật:
“Thực hiện hiệu quả quy trình đánh giá dự báo tác động pháp luật tại
Việt Nam”. Tác giả: Raymond Mallon và Lê Duy Bình.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu là đưa ra được một cái nhìn có tính hệ
thống, khoa học, sâu sắc và toàn diện về RIA, những vấn đề đặt ra về mặt lí
luận và thực tiễn trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đưa ra
những khuyến nghị về chính sách, những đảm bảo thực tiễn cho RIA trở
7
thành một hoạt động có vai trò quan trọng trong việc ban hành chính sách,
văn bản pháp luật ở Việt Nam.
RIA nói chung và đánh giá tác động của dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật, trong đó khái niệm pháp luật cần đánh giá ở đây có một nội hàm rất

rộng. Các văn bản chứa đựng quy phạm và các văn bản quản lí không chính
thức như các hướng dẫn tổ chức thực hiện, các thông lệ, các chương trình, kế
hoạch có tác động quan trọng trong đời sống pháp lí, xã hội ở Việt Nam. Tuy
nhiên, trong phạm vi luận văn này, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu việc đánh giá
tác động pháp luật đối với các văn bản quy phạm pháp luật quan trọng, cụ thể
hơn là các đạo luật, pháp lệnh, các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành mà cụ thể ở đây là các Nghị định của Chính phủ. Đây là các văn bản quy
phạm pháp luật ở tầm vĩ mô, có tác động, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống xã
hội.
4. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, các tư tưởng, quan điểm
mang tính nguyên tắc của Đảng về đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
xây dựng nhà nước pháp quyền, các tư tưởng, quan điểm về luật học tiến bộ
và hiện đại trên thế giới.
Phương pháp luận được sử dụng để giải quyết những vấn đề đặt ra trong
luận văn là: phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp
phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê và phương pháp mô
hình hóa.
5. Những nét mới của luận văn
Đây là công trình chuyên khảo trong khoa học pháp lí nước ta về đánh
giá tác động pháp luật, những vấn đề lí luận và thực tiễn đối với Việt Nam
một cách tương đối toàn diện và có hệ thống.
8
Luận văn làm rõ khái niệm về đánh giá tác động pháp luật và đánh giá
tác động dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, những vấn đề lí luận về đánh
giá tác động pháp luật trên thế giới và ở Việt Nam.
Luận văn phân tích thực trạng của hoạt động RIA ở nước ta, trong mối
quan hệ với quy trình lập pháp, từ đó đề ra phương hướng áp dụng, hoàn thiện
việc đánh giá tác động của dự thảo luật phù hợp với hệ thống pháp luật Việt

Nam, nâng cao hiệu quả của hoạt động này, góp phần nâng cao hiệu quả và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội.
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ quá trình hình thành, phát triển và nội
dung của hoạt động RIA; khắc họa được toàn cảnh hoạt động RIA trên thế
giới và ở nước ta hiện nay; chỉ ra được những điểm tiến bộ và cả những điểm
chưa hợp lí trong các quy định của pháp luật về RIA, thực trạng của hoạt
động đánh giá tác động pháp luật, trong mối quan hệ với quy trình lập pháp,
những vướng mắc, hạn chế và đề xuất một số hướng hoàn thiện, khắc phục,
góp phần cho hoạt động này diễn ra một cách khoa học, hiệu quả, nâng cao
hiệu quả hệ thống pháp luật Việt Nam, hạn chế các chính sách gây lãng phí,
khó thực thi, vấp phải sự phản ứng của xã hội, của đối tượng áp dụng.
Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luận học và phần
nào có ý nghĩa đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực pháp luật
để tìm hiểu, vận dụng để xây dựng quy định và thực thi hoạt động đánh giá
tác động pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn này gồm phần mở đầu, ba chương và phần kết luận.
Chương 1. Những vấn đề lí luận về đánh giá tác động dự thảo văn bản
quy phạm pháp luật
9
Chương 2. Thực trạng đánh giá tác động dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật ở nước ta trong thời gian qua.
Chương 3. Nâng cao hiệu quả đánh giá tác động dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật ở Việt Nam.
10
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
DỰ THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT
1.1. Khái niệm chung

1.1.1. Văn bản QPPL và dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Văn bản pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật nói riêng là
công cụ quan trọng hàng đầu trong thực hiện quản lí nhà nước, đồng thời
cũng là văn bản ghi nhận, bảo đảm quyền công dân, duy trì trật tự xã hội và là
động lực của sự thịnh vượng chung. Văn bản quy phạm pháp luật có tác động
sâu rộng đến đời sống xã hội, ảnh hưởng lớn đến xu hướng phát triển và tồn
tại của xã hội. Văn bản quy phạm pháp luật là sản phẩm của một công nghệ,
công nghệ làm luật, vì vậy chất lượng và hiệu quả của văn bản quy phạm
pháp luật cũng đồng thời phản ánh trình độ và mức độ phát triển, chất lượng
của công nghệ ấy.
Theo Điều 1, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008,
“Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc
phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy
định trong Luật này hoặc trong Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật
của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, trong đó có quy tắc xử sự chung,
có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh
các quan hệ xã hội”.
Từ khái niệm trên có vài đặc điểm của văn bản QPPL được rút ra: (i) chủ
thể ban hành phải có mặt cơ quan nhà nước trong vai trò chủ thể duy nhất
hoặc phối hợp, không có cá nhân, dù là cá nhân có thẩm quyền riêng trong cơ
quan nhà nước, được ban hành văn bản QPPL, dù ngay tại Điều 2 luật này
quy định nhiều loại văn bản QPPL do cá nhân có thẩm quyền ban hành; (ii)
trình tự, thủ tục ban hành văn bản phải tuân thủ theo quy định của luật (Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và Luật Ban hành văn bản quy phạm
11
pháp luật của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân), mặc dù chưa có luật cứ
thuyết phục nào về việc phải tách riêng hai loại văn bản này, cùng là văn bản
QPPL; (iii) tính áp dụng nhiều lần và bắt buộc thực hiện bằng quyền lực nhà
nước, các quy định này mang tính quy phạm, đưa ra các xử sự chung và được
đảm bảo thực hiện trên thực tế bằng cưỡng chế nhà nước.

Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, theo phạm vi nghiên cứu của luận
văn, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật được xem xét, đánh giá dưới góc độ
của RIA là các dự thảo luật, bộ luật, các nghị định của Chính phủ theo quy
định tại Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008. Các văn bản
quy phạm pháp luật này có tầm tác động, ảnh hưởng đến toàn xã hội, điều
chỉnh các quan hệ xã hội trên phạm vi cả nước, chính vì vậy, đó là các văn
bản rất cần phải thực hiện RIA trong quá trình xây dựng, ban hành. Ngoài các
văn bản quy phạm pháp luật kể trên, văn bản quy phạm có phạm vi điều chỉnh
trên cả nước còn phải kể đến các văn bản như: Thông tư của Bộ trưởng các
bộ, quyết định của Tổng kiểm toán nhà nước, thông tư của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Nghị quyết của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, các thông tư liên tịch… (Điều
17 đến Điều 20 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008). Tuy
vậy, xét về tính chất, các quy định đó thường là những quy phạm chuyên sâu,
không được đưa vào phạm vi nghiên cứu của luận văn này.
Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là một thuật ngữ pháp lí chưa được
định nghĩa một cách chính thức. Ngay trong Luật Ban hành văn bản QPPL
năm 2008, không có khái niệm về một dự thảo văn bản QPPL. Dự thảo văn
bản QPPL trước hết là một đề nghị pháp luật được đưa ra bởi cơ quan/người
có trách nhiệm để cơ quan lập pháp hoặc người có thẩm quyền lập quy ban
hành, trở thành văn bản QPPL áp dụng chung cho các quan hệ xã hội mà nó
hướng tới, điều chỉnh. Điều cần nhấn mạnh là, dự thảo văn bản QPPL không
12
phải là một đề nghị pháp luật riêng lẻ, thông thường theo cách hiểu của ngôn
ngữ cuộc sống, hơn thế, đó là một chỉnh thể văn bản được sắp xếp theo cấu
trúc pháp lí, một đạo luật của tương lai. Thông thường, cơ quan/người có
trách nhiệm đề xuất một dự luật hay một văn bản QPPL có thể chủ động đề
nghị hoặc được chỉ định thực hiện soạn thảo để thực hiện công việc của mình,
soạn thảo ra một dự luật hay một dự thảo văn bản QPPL. Dự thảo văn bản
QPPL chứa đựng các QPPL được người soạn thảo đề xuất, nó là cơ sở ban

đầu đề cơ quan lập pháp, người có thẩm quyền lập quy đưa ra thảo luận, nhận
xét, đánh giá, góp ý trước khi chính thức thừa nhận, thông qua, ban hành để
trở thành văn bản QPPL.
1.1.2. Đánh giá tác động dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
Đánh giá tác động pháp luật, là một khái niệm mới ở Việt Nam, được
tiếp thu từ quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của các quốc gia tiên
tiến trên thế giới. Với ý nghĩa chung nhất, RIA là phương pháp đánh giá chi
phí, lợi ích của những tác động có thể xảy ra đối với các nhóm trong xã hội,
các khu vực, hoặc toàn bộ xã hội và nền kinh tế từ sự thay đổi chính sách
pháp luật, được thực hiện trong quá trình làm luật, sửa đổi bổ sung các quy
định pháp luật hoặc ban hành chính sách mới. Đặc biệt, điều quan trọng, cơ
bản nhất là nó đưa ra nhiều giải pháp khác nhau; nghiên cứu, phân tích, đánh
giá, so sánh tác động của các giải pháp, từ đó cung cấp thông tin cho các cơ
quan có thẩm quyền, để họ có thể lựa chọn được giải pháp tốt nhất.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, yêu cầu về đánh giá tác
động điều chỉnh của quy phạm pháp luật trong quy trình lập pháp đã được quy
định trong một đạo luật - luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2008. Lời lẽ, ý tứ của Luật cho thấy, các nhà soạn thảo chỉ đề cập đến việc áp
dụng RIA đối với việc xây dựng một phương án lập pháp mới, trong đó có cả
13
phương án sửa đổi. Nhưng Luật không nói đến tiến hành RIA đối với văn bản
quy phạm pháp luật sau ban hành.
Trong khi đó, ở nhiều nước trên thế giới RIA có thể được tiến hành ở các
công đoạn khác nhau. Đó là:
(i). Khi xem xét sự cần thiết ban hành văn bản, RIA được tiến hành để
xác định các phương án, so sánh tác động của chúng, từ đó xác định phương
án tối ưu
(ii). Trong quá trình soạn thảo dự thảo phương án đã được lựa chọn, RIA
được tiến hành để phân tích xem mục đích ban hành có đạt được một cách tối
ưu trong dự thảo hay không; các nhóm chịu sự điều chỉnh của văn bản có dễ

dàng thực thi, tuân thủ không; mức độ mà văn bản làm giảm hoặc tăng gánh
nặng đối với các nhóm chịu sự điều chỉnh của văn bản đó;
(iii). Sau khi văn bản được ban hành, RIA được thực hiện để đánh giá tác
động thực tế của một văn bản đang có hiệu lực so với các tác động được dự
tính để xác định văn bản đó đạt được mục tiêu đề ra không, có cần sửa đổi
không, sửa đổi ở mức nào…
RIA là một công cụ không thể thiếu đối với quy trình làm luật ở hầu hết
các quốc gia trên thế giới. Ở Anh và một số nước châu Âu, đánh giá tác động
điều chỉnh (RIA) là một yêu cầu bắt buộc khi đem dự thảo luật ra xem xét
thông qua hoặc không thông qua. Bộ trưởng hoặc thủ trưởng các cơ quan chịu
trách nhiệm chính đối với dự luật phải ký vào bản RIA và luôn đi kèm cùng
với bản dự thảo văn bản pháp luật.
RIA là một bộ khung (Framework) để đánh giá những tác động có nhiều
khả năng xảy ra (likely impacts) của sự thay đổi về chính sách và lựa chọn
giải pháp để thực hiện nó.
RIA được xác định là một công cụ linh hoạt và toàn diện để xem xét các
vấn đề sau:
14
- Xác định hình thức của văn bản ban hành. Thông qua RIA, giúp chúng
ta xác định hình thức văn bản cần được ban hành để điều chỉnh là luật, đạo
luật hay các văn bản dưới luật, hoặc chỉ là một văn bản hành chính thông
thường, hoặc là không nên ban hành văn bản mới điều chỉnh mà chỉ sửa đổi,
bổ sung văn bản đã được ban hành trước đó;
- Liệt kê đầy đủ các tác động tiềm năng - đối với kinh tế, xã hội và môi
trường;
- Đối tượng có thể chịu ảnh hưởng - tác động đến khu vực nhà nước (như
các cán bộ, công chức, các cơ quan nhà nước, các cơ quan của Đảng) các
doanh nghiệp, các tổ chức hiệp hội tự nguyện hay các cá nhân cụ thể;
- Vấn đề ban hành, tuyên truyền, tổ chức thi hành và bảo đảm thi hành.
RIA là công cụ chủ yếu cho việc xây dựng chính sách. Tuy nhiên, RIA là

công cụ trợ giúp cho việc xây dựng chính sách chứ không phải là công cụ
thay thế nó (không nên nhầm lẫn giữa RIA với đề xuất chính sách hoặc với tờ
trình trước khi đề xuất). RIA tập hợp và trình bày các chứng cứ để xác định
việc lựa chọn chính sách có thể được và hành và các ưu, nhược điểm của
chúng. RIA cần được thực hiện song song với việc nêu sáng kiến lập pháp,
lập quy và được lồng ghép vào quy trình xác lập chính sách của các bộ,
ngành… hoặc chủ thể khác khi đề xuất xây dựng luật, pháp lệnh, nghị định.
Cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu các kết quả của RIA khi ra quyết
định có ban hành văn bản điều chỉnh chính sách đó hay không. Việc đề xuất
thông qua chính sách là quyết định chính trị thuộc về cơ quan chủ trì soạn
thảo, Chính phủ, Quốc hội (theo các giai đoạn khác nhau) mà không phải là
nhiệm vụ của các chuyên gia thực hiện đánh giá tác động của văn bản.
Tiến hành RIA bao gồm việc trả lời một số câu hỏi chủ yếu sau:
- Bản chất, mức độ và sự phát triển của vấn đề?
- Mục tiêu mà quốc gia theo đuổi?
15
- Các tác động về môi trường, xã hội và kinh tế của các lựa chọn chính
sách?
- Ưu điểm và nhược điểm của các lựa chọn chính sách chính?
- Giải pháp để phát huy ưu điểm và khắc phục nhược điểm của chính
sách đó sau khi ban hành?
- Việc giám sát và đánh giá về sau được tổ chức như thế nào?
Trong mọi trường hợp, một RIA không nhất thiết đòi hỏi phải có sự
nghiên cứu chi tiết và định lượng, nhưng phải ở mức độ nhất định để cung cấp
thông tin đủ để dựa vào đó mọi người có thể thảo luận.
Khái niệm về RIA đã được ghi nhận trong nhiều tài liệu, dưới các góc
nhìn khác nhau. Có quan điểm coi RIA là một hoạt động trợ giúp cho việc
xây dựng chính sách, “Đánh giá tác động pháp luật là một tập hợp các bước
logic hỗ trợ cho việc chuẩn bị các đề xuất chính sách. Nó bao gồm việc
nghiên cứu sâu các hoạt động đi kèm với quá trình xây dựng chính sách và

chính thức hóa các kết quả nghiên cứu bằng một bản báo cáo độc lập. Trách
nhiệm thực hiện đánh giá tác động pháp luật được giao cho cơ quan phụ trách
việc đề xuất chính sách. Đánh giá tác động pháp luật là công cụ chủ yếu cho
việc xây dựng chính sách” [8]. Có quan điểm nhìn từ mục đích của hoạt động
này, coi đánh giá tác động pháp luật “là dự báo tính khả thi, hiệu quả kinh tế
đối với các quy định pháp luật sẽ được ban hành” [9]. Nội dung của đánh giá
thường tập trung vào phân tích lợi ích chi phí, hiệu quả chi phí, đánh giá lợi
ích hoặc phân tích rủi ro. Tuỳ theo tính chất, môi trường của từng lĩnh vực,
ngành luật mà người ta áp dụng đánh giá trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã
hội, an ninh quốc phòng…
Có quan điểm coi RIA là một phương pháp, “đánh giá tác động pháp luật
là phương pháp đánh giá chi phí, hệ quả, những tác động có thể xảy ra đối với
các nhóm trong xã hội, các khu vực, hoặc toàn bộ xã hội và nền kinh tế từ sự
16
thay đổi chính sách hoặc pháp luật, được thực hiện trong qua trình làm luật,
sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật hoặc ban hành chính sách mới. Đặc
biệt, điều quan trọng, cơ bản nhất là nó đưa ra nhiều phương án khác nhau, và
nghiên cứu, phân tích, đánh giá, so sánh tác động của các giải pháp đó, lựa
chọn chính sách, cung cấp cho các cơ quan có thẩm quyền, để họ có thể lựa
chọn được giải pháp tốt nhất. Phương pháp này thiết lập các tiêu chí để đánh
giá và so sánh các tác động đó”[12]. Hay coi RIA là một quy trình: “Đánh giá
Dự báo tác động Pháp luật là một quá trình phân tích các tác động có thể của
một sự thay đổi về chính sách và đưa ra một loạt các lựa chọn để thực hiện
điều đó. Công cụ này có thể được sử dụng nhằm đánh giá:
- Tất cả các tác động tiềm năng-xã hội, môi trường, tài chính và kinh tế
- Tất cả các quy định chính thức: văn bản pháp luật chính thức (luật,
pháp lệnh, nghị định, quyết định, các bản kế hoạch) và các chương trình nâng
cao nhận thức của công chúng…)
- Sự phân bổ về tác động đối với người tiêu dùng, doanh nghiệp, nhân
viên, nông thôn, đô thị hoặc các nhóm đối tượng khác” [1].

Theo một số chuyên gia nước ngoài, RIA là một quá trình phân tích các
tác động có thể của một sự thay đổi về chính sách và đưa ra một loạt các lựa
chọn để thực hiện điều đó. Công cụ này được sử dụng nhằm đánh giá: (i) tất
cả các tác động tiềm năng - xã hội, môi trường, tài chính và kinh tế; (ii) tất cả
các quy định chính thức: văn bản pháp luật chính thức (luật, pháp lệnh, nghị
định, quyết định, các bản kế hoạch) và các quy định không chính thức (ví dụ
hướng dẫn về các thông lệ cần tuân thủ, các chương trình nâng cao nhận thức
của công chúng…); (iii) sự phân bổ về tác động đối với người tiêu dùng,
doanh nghiệp, nhân viên, nông thôn, đô thị hoặc các nhóm khác” [1].
Về mặt chức năng, hiện nay người ta xem RIA là một quy trình trong đó:
những câu hỏi chính xác được đưa ra theo một khuôn mẫu chặt chẽ; Thông tin
17
được chuyển đến cho những người có thẩm quyền quyết định và những đối
tượng chịu tác động nhằm tạo điều kiện cho một cuộc tranh luận về chính
sách mang tính rộng lớn và minh bạch hơn; Những quyết định chính sách dựa
trên sự lựa chọn phương án cụ thể của cơ quan có thẩm quyền được xem xét
một cách hệ thống và nhất quán.
Nói chung một khái niệm có thể thừa nhận trong khoa học pháp lí được
xây dựng là: RIA là công cụ trợ giúp trong quá trình xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật, cung cấp cho nhà làm luật các phương án lựa chọn trong quá
trình xây dựng quy phạm pháp luật đảm bảo cho văn bản ban hành mang tính
khả thi, hiệu quả, phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội và môi trường văn hóa
pháp lí.
1.2. Cở sở của đánh giá tác động pháp luật
1.2.1. Cở sở lí luận
Trước khi quyết định ban hành một văn bản quy phạm pháp luật, cơ
quan có thẩm quyền ban hành cần phải trả lời được một loạt câu hỏi: Văn bản
ra đời sẽ giải quyết được vấn đề gì? Nếu giải quyết vấn đề đó thì nguồn kinh
phí, nhân lực sẽ phải đầu tư vào bao nhiêu? Kinh phí được lấy từ nguồn nào?
Các quy định trong văn bản vừa được ban hành có hợp pháp, có mâu thuẫn

với hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành không? Nếu có mâu
thuẫn, thì hướng giải quyết thế nào? Các đối tượng trực tiếp thi hành có sẵn
sàng thực hiện văn bản quy phạm pháp luật không (có đủ khả năng về tài
chính, về thời gian, về sự hiểu biết hay không)?
Pháp luật, nhất là các đạo luật, là văn bản có tác động mạnh mẽ và sâu
sắc đến toàn xã hội. Bác sỹ kê đơn sai sẽ dẫn đến hậu quả có thể làm nguy
hiểm đến tính mạng một con người. Một chương trình máy tính (phần mềm
máy tính) bị lỗi có thể gây thiệt hại về kinh tế, thông tin của những người sử
18
dụng. Một đạo luật ra đời, hơn thế, nếu có sai lầm sẽ là rủi ro cho sự phát
triển, ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống xã hội của một quốc gia. Hãy thử xem
qua đối với y học và tin học, chúng ta đã làm gì trước khi đưa ra cuộc sống
một sản phẩm cụ thể.
Trong lĩnh vực y học, trước khi một loại thuốc được chính thức đưa ra
thị trường, người ta phải tiến hành thử nghiệm lâm sàng. Thử nghiệm lâm
sàng thuốc là hoạt động khoa học nghiên cứu một cách hệ thống trên người
nhằm đánh giá hiệu quả lâm sàng, nhận biết và phát hiện các phản ứng bất lợi,
nghiên cứu sự hấp thu, phân bố, chuyển hóa và sự thải trừ của thuốc nhằm
mục đích chứng minh sự an toàn và hiệu quả của thuốc thử nghiệm. Thuật
ngữ thử nghiệm lâm sàng thuốc hay nghiên cứu lâm sàng và/hoặc thử thuốc
trên lâm sàng là đồng nghĩa với nhau.
Thử nghiệm lâm sàng thuốc là quá trình nghiên cứu phức tạp đòi hỏi sự
đầu tư thích đáng, lâu dài về thời gian, công sức và kinh phí. Trung bình đối
với một nghiên cứu thuốc mới, thời gian nghiên cứu lâm sàng kéo dài từ 5 -
10 năm và trải qua 4 giai đoạn[15].
Trong lĩnh vực tin học, một phần mềm là sản phẩm của công nghệ tin
học trước khi đưa ra ứng dụng, đưa ra hoạt động để mang lại giá trị cho xã
hội, cho kinh tế hay cuộc sống thường có một quá trình chạy thử để kiểm tra,
sửa lỗi, lường trước những sai sót hay lỗi mà nó có thể gây ra khi hoạt động
trên thực tế, cũng như để người thụ hưởng, người dùng đánh giá những ưu

điểm, hạn chế, góp ý cho nhà lập trình để hoàn thiện phần mềm trước khi phát
hành, các chương trình phần mềm được đem ra chạy thử nghiệm như vậy đã
góp phần hạn chế sai sót, lỗi, hoàn thiện hơn khi chạy bản chính thức, đem lại
hiệu quả kinh tế xã hội cao. Các bản thử nghiệm như vậy thường gọi là theo
19
thuật ngữ tiếng Anh là bản demo (nói tắt của từ “demonstration”-“thử
nghiệm” ).
Như vậy, các sản phẩm của công nghệ y học và công nghệ tin học trong
quá trình xây dựng, hoàn thiện, trước khi ứng dụng trên thực tế đã có một quá
trình thử nghiệm, đáng giá để hạn chế tối đa các lỗi, sai sót có thể gây ra cho
sức khỏe, tính mạng con người, thiệt hại về kinh tế… Trong lĩnh vực quản lí
nhà nước, mỗi văn bản được ban hành, một đạo luật hoặc một chính sách mới
ra đời là một sản phẩm của công nghệ, công nghệ làm luật, công nghệ làm
chính sách. Một đạo luật hoặc chính sách lại có ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh
tế, xã hội, nếu không được xem xét, đánh giá những tác động trước khi ban
hành, lường trước những hậu quả kể cả tiêu cực và tích cực trước khi chính
thức có hiệu lực, là thiếu sót của quy trình, một quy trình quan trọng hơn bất
cứ quy trình nào khác.
1.2.2. Cở sở thực tiễn
“Ai từng theo dõi kỹ các hoạt động của Quốc hội có thể nhận thấy một
hiện tượng khá thú vị: Có những chuyện được các đại biểu Quốc hội đào xới
rất nhiều lần, nhưng lại theo cùng một góc tiếp cận, chứ không phải là nhiều
lần rồi làm sáng tỏ được vấn đề, và lần cuối không khác lần đầu được bao
nhiêu. Bộ luật dân sự sửa đổi được thông qua trong Quốc hội khoá XI là một
ví dụ: trong gần một năm, qua bảy, tám lần thảo luận đi, tranh luận lại, cho
đến ngay tận trước khi thông qua, các đại biểu vẫn băn khoăn với câu hỏi của
lần thảo luận thứ nhất là có nên đưa các vấn đề hiến xác, thay đổi giới tính,
quyền được chết… vào Bộ luật dân sự hay không.
Những băn khoăn này là có thể hiểu được. Nhưng có một điều không thể
hiểu được là sau nhiều lần thảo luận như vậy mà những câu hỏi đó vẫn chưa

có lời giải. Trong khi đó nhiều nước trên thế giới họ giải quyết vấn đề này từ
trước khi soạn thảo luật. Vậy họ làm như thế nào? Hoạt động làm luật của họ
20
gồm những bước đi nào để không bị trùng nhau, đỡ tốn thời gian mà vẫn giải
quyết được những vấn đề gốc rễ của cuộc sống đặt ra cho luật?”[10]. Câu hỏi
trên có những phương án được trả lời ngay từ khi xây dựng dự thảo nếu có
RIA.
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam,
trong mối tương quan chung của quá trình xây dựng dự thảo văn bản quy
phạm pháp luật, đánh giá tác động pháp luật được coi như là một hoạt động
quan trọng, một khâu có ý nghĩa không thể phủ nhận trong quy trình xây dựng
dự thảo, trước khi văn bản được thông qua để áp dụng vào cuộc sống. Báo
cáo phát triển Việt Nam năm 2010 của Ngân hàng thế giới đã nêu: “Có bốn
yếu tố giúp xây dựng một hệ thống pháp luật ổn định, có chất lượng. Thứ
nhất, khi xây dựng một luật phải xác định rõ luật đó sẽ điều chỉnh vấn đề gì.
Thứ hai, trong quá trình soạn thảo phải xem xét các văn bản pháp luật liên
quan khác để tránh sự không thống nhất gây khó khăn trong công tác thực thi.
Thứ ba, trong quá trình xây dựng luật phải cân nhắc những tác động của luật
đối với người dân và doanh nghiệp, đảm bảo rằng những lợi ích của luật phải
lớn hơn các chi phí. Cuối cùng, phải xác định các vấn đề tiềm ẩn trong thực
thi luật và khắc phục chúng trong quá trình soạn thảo. Mục tiêu của cơ quan
soạn thảo là xây dựng được một luật điều chỉnh những vấn đề đặt ra mà
không gây thêm quá nhiều những vấn đề khác”[18].
Qua nhận định của Ngân hàng thế giới có thể thấy, đánh giá tác động của
dự thảo luật được coi trọng, đặc biệt dưới góc nhìn của sự phát triển kinh tế-
xã hội, đảm bảo cho sự phát triển ấy mang tính tích cực.
Đằng sau những bước đánh giá tác động là một mục đích đa chiều. RIA
đảm bảo việc phối hợp sớm trong nội bộ cơ quan chủ trì soạn thảo. RIA thể
hiện tính công khai, cởi mở của cơ quan chủ trì soạn thảo sẵn sàng lắng nghe
ý kiến của nhiều đối tượng liên quan từ bên ngoài và thể hiện cam kết của

21
mình đối với vấn đề minh bạch hóa. Ngoài ra, bằng việc đưa ra bản phân tích
toàn diện và kỹ lưỡng về các tác động trực tiếp hoặc gián tiếp có thể có lên
môi trường, kinh tế và xã hội, việc đánh giá tác động giúp nâng cao chất
lượng của các đề xuất chính sách thông qua việc kiềm chế sự can thiệp của
chính quyền ở mức đơn giản có thể. Cuối cùng, việc đánh giá tác động giải
thích lý do tại sao hành động lập pháp đó là cần thiết và việc thực hiện theo đề
xuất là một lựa chọn phù hợp.
RIA đang trở thành một xu hướng toàn cầu. Từ năm 1980, RIA là một
yếu tố trong sự phát triển nhanh chóng của kĩ thuật ban hành văn bản tốt, một
trong những đặc tính nổi bật của quản lí công hiện đại. Đối với phần lớn các
nước, RIA đã phát triển từ những phương pháp mang tính kĩ thuật hạn hẹp,
chủ yếu nhằm cắt giảm chi phí, trở thành những kĩ thuật giải quyết vấn đề linh
hoạt và tinh vi hơn nhằm tạo điều kiện để quá trình thảo luận công khai và có
nhiều thông tin hơn về các vấn đề chính sách công có ý nghĩa quan trọng.
Cuộc vận động văn bản thông minh được tiến hành nhằm cải thiện hoạt
động của quốc gia dưới sức ép đòi hỏi phải đem lại càng nhiều kết quả hơn
với chi phí thấp hơn. Dưới sức ép này, đầu tư vào RIA trở nên rất lớn và ngày
càng tăng.
OECD đã kêu gọi các Chính phủ khi thực hiện chức năng ban hành văn
bản pháp quy cần đảm đương vai trò bảo đảm chất lượng mang tính đón đầu.
Chính phủ Canada gọi chương trình nghị sự này là điều chỉnh thông minh.
Loại chương trình nghị sự này đòi hỏi sự học hỏi của cả khu vực công lẫn các
chủ thể tham gia chủ yếu, là những người có quan hệ tương tác trong việc giải
quyết vấn đề công -tư và trong trách nhiệm giải trình.
Về mặt chức năng, hiện nay người ta xem RIA là một quy trình trong đó:
Những câu hỏi chính xác được đưa ra theo một khuôn mẫu chặt chẽ nhằm tạo
điều kiện cho một cuộc tranh luận về chính sách mang tính rộng lớn và minh
22
bạch hơn; Những tác động tiềm tàng có lựa chọn do hành vi hoặc bất tác vi

của Chính phủ được xem xét một cách hệ thống và nhất quán; Thông tin được
chuyển đến cho những người có thẩm quyền quyết định và những đối tượng
chịu tác động.
Thực tiễn hiện nay, RIA là phần mở rộng của hoạt động hoạch định
chính sách hiện hành của nhiều Chính phủ, thể hiện ở việc nêu ra đúng câu
hỏi, nghiên cứu tính phức tạp của vấn đề và các hậu quả của hành vi; duy trì
sự đối thoại rộng rãi phong phú và hiệu quả hơn về các giải pháp lựa chọn.
Điều đó có nghĩa RIA là một phương pháp tiếp cận dựa trên bằng chứng đối
với quá trình ban hành quyết định. Quy trình nêu câu hỏi, nghiên cứu và trao
đổi thông tin thông qua một phương pháp tiếp cận có tính hệ thống này là
phần cốt lõi của Chính phủ luôn muốn nâng cao năng lực của mình để giải
quyết các vấn đề đang đặt ra đối với công dân của mình.
Thực chất, RIA đã trở thành một trong những phương pháp mà thông
qua đó khuyến khích sự tăng cường học hỏi của xã hội, góp phần gây dựng sự
đồng thuận xã hội, giúp cho nhiều quyết định chính sách công khó khăn có
thể được thông qua.
Vấn đề đặt ra với các Chính phủ liên quan đến việc sử dụng RIA là: làm
thế nào để RIA có thể được sử dụng một cách có hiệu quả nhất nhằm thúc đẩy
quá trình học hỏi cách giải quyết vấn đề? Câu trả lời có thể tìm thấy trong quy
trình RIA và các phương pháp kĩ thuật của RIA.
1.3. Vai trò của RIA
RIA giúp tính kiểm tra của văn bản đề xuất trước khi được chính phủ,
quốc hội thông qua và hơn hết, trước khi văn bản được thực hiện, RIA sẽ
buộc cán bộ soạn thảo phải đặt ra những câu hỏi quan trọng liệu Chính phủ có
cần phải can thiệp không và can thiệp bằng cách nào trước khi sử dụng biện
pháp quy định. RIA giúp cán bộ thẩm tra, thẩm định đặt những câu hỏi quan
23
trọng xoay quanh dự thảo văn bản, nhằm mục đích tránh ban hành các quy
định tồi có nguy cơ gây thiệt hại nhiều hơn lợi ích.
RIA là một công cụ hoạch định chính sách và lập pháp hữu ích đối với

cán bộ soạn thảo văn bản và cơ quan ra quyết định . Mục đích sử dụng RIA là
nhằm cải thiện chất lượng thể chế tổng thể của một quốc gia và quản lý môi
trường thể chế, hạn chế các tác động tiêu cực và tối đa hoá lợi ích cho xã hội,
môi trường và nền kinh tế. RIA cũng là công cụ truyền thống và tham vấn
hiệu quả đối với các bên liên quan thuộc khu vực tư nhân, xã hội dân sự và
khu vực phi chính phủ.
Trên hết, RIA là công cụ cải thiện năng lực điều hành của quốc gia. Đặc
biệt nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng RIA nhằm cải thiện tăng lực
điều hành kinh tế và đảm bảo chính phủ thành công trong việc cắt giảm chi
phí, rủi ro liên quan đến quy định cũng nhưu các rào cản cạnh tranh để tạo
dựng một môi trường đầu tư tích cực cho doanh nghiệp. Quy định tốt hơn
cũng đồng nghĩa với việc sử dụng hiệu quả nguồn lực nhà nước để thi hành
các quy định thực sự đạt được mục tiêu đề ra và tạo ra kết quả tốt hơn cho
Việt Nam. Ở Việt Nam đã có nhiều trường hợp quy định được thông qua
không đạt được mục tiêu đề ra hoặc trong một số trường hợp, còn làm vấn đề
trầm trọng hơn. Điều này gây ra nhiều hậu quả, trong đó có thể kể đến việc
lãng phí nguồn lực nhà nước đáng lẽ có thể sử dụng hiệu quả hơn vào việc
khác nhằm giúp bảo vệ người dân hoặc tạo việc làm.
1.4. Đặc điểm của RIA
1.4.1. Nguyên tắc thực hiện RIA
Bản chất của RIA là việc xem xét đánh giá các đề xuất chính sách quản
lí khi được thể chế hóa thành quy phạm pháp luật. Quá trình đó tuân thủ 5
nguyên tắc cơ bản sau:
24
- Tính tương xứng: xem xét và cân nhắc lợi ích và rủi ro có thể. Chỉ áp
dụng chính sách khi cần và khi lợi ích cân xứng với rủi ro có thể xảy ra nếu
chính sách được lựa chọn.
- Tính chịu trách nhiệm: người, cơ quan có thẩm quyền ban hành phải
chịu trách nhiệm về văn bản được ban hành trước nhân dân, trước các đối
tượng chịu sự điều chỉnh của quy định và người có thẩm quyền trao quyền

ban hành quy định.
- Tính nhất quán và minh bạch: tức là có thể biết mình thuộc đối tượng
nào, có thuộc đối tượng bị áp dụng không… dựa trên việc lấy ý kiến và phản
hồi của các bên liên quan.
- Rõ ràng (dễ hiểu): công khai rõ ràng (open) đơn giản và gần gũi với
người sử dụng.
- Có mục tiêu: tập trung vào vấn đề chính sách cần giải quyết và giảm
thiểu các tác động không mong muốn.
Chất lượng của RIA được xem xét thường xuyên bởi một cơ quan
chuyên môn về lập pháp. Chúng cũng được sử dụng trong các biên bản họp
của Quốc hội khi chúng được đưa ra như là căn cứ (chứng cứ) và các thông
tin thu thập được về sự lựa chọn chính sách đang xem xét.
Báo cáo RIA phải xác định được các phương án, chính sách và sự chọn
lựa tối ưu để giải quyết vấn đề đang đặt ra. Trong số những phương án đó
phải có một lựa chọn “không hành động” và ít nhất có một lựa chọn không
mang tính pháp lý (giống như các quy tắc thông lệ, các tiêu chuẩn công nghệ
(công nghiệp) hoặc chính sách mang tính sự phối hợp). Một RIA có chất
lượng sẽ đề cập đến câu hỏi “cách tốt nhất để đạt được mục đích là gì?”
Về mặt chức năng, hiện nay người ta xem RIA là một quy trình trong đó:
những câu hỏi chính xác được đưa ra theo một khuôn mẫu chặt chẽ; Thông tin
được chuyển đến cho những người có thẩm quyền quyết định và những đối
25

×