Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài - kinh nghiệm so sánh pháp luật Trung Quốc và những định hướng hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 123 trang )


4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA VỚI THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI
9
1.1.
Những vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài
9
1.1.1.
Hàng hóa và hành vi mua bán hàng hóa trong quan hệ mua
bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
9


1.1.2.
Thương nhân nước ngoài
13
1.1.3.
Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài
17
1.2.
Khái quát về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài
21
1.2.1.
Khái niệm, đặc điểm của giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài
21
1.2.2.
Xung đột pháp luật trong giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài
23
1.3.
Quan hệ tiền hợp đồng trong giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài theo pháp luật và thông lệ
quốc tế
26
1.4.
Điều kiện hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài
42

5

1.4.1.
Điều kiện về chủ thể của hợp đồng
44
1.4.2.
Điều kiện về hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
44
1.4.3.
Điều kiện về nội dung của hợp đồng
45
1.4.4.
Điều kiện về hình thức của hợp đồng
45
1.5.
Pháp luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
47

Chương 2: SO SÁNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHÁP LUẬT
TRUNG QUỐC VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA VỚI THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI
52
2.1.
Thực trạng các quy định về các quan hệ tiền hợp đồng trong
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài của Việt Nam và Trung Quốc
52
2.1.1.
Điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi trong quan hệ tiền
hợp đồng
52
2.1.2.

Chế độ trách nhiệm đối với các hành vi vi phạm quan hệ tiền
hợp đồng
65
2.2.
Thực trạng pháp luật Việt Nam về xử lý xung đột pháp luật và
lựa chọn luật áp dụng đối với giao dịch thương mại với thương
nhân nước ngoài
68
2.3.
Thực trạng các quy định pháp luật về điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
75
2.3.1.
Các quy định về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài
77
2.3.2.
Các quy định về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài
79
2.3.3.
Các quy định về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài
83

6

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA VỚI THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI

92
3.1.
Sự cần thiết và những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài
92
3.2.
Những phương hướng cơ bản của việc hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài
94
3.2.1.
Thể chế hóa đầy đủ, kịp thời đường lối, chính sách của Đảng
về hội nhập kinh tế quốc tế
94
3.2.2.
Hoàn thiện pháp luật vè hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài của Việt Nam cần đảm bảo sự phù
hợp với các đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam
95
3.2.3.
Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài của Việt Nam cần đảm bảo sự phù hợp với
pháp luật, thông lệ quốc tế và cần phải đặt trong giải pháp
tổng thể với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại
96
3.3.
Những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài

96
3.3.1.
Hoàn thiện các quy định về quan hệ tiền hợp đồng trong giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
97
3.3.2.
Hoàn thiện các quy định về xử lý xung đột pháp luật và lựa
chọn luật áp dụng đối với hợp đồng trong giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
101
3.3.3.
Thực hiện hợp lý các điều ước quốc tế liên quan đến hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
104

KẾT LUẬN
111

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
113


7
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong thế giới hiện đại, hoạt động kinh tế quốc tế đòi hỏi phải được
thực hiện theo những trật tự và chuẩn mực cần thiết. Trong hệ thống pháp luật
thương mại của mỗi nước cũng như trong các điều ước, tập quán quốc tế về
thương mại, chế định hợp đồng mua bán hàng hóa có vị trí quan trọng. Đây là

công cụ pháp lý bảo đảm có hiệu quả quyền lợi của các bên, là cơ sở cho việc
giải quyết những bất đồng giữa các bên khi thực hiện hợp đồng.
Để đảm bảo thực hiện đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, trong những năm qua Nhà nước ta đã chủ động
xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ về
thương mại, dân sự, kinh tế có yếu tố nước ngoài. Nhà nước ta cũng tham gia,
ký kết nhiều điều ước quốc tế về kinh tế - thương mại với nhiều tổ chức
quốc tế và với nhiều quốc gia. Tuy nhiên, các quy định pháp luật điều chỉnh
quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài vẫn còn là
lĩnh vực phức tạp và còn có những mới mẻ cả về phương diện lập pháp và áp
dụng trong thực tiễn đòi hỏi phải được nghiên cứu. Nhiều quy định của pháp
luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài vẫn
chưa tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xác lập quan hệ mua bán hàng
hóa với nước ngoài, chưa thực sự thể hiện được đầy đủ chính sách đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập. Những bất
cập này cần phải được loại bỏ để phát huy hơn nữa vai trò của pháp luật về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài trong giai
đoạn mới, thích ứng với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Từ thực tiễn và
kinh nghiệm của các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng, chúng ta
ngày càng nhận ra vai trò to lớn của pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài trong tiến trình phát triển nền kinh tế.

8
Vì vậy, việc nghiên cứu và làm sáng tỏ về mặt lý luận các vấn đề liên quan
đến việc giao kết loại hợp đồng này để trên cơ sở đó đánh giá thực trạng và
xác định phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài trong điều kiện hiện nay đang
là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Điều này không chỉ góp phần
điều chỉnh có hiệu quả về mặt pháp lý đối với hoạt động thương mại mà còn
góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật thương mại nói riêng và hệ thống

pháp luật kinh tế ở Việt Nam nói chung.
Nghiên cứu so sánh pháp luật Việt Nam và Trung Quốc về giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài trong sự tham chiếu
với các quy định của pháp luật, thông lệ quốc tế để nhận thấy những điểm
chung, nét tương đồng, sự khác biệt, nét đặc thù trong pháp luật về giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài của Trung Quốc -
quốc gia láng giềng có nhiều đặc điểm tương tự về kinh tế, văn hóa, xã hội, có
chung đường biên giới trên bộ và trên biển, có mối quan hệ lâu đời, nhiều mặt
với Việt Nam. Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu này càng được khẳng định
trong bối cảnh Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2001, có nhiều kinh nghiệm điều chỉnh
pháp luật thành công trong lĩnh vực giao kết mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế.
Từ những phân tích trên đây, tác giả đã lựa chọn đề tài "Pháp luật về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài - Kinh
nghiệm so sánh pháp luật Trung Quốc và những định hướng hoàn thiện
cho pháp luật Việt Nam" cho luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận pháp luật có vị trí
quan trọng trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Chế định về hợp đồng đã
được đề cập trong pháp luật Việt Nam ngay từ sự ra đời của Bộ Quốc triều

9
hình luật năm 1483 và Bộ luật Gia Long năm 1815 Tuy nhiên, pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa chỉ thực sự được định hình với các quy định của
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và đặc biệt sau đó là Bộ luật Dân sự
năm 1995, Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2005. Vấn đề
pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài nói riêng đã được nhiều
nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu nhằm phân tích, luận

giải và đưa ra những kiến nghị.
Từ các hướng tiếp cận khác nhau các công trình nghiên cứu về hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài đã triển khai trên các
hướng sau:
Thứ nhất, nghiên cứu liên quan đến quan niệm và việc xác định các
tiêu chí của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài;
Thứ hai, nghiên cứu về lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng mua
bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài;
Thứ ba, nghiên cứu điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài;
Thứ tư, nghiên cứu về các giai đoạn của giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
Về quan niệm và việc xác định các tiêu chí của hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài, đã có nhiều công trình đề cập trong đó tiêu
biểu là Giáo trình Luật thương mại (năm 2002), Giáo trình Tư pháp quốc tế, của
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội (năm 2003), Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, của khoa Luật, Đại học
Quốc Gia Hà Nội năm 2005, cuốn sách "Làm thế nào để tránh rủi ro pháp lý khi
mua bán", Nhà xuất bản Pháp lý, năm 1992. Những nghiên cứu trong các công
trình này đã đưa ra quan niệm và xác định tương đối rõ các tiêu chí của hợp
đồng mua bán với thương nhân nước ngoài.

10
Việc lựa chọn luật áp dụng đối với hợp đồng cũng được đề cập trong
nhiều công trình, trong đó nổi bật là các công trình như "Xuất khẩu và hợp đồng
xuất khẩu", Nhà xuất bản Trẻ, năm 1999, "International Business Contract",
Nhà xuất bản Thống kê, năm 1997 Nhìn chung, các công trình này đều
thống nhất về cách thức chọn luật áp dụng là lựa chọn hệ thống pháp luật của
một nước, một khu vực, một điều ước quốc tế, thậm chí là một nguyên tắc
hoặc tập quán quốc tế. Cách lựa chọn luật phổ biến được chỉ ra là lựa chọn

pháp luật của một nước làm luật điều chỉnh hợp đồng.
Về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài, nhiều nhà khoa học như PGS.TS Nguyễn Bá Diến, PGS.TS Phạm
Duy Nghĩa trong các Giáo trình Luật Thương mại quốc tế và Giáo trình Tư pháp
quốc tế nêu trên đã nêu bật các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài. Trong nghiên cứu của mình, PGS.TS Nguyễn Bá
Diến đã chỉ ra rằng, pháp luật của mỗi nước có những quy định khác nhau về các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng và khi giải quyết về xung đột pháp luật về điều
kiện hiệu lực của hợp đồng, pháp luật nước ngoài áp dụng riêng biệt của hợp đồng.
Về các giai đoạn của giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài đã có nhiều công trình đề cập trong đó như Giáo trình Luật
thương mại quốc tế của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội tại Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2005. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu
về vấn đề này đều quan niệm quá trình giao kết phải trải qua hai giai đoạn là
đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Nhiều nhà khoa học đã tiếp cận một số chủ đề riêng biệt liên quan đến giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài: ví dụ PGS.TS Trần
Đình Hảo đề cập đến thương nhân trong thương luật Mỹ, PGS.TS Phạm Hữu
Nghị đề cập tới pháp luật xuất nhập khẩu của Mỹ trong cuốn sách: "Bước đầu
tìm hiểu pháp luật thương mại Mỹ", Nhà xuất bản Khoa học xã hội, năm 2002
do GS.TSKH Đào Trí Úc chủ biên, PGS.TS Nguyễn Như Phát, PGS.TS Phạm
Duy Nghĩa đã đề cập đến điều kiện chung về mua bán hàng hóa trong Giáo

11
trình Luật Thương mại của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội và trên tạp
chí Nhà nước và pháp luật
Do tính chất thời sự của chủ đề nghiên cứu, nhiều nghiên cứu sinh,
học viên cao học luật đã tiếp cận nghiên cứu về hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài như luận án của Nguyễn Vũ Hoàng về "Pháp
luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước

ngoài"; luận án của Lê Hoàng Oanh về "Hoàn thiện pháp luật thương mại
hàng hóa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế", các luận văn
của Thái Tăng Bang: "Giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán
quốc tế hàng hóa ", Vũ Tiến Đức: "Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế" Những công trình này đã tiếp cận ở những góc độ
khác nhau như thực trạng pháp luật về thương mại hàng hóa, nguồn luật điều
chỉnh, xử lý vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài Tuy nhiên, nhiều nội dung liên quan đến giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài chưa được các công trình nêu trên khai
thác hoặc khai thác chưa đầy đủ như quan hệ tiền hợp đồng, vấn đề lựa chọn
luật áp dụng và điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Như vậy có thể nói, liên quan đến đề tài nghiên cứu nói trên, hiện nay
có nhiều công trình nghiên cứu có giá trị được tiến hành. Tuy nhiên, cần phải
khẳng định rằng, lĩnh vực nghiên cứu này vẫn tồn tại một số vấn đề đang còn
tranh luận cần tiếp tục làm rõ trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam như:
+ Hiệu lực pháp lý của quan hệ tiền hợp đồng và trách nhiệm đối với
hành vi làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp gây thiệt hại trong quan hệ
tiền hợp đồng.
+ Vấn đề lựa chọn luật áp dụng trong giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân Trung Quốc.
+ Xu hướng vận động, bối cảnh phát triển mới của pháp luật ở Việt
Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
trong điều kiện gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.

12
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài là luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài; tiến hành phân tích, đánh giá so sánh pháp luật Việt Nam và pháp
luật của Trung Quốc về pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán

hàng hóa với thương nhân nước ngoài; qua đó đề xuất những giải pháp hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn khách quan trong điều
kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được
xác định cụ thể gồm:
+ Luận giải những vấn đề lý luận và pháp luật về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài và phân tích một cách có hệ
thống về thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam về giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
+ So sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật Trung quốc về giao kết
hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài trên các tiêu chí:
tổng quan về điều chỉnh pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài, chế độ trách nhiệm đối với các hành vi vi phạm; xử
lý xung đột pháp luật và lựa chọn luật áp dụng đối với giao dịch thương mại
với thương nhân nước ngoài; điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài;
+ Đề xuất các khuyến nghị những định hướng hoàn thiện cho pháp luật
Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi

13
mới, đề tài tập trung sử dụng một số phương pháp chủ yếu: phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh đặc biệt là phương pháp so sánh luật học. Các
phương pháp này được vận dụng trong nhiều phần khác nhau của đề tài như
phân tích làm rõ sự khác biệt giữa hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài với các dạng hợp đồng có yếu tố nước ngoài khác, về khung
pháp luật với quan hệ tiền hợp đồng trong giao kết hợp đồng mua bán hàng

hóa với thương nhân nước ngoài
Ngoài ra, đề tài còn được nghiên cứu trên cơ sở xem xét, so sánh tính
phổ biến của pháp luật và thông lệ quốc tế về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài ở Việt Nam do các điều kiện kinh tế,
lịch sử cụ thể chi phối. Đề tài cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn
trong việc nghiên cứu và giải quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Ý nghĩa và điểm mới của đề tài
+ Đề tài cũng đề cập tới quan hệ tiền hợp đồng trong giao kết hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân Trung Quốc. Khác với các cách tiếp
cận trước đây tập trung vào đề nghị giao kết và chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng, đề tài đã đi sâu hơn và chỉ rõ trước khi hợp đồng được xác lập và
thậm chí khi còn là lời mời giao kết hợp đồng, quan hệ giữa các bên vẫn có
thể làm phát sinh những nghĩa vụ pháp lý nhất định giữa các bên. Những phân
tích của đề tài đưa ra cơ sở lý luận đối với quan hệ tiền hợp đồng, sự phân
chia các giai đoạn và nội dung của quan hệ này để xây dựng khung pháp luật
điều chỉnh quan hệ tiền hợp đồng trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân Trung Quốc trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam.
+ Chỉ rõ những khác biệt giữa pháp luật nước ngoài và pháp luật
Trung Quốc khi giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài, các rủi ro cần quan tâm khi giao kết hợp đồng và cách giải quyết những
vấn đề đó. Luận giải và chỉ rõ đặc thù về vấn đề xung đột pháp luật trong quá
trình giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân Trung Quốc, theo

14
đó có những luật áp dụng có thể được thỏa thuận để điều chỉnh hợp đồng
trong giai đoạn giao kết hợp đồng, nhưng cũng có luật áp dụng không được
thỏa thuận vào thời điểm này mà có thể được xác định cụ thể sau đó, đồng
thời chỉ ra những phương thức chung trong việc điều chỉnh xung đột pháp luật
theo pháp luật và thông lệ quốc tế, từ đó xây dựng mô hình lý thuyết và cách
tiếp cận thống nhất đối với việc giải quyết xung đột pháp luật và lựa chọn luật

áp dụng trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam.
+ Đối chiếu, so sánh các quy định tương ứng của pháp luật Việt Nam
với pháp luật Trung Quốc, bình luận về các lý do có thể dẫn tới sự khác biệt
này và nhu cầu tu chỉnh pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân Trung Quốc, nếu xét thấy cần thiết. Những phân
tích, đối chiếu, so sánh của đề tài được tập trung vào các lĩnh vực cụ thể như
quan hệ tiền hợp đồng, điều kiện hiệu lực của hợp đồng, lựa chọn luật áp
dụng đối với hợp đồng Đặc biệt đề tài đưa ra những phân tích và bình luận
về những vấn đề nổi cộm của giao dịch với thương nhân Trung Quốc nhưng
còn ít được nghiên cứu ở Việt Nam như cấm vận, rửa tiền, mối quan hệ giữa
luật công quốc gia và luật tư quốc gia và tác động của những vấn đề này tới
hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
Chương 2: So sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật Trung Quốc về
giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.

15
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
MUA BÁN HÀNG HÓA VỚI THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
VỚI THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Hàng hóa và hành vi mua bán hàng hóa trong quan hệ mua

bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
Đối tượng của quan hệ mua bán hàng hóa nói chung và mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài nói riêng là hàng hóa. Hàng hóa với tư cách
là sản phẩm mua bán là yếu tố cấu thành quan trọng nhất của quan hệ mua
bán hàng hóa. Một hợp đồng mua bán hàng hóa không thể được xác lập nếu
thiếu yếu tố cơ bản là hàng hóa.
Dưới góc độ pháp luật, dựa vào đặc trưng của từng loại mà hàng hóa
được phân thành bất động sản (gồm đất đai, nhà ở, công trình xây dựng, tài
sản gắn liền với đất đai) và động sản, tài sản hữu hình và tài sản vô hình hoặc
các quyền tài sản. Hàng hóa có thể là vật, là lao động của con người, là các
quyền tài sản mang tính vô hình [35, tr. 111].
Theo Điều 3 Luật thương mại Việt Nam 2005 có nêu: Hàng hóa bao
gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
những vật gắn liền với đất đai.
Thông thường, các nước đều xác định những đối tượng nào được coi
là hàng hóa. Ví dụ, theo Luật Mua bán hàng hóa của Vương quốc Anh năm
1973, hàng hóa gồm hoa lợi và những vật dụng gắn liền hoặc hình thành một
phần của đất đai đã được thỏa thuận sẽ tách ra trước khi bán hoặc theo hợp
đồng mua bán. Luật Mua bán hàng hóa của Vương Quốc Anh không coi đất
đai, quyền vô hình, ví dụ, quyền được hoàn trả nợ và tiền là hàng hóa [58]. Bộ
luật Thương mại Thống nhất Hoa Kỳ (UCC) (điều 2-105) định nghĩa:

16
Hàng hóa nghĩa là tất cả các vật (bao gồm cả những hàng
hóa đặc biệt) mà có thể chuyển dịch vào thời điểm xác định đối với
hợp đồng mua bán hàng hóa, ngoại trừ tiền tệ theo đó giá được trả,
các chứng khoán đầu tư (Điều 8) và các vật đang trong quá trình
kiện tụng. Hàng hóa cũng bao gồm con chưa sinh ra của động vật
và mùa màng đang trồng cấy và những vật xác định khác gắn liền
với hiện thực như được mô tả trong phần về hàng hóa gắn liền với

bất động sản được mô tả trong phần về hàng hóa được tách biệt với
bất động sản [104].
Hàng hóa phải tồn tại và được xác định trước khi có bất kỳ lợi ích nào
có thể chuyển giao. Hàng hóa mà không tồn tại và không được xác định là
hàng hóa tương lai. Điều này có nghĩa là hàng hóa phải có sự tồn tại hữu hình
về khía cạnh vật lý, có thể sờ nắm và nhìn thấy. Các tài sản vô hình như
chứng khoán, bằng sáng chế và quyền tác giả… chỉ có sự tồn tại về mặt khái
niệm và do đó không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 2 Bộ luật Thương
mại thống nhất). Xác định thế nào là hàng hóa không phải luôn là vấn đề dễ
dàng trong thực tế. Thực tiễn áp dụng pháp luật ở Hoa Kỳ cho thấy có hai vấn
đề có thể nảy sinh tranh chấp liên quan đến việc xác định đối tượng của hợp
đồng là hàng hóa và khả năng áp dụng của Điều 2 Bộ luật Thương mại Thống
nhất, đó là các vấn đề liên quan đến hàng hóa gắn với bất động sản (mùa
màng, cây trồng…) và hợp đồng có sự pha trộn giữa hàng hóa và dịch vụ.
Cùng với những quy định pháp luật quốc gia về hàng hóa và những
đối tượng không được coi là hàng hóa, pháp luật và thông lệ quốc tế cũng xác
định những đối tượng là hàng hóa và đối tượng không được coi là hàng hóa
trong quan hệ mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài (Ví dụ, Công ước
Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 (sau đây gọi tắt là Công ước Viên)
có sự hạn chế nhất định đối với hàng hóa được mua bán, theo đó, Công ước
Viên không áp dụng đối với mua bán hàng tiêu dùng, mua bán tàu thủy, máy
bay, điện năng, các giao dịch chứng khoán và các giao dịch trong đó phần dịch

17
vụ chiếm chủ yếu. Công ước Viên còn ghi nhận cả mua bán hàng hóa tương lai,
cụ thể là hàng hóa có thể được sản xuất và được bán cũng được coi là hàng hóa).
Hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài phải thuộc diện đối tượng có thể giao dịch được, không thuộc
loại hàng hóa bị cấm xuất khẩu, nhập khẩu, không thuộc diện bị hạn chế xuất
khẩu, nhập khẩu. Như vậy, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng

hóa với thương nhân nước ngoài có nét tương đồng với hàng hóa là đối tượng
của hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước ở chỗ đều phải là đối tượng có
thể giao dịch được, tuy nhiên để có thể xuất khẩu, nhập khẩu thì hàng hóa
phải không thuộc diện đối tượng bị cấm hoặc bị hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu.
Như vậy, về bản chất tất cả những của cải phục vụ đời sống vật chất,
tinh thần của con người có giá trị và giá trị sử dụng đều là hàng hóa. Tuy
nhiên, không phải tất cả các loại hàng đều là hàng hóa được quy định trong
pháp luật thương mại của các nước và các điều ước quốc tế với tư cách là đối
tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài. Do việc
xác định hàng hóa trong pháp luật thương mại của các nước phụ thuộc vào ý
chí của nhà làm luật nên có sự khác nhau trong quy định hàng hóa là đối
tượng thuộc phạm vi áp dụng luật thương mại và hàng hóa là đối tượng của
hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài. Lý luận và thực
tiễn áp dụng pháp luật của các nước và thông lệ quốc tế cũng làm rõ những
trường hợp theo đó một số đối tượng không được coi là đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
Bên cạnh việc đề cập đến hàng hóa với tư cách là đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài nói riêng, pháp luật các
nước còn đề cập đến hành vi mua bán hàng hóa. Mua bán hàng hóa là một
hành vi thương mại. Theo pháp luật thương mại của nhiều nước trên thế giới,
hành vi thương mại bao gồm các hoạt động như sản xuất, chế tạo ra sản phẩm,
mua bán hàng hóa, thuê mướn, chuyên chở hành khách, hàng hóa, môi giới,
đại diện, đại lý thương mại, bảo hiểm, chứng khoán, ngân hàng, xây dựng,

18
xuất bản. Ví dụ, Bộ luật thương mại và Dân sự Thái Lan quy định các hành vi
thương mại bao gồm: mua bán hàng hóa, thuê tài sản, thuê thầu khoán, thuê
mua tài sản, vận tải, đại lý, đại diện, môi giới, bảo hiểm, hoạt động của các
hội kinh doanh và công ty.
Theo quan niệm của hầu hết pháp luật ở các nước trên thế giới, hành

vi mua bán được hiểu là hành vi theo thỏa thuận trong đó một bên là người
bán có nghĩa vụ chuyển giao và quyền sở hữu của người mua một tài sản nhất
định gọi là hàng hóa (đối tượng của hợp đồng), còn người mua có nghĩa vụ
nhận hàng hóa và trả tiền.
Như vậy, có thể thấy hành vi mua bán hàng hóa có một đặc trưng sau đây:
Một là, bằng hành vi cụ thể quy định, hợp đồng bán hàng có thể được
ký kết bằng văn bản hoặc bằng thỏa thuận miệng hoặc một phần của hợp đồng
thỏa thuận bằng miệng, một phần văn bản hoặc có thể được suy đoán căn cứ
vào hành vi của các bên tham gia ký kết hợp đồng.
Hai là, chủ thể của hành vi mua bán hàng hóa là thương nhân. Đặc
điểm này cho phép phân biệt giữa hành vi dân sự và hành vi thương mại.
Ba là, hành vi mua bán hàng hóa làm chuyển dịch quyền sở hữu đối
với hàng hóa. Mọi việc mua bán (trừ việc mua bán quyền sử dụng đất) đều
làm chuyển dịch quyền sở hữu đối với hàng hóa. Tuy nhiên, khác với hành vi
mua bán khác, hành vi mua bán hàng hóa do thương nhân thực hiện với tư
cách là thương nhân làm thay đổi chủ sở hữu hàng hóa là loại tài sản thuộc
phạm vi áp dụng các quy định của pháp luật thương mại.
Hợp đồng mua bán hàng hóa đối với thương nhân nước ngoài cũng có
đầy đủ những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước. Tuy
nhiên, có thể thấy hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
có những đặc trưng riêng so với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước.
Những nét đặc thù này có thể nhận thấy thông qua nhiều yếu tố như: về luật
điều chỉnh, về chủ thể của hợp đồng… Ví dụ, về luật điều chỉnh, nếu luật điều

19
chỉnh với hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước là luật quốc gia, thì luật
điều chỉnh với hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài có
thể là điều ước quốc tế, luật quốc gia… Sự khác biệt này dẫn đến nhiều vấn
đề quan trọng cần xác định rõ trong quan hệ giữa các bên của hợp đồng như
thông tin về đối tác, xác định luật điều chỉnh hợp đồng, xác định cơ quan, tổ

chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp… Điều này khẳng định sự cần thiết
của việc tìm hiểu và làm rõ những đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài.
1.1.2. Thương nhân nước ngoài
Thương nhân là chủ thể của quan hệ thương mại. Nhìn chung, thương
nhân là thuật ngữ để chỉ những người tiến hành các hoạt động kinh doanh nhằm
mục đích thu lợi nhuận và nhân danh mình để thực hiện các hoạt động kinh
doanh đó, nghĩa là những người đó hoạt động kinh doanh một cách độc lập.
Pháp luật các nước nhìn chung quan niệm chủ thể hợp đồng mua bán
hàng hóa với thương nhân nước ngoài phải là thương nhân, bao gồm cá nhân
và công ty thương mại.
Pháp luật các nước trên thế giới đều quy định những điều kiện để trở
thành thương nhân. Theo pháp luật nhiều nước, để trở thành thương nhân cần
đảm bảo điều kiện liên quan đến con người và điều kiện liên quan đến công
việc, đến hoạt động nghề nghiệp của người đó. Thương nhân còn được ghi
nhận trong nhiều điều ước quốc tế [103, Điều 2].
Pháp luật của các nước có quy định không giống nhau về độ tuổi có
năng lực hành vi. Ví dụ, Bộ luật Dân sự Nhật Bản xác định người thành niên
là đủ 20 tuổi. Trường hợp chưa đủ 20 tuổi, vẫn có thể thực hiện một số giao
dịch nhất định nhưng phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật.
Trong khi đó, pháp luật Pháp lại xác định là 18 tuổi. Điều 488 Bộ luật Dân sự
Pháp và Luật ngày 5/7/1974 quy định: "Tất cả mọi người tròn 18 tuổi là
những người có năng lực hành vi và đều có thể trở thành thương nhân" [36]. Về

20
điều kiện liên quan đến hoạt động của thương nhân, luật pháp các nước quy
định không giống nhau, pháp luật Hoa Kỳ quy định thương nhân là những người:
Thực hiện nghiệp vụ với những hàng hóa thuộc chủng loại
nhất định hoặc thực hiện những nghiệp vụ bằng cách khác nào đó
và xét về tính chất nghiệp vụ của mình họ được coi như là những

người có kinh nghiệm hoặc kiến thức đặc biệt trong những nhiệm
vụ hoặc đối với những hàng hóa là đối tượng của hợp đồng thương
mại [104, Điều 2-104].
Pháp luật của Pháp lại quy định thương nhân là tất cả "những người
ký hợp đồng thương mại, thực hiện các hoạt động thương mại và coi việc ký
kết, thực hiện các hoạt động thương mại đó là nghề nghiệp thường xuyên của
mình" [57, Điều 1]. Bộ luật Thương mại Nhật Bản, thương nhân được hiểu là
người tham gia với tư cách cá nhân và những giao dịch thương mại như một
nhà kinh doanh. Một người tham gia vào một việc mua bán như một nhà kinh
doanh với một cửa hàng hoặc một tổ chức tương tự hoặc một người tiến hành
kinh doanh về hầm mỏ, được coi là thương nhân kể cả khi người đó không
tham gia vào các giao dịch thương mại như một nhà kinh doanh [6].
Ngoài các chủ thể là cá nhân, thương nhân cũng bao gồm các chủ thể
là các công ty thương mại. Công ty có thể được chia thành nhiều loại tùy
thuộc vào tiêu chí phân loại. Căn cứ vào tính chất hành vi giao kết, công ty
được chia thành công ty dân sự và công ty thương mại. Căn cứ vào quốc tịch
công ty, người ta phân biệt một công ty của nước này với một công ty của
nước khác. Công ty còn có thể được chia thành công ty công cộng và công ty
tư nhân, công ty lợi nhuận và công ty phi lợi nhuận, công ty công chúng và
công ty đóng. Hai mô hình công ty phổ biến trên thế giới là công ty trách
nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật của nhiều nước đã dành một
phần riêng biệt đề cập đến thương nhân nước ngoài. Sự tham gia của thương

21
nhân nước ngoài làm cho quan hệ mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài có nét đặc thù so với quan hệ mua bán hàng hóa trong nước. Nhìn
chung, thương nhân nước ngoài được pháp luật một nước quan niệm là
thương nhân thành lập, tồn tại và hoạt động hợp pháp và hợp lệ bên ngoài
lãnh thổ nước đó.

Pháp luật của các nước có điểm chung là đều xác định quyền của thương
nhân tham gia quan hệ mua bán hàng hóa với nước ngoài. Pháp luật nhiều
nước trên thế giới đã đề cập đến thương nhân nước ngoài với những quy định
riêng biệt đặc thù với chủ thể là thương nhân nước ngoài. Nhìn chung, các
nước trên thế giới tiếp cận vấn đề thương nhân nước ngoài theo hai hướng.
- Hướng thứ nhất là đưa ra quan niệm về thương nhân nước ngoài
(ví dụ, Bộ luật các quy tắc liên bang của Hoa Kỳ xác định thương nhân nước
ngoài là bất kỳ là thương nhân nào cư trú hoặc sinh sống bên ngoài lãnh thổ
Hoa Kỳ [95]. Luật ngoại thương của Trung Quốc năm 1994 xác định khái
niệm thương nhân trong hoạt động ngoại thương, theo đó thương nhân trong
hoạt động ngoại thương là tất cả các thực thể pháp lý và các tổ chức khác có
liên quan đến các giao dịch ngoại thương [70, Điều 8]. Pháp luật Việt Nam
cũng có cách tiếp cận tương tự với việc ghi nhận quan niệm về thương nhân
nước ngoài, theo đó thương nhân nước ngoài là thương nhân được thành lập.
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nước ngoài hoặc được pháp
luật nước ngoài công nhận [42, Điều 16].
- Hướng thứ hai là đề cập tới những vấn đề có liên quan trực tiếp
như quan niệm về công ty nước ngoài, pháp nhân nước ngoài…Hướng tiếp
cận này được xác lập theo hai hướng: đưa ra quan niệm về công ty nước ngoài
và đề cập quyền, nghĩa vụ của công ty nước ngoài. Theo Luật về hoạt động
thương mại của Ôxtrâylia năm 1974, công ty nước ngoài là loại hình công ty
được thành lập ở một lãnh thổ bên ngoài Ôxtrâylia. Pháp luật Thụy Sĩ cũng
tiếp cận theo hướng đề cập tới công ty nước ngoài, nhưng khác với các nước
nêu trên, pháp luật Thụy Sĩ không đưa ra quan niệm về công ty nước ngoài.

22
Nếu một công ty được thành lập theo pháp luật nước ngoài tiến hành kinh
doanh trên lãnh thổ Thụy Sĩ hoặc từ lãnh thổ Thụy Sĩ, trách nhiệm của những
người hoạt động nhân danh công ty sẽ được điều chỉnh bằng pháp luật Thụy
Sĩ. Một công ty có trụ sở đăng ký ở nước ngoài sẽ được điều chỉnh bằng pháp

luật Thụy Sĩ. Một công ty nước ngoài có thể chấp thuận tuân thủ pháp luật Thụy
Sĩ nếu luật pháp nước ngoài cho phép như vậy. Công ty phải đáp ứng các yêu
cầu được pháp luật nước ngoài quy định và phải chấp nhận một trong các hình
thức tổ chức theo pháp luật Thụy Sĩ. Một công ty phù hợp với pháp luật Thụy Sĩ
được yêu cầu đăng ký trong Danh bạ thương mại sẽ được điều chỉnh bởi pháp
luật Thụy Sĩ sau khi công ty chứng minh được rằng nơi kinh doanh chủ yếu
của công ty đã được chuyển tới Thụy Sĩ và công ty đã chấp nhận một trong
các hình thức tổ chức kinh doanh theo pháp luật Thụy Sĩ. Một công ty phù
hợp với pháp luật Thụy Sĩ mà chưa được yêu cầu đăng ký trong Danh bạ
thương mại sẽ được điều chỉnh bằng pháp luật Thụy Sĩ sau khi công ty đã rõ
ràng lựa chọn để được điều chỉnh theo pháp luật Thụy Sĩ, có mối quan hệ
thích ứng với Thụy Sĩ và chấp nhận một trong các hình thức tổ chức theo pháp
luật Thụy Sĩ [91, Điều 159, 160, 161, 162]. Cách tiếp cận tương tự được ghi
nhận trong pháp luật Nhật Bản, theo đó, nếu một công ty nước ngoài đặt trụ sở
chính của mình của Nhật Bản hoặc có mục đích chính và thực hiện công việc
kinh doanh ở Nhật Bản, mặc dù được thành lập ở nước ngoài, vẫn phải tuân theo
những quy định như một công ty được thành lập tại Nhật Bản [6, Điều 482].
Như vậy, cho dù các nước trên thế giới có cách tiếp cận khác nhau và
cách gọi tên khác nhau đối với thương nước ngoài, nhưng điểm chung có thể
nhận thấy là các nước đều quan niệm thương nhân nước ngoài là chủ thể cư
trú, sinh sống bên ngoài lãnh thổ nước đó, được tổ chức theo một quyền tài
phán khác hoặc được thành lập ở nước ngoài. Thương nhân nước ngoài ngoài
việc bị điều chỉnh bởi luật của nước nơi thương nhân được thành lập,hoạt
động hay đăng ký còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật của nước khác nếu
thương nhân này tiến hành các hoạt động kinh doanh ở nước ngoài.

23
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài
Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài là một nội

dung quan trọng của pháp luật thương mại quốc tế. Hiện nay, quan niệm về
hợp đồng có yếu tố nước ngoài nhìn chung chưa thật sự được định hình thống
nhất. Các tài liệu và nghiên cứu có liên quan vẫn còn đề cập đến loại hợp
đồng này với nhiều quan niệm khác nhau dưới những tên gọi khác nhau như
hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương, hợp đồng xuất, nhập khẩu, hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Là một nội dung quan trọng của pháp luật thương mại quốc tế, hợp
đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài được ghi nhận trong
nhiều điều ước, thỏa thuận quốc tế cũng như trong pháp luật quốc gia.
Theo Điều 1 Công ước La Hay năm 1964 về mua bán động sản hữu
hình thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa
trong đó các bên giao kết có trụ sở thương mại ở các nước khác nhau, hàng
hóa được chuyển từ nước này sang nước khác, hoặc việc trao đổi ý chí ký kết
hợp đồng giữa các bên giao kết được thiết lập ở các nước khác nhau. Công
ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980 chỉ đưa ra một tiêu chuẩn
để khẳng định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đó
là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt tại các lãnh thổ xác
định. Khuynh hướng này còn được chứng tỏ bởi một thực tế là thương gia chỉ
xuất hiện với tư cách thể nhân trong rất ít trường hợp và các công ty có vị trí
quan trọng trong quan hệ thương mại với nước ngoài. Ngoài ra, Công ước
Viên thậm chí còn nhấn mạnh thêm khi khẳng định rằng: quốc tịch của các
bên không được tính đến khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước này.
Tất nhiên, quy tắc này không thể áp dụng trong tất cả các lĩnh vực của quan
hệ thương mại quốc tế, nhưng rõ ràng đây là quy tắc có thể áp dụng trong
quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng rõ ràng đây là quy tắc có thể áp
dụng trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế.

24
So sánh phạm vi áp dụng của Công ước La Hay năm 1964 và Công
ước Viên năm 1980, có thể dễ dàng nhận thấy Công ước Viên đã loại bỏ

nhiều điều kiện trong Công ước La Hay. Tuy nhiên, điều này rõ ràng không
có nghĩa là phạm vi áp dụng của Công ước Viên rộng hơn Công ước La Hay.
Điều cần khẳng định là cả hai Công ước này đều có mục đích chung là tạo ra
một sự điều chỉnh pháp luật chung đối với mua bán hàng hóa quốc tế.
Công ước Liên châu Mỹ về luật áp dụng đối với các hợp đồng quốc tế
năm 1994 được thông qua tại Hội nghị Liên châu Mỹ lần thứ năm về Tư pháp
quốc tế xác định một hợp đồng là hợp đồng quốc tế nếu các bên tham gia hợp
đồng có nơi cư trú hoặc nơi có trụ sở của họ tại các nước thành viên khác
nhau hoặc nếu hợp đồng có mối quan hệ về mặt đối tượng với trên một nước
thành viên.
Như vậy, Công ước Liên châu Mỹ cũng có quan niệm tương tự với
Công ước La Hay và Công ước Viên khi xác định tiêu chí nơi cư trú hoặc nơi
có trụ sở là căn cứ xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng. Công ước còn
chỉ ra thêm một nhân tố làm cơ sở xác định đó là mối quan hệ về mặt đối
tượng của hợp đồng với trên một nước thành viên của Công ước.
Sự ra đời của những công ước trên cho thấy, các nước trên thế giới đã
có nhiều nỗ lực trong việc thống nhất hóa và hài hòa hóa pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Điểm chung trong việc định danh hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế của các công ước nói trên là lấy tiêu chí các bên
giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt tại các nước khác nhau.
Bên cạnh việc ghi nhận trong các điều ước quốc tế cũng có những quy
định xác định quan niệm về hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Pháp luật Việt Nam hiện hành sử dụng thuật ngữ hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế để chỉ hợp đồng mua bán có yếu tố nước ngoài. Theo đó,
mua bán hàng hóa quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu, nhập
khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu.

25
Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài có nét đặc
thù riêng là có sự hiện diện của thương nhân nước ngoài. Như đã phân tích ở

trên, nhìn chung, thương nhân nước ngoài được pháp luật một nước quan niệm
là thương nhân thành lập, tồn tại và hoạt động hợp pháp và hợp lệ bên ngoài
lãnh thổ nước đó. Tư cách pháp lý của thương nhân nước ngoài được xác định
theo pháp luật của nước nơi thương nhân đó được thành lập. Như vậy, đối với
hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài, ngoài tiêu chí về
trụ sở thương mại, một tiêu chí cần được xét đến là quốc tịch của các bên là
chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
không đồng nhất với hợp đồng ngoại thương và hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Điều này được khẳng định thông qua thực tiễn xây dựng và vận dụng
các điều ước quốc tế và pháp luật các nước. Pháp luật của nhiều nước trên thế
giới đã xác định nội hàm của hoạt động ngoại thương. Luật Ngoại thương của
Trung Quốc năm 1994 đã xác định khái niệm hoạt động ngoại thương. Hoạt
động ngoại thương theo luật này bao gồm hoạt động xuất, nhập khẩu hàng
hóa, công nghệ và thương mại quốc tế về dịch vụ [70, Điều 2]. Luật ngoại
thương của Măccêđônia xác định phạm vi điều chỉnh của luật là hoạt động
ngoại thương bao gồm cả doanh thu ngoại thương và hoạt động kinh tế ở
nước ngoài. Hoạt động ngoại thương và hoạt động kinh tế ở nước ngoài có thể
được thực hiện bởi các pháp nhân thực hiện các hoạt động kinh tế. Hoạt động
ngoại thương còn liên quan tới thương mại dịch vụ. Dịch vụ trong ngoại
thương bao gồm nhiều dạng như vận tải quốc tế hàng hóa và hành khách,
khách sạn và du lịch, viễn thông. Hoạt động ngoại thương còn bao hàm cả
hoạt động chuyển giao công nghệ [81, điều 1, 2, 21 47, 51]. Luật về chính
sách ngoại thương của Bôsnia năm 1998 xác định phạm vi của đạo luật là
điều chỉnh những nhân tố cơ bản của hệ thống xuất, nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ và xác định các điều kiện chung và riêng biệt đối với việc thực hiện
các hoạt động kinh tế ở nước ngoài và đối với việc thực hiện hoạt động kinh

26
tế bởi các tự nhiên nhân và pháp nhân nước ngoài trong lãnh thổ Bôsnia và

Herzegôvia [76, Điều 1].
Có thể khẳng định rằng, đa số các nước trên thế giới quan niệm hoạt
động ngoại thương rất rộng bao gồm không chỉ hoạt động mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài mà còn có cả hoạt động thương mại dịch vụ.
Điều này cho thấy hoạt động ngoại thương có nội hàm rộng hơn so với hoạt
động mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài. Hoạt động ngoại
thương không chỉ bao gồm hoạt động mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài mà còn bao gồm cả thương mại dịch vụ và chuyển giao công nghệ.
Trong trường hợp là hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế, như phân
tích đối với Công ước Viên về mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980, Công
ước La Hay về mua bán động sản hữu hình năm 1964 và Công ước Liên châu
Mỹ về luật áp dụng đối với các hợp đồng quốc tế năm 1994, thông lệ quốc tế
quan niệm là hợp đồng mua bán hàng hóa có sự dịch chuyển hàng hóa qua
biên giới quốc gia. Hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
không nhất thiết phải có sự dịch chuyển hàng hóa qua biên giới quốc gia. Mặt
khác, chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo pháp luật và thông
lệ quốc tế có thể là cá nhân, tổ chức và thậm chí có thể là Nhà nước.
Những phân tích trên cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa với
thương nhân nước ngoài có những nét đặc thù riêng so với các hợp đồng có
yếu tố nước ngoài khác và cần phải xây dựng một quan niệm riêng đối với
loại hợp đồng này.
Vì vậy, có thể hiểu, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài là sự thỏa thuận nhằm thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các thương nhân có trụ sở thương mại ở các
nước khác nhau và hoặc có quốc tịch khác nhau.
Về thực tiễn, chúng ta cần nhận thức rằng, hiện chưa có một khái niệm
thống nhất về hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài. Do

27
đó, việc dẫn chiếu đến khái niệm này vẫn cần thiết phải căn cứ vào các căn cứ

pháp lý là các nguồn luật khác nhau điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài như các điều ước quốc tế, luật pháp quốc gia.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA VỚI
THƯƠNG NHÂN NƯỚC NGOÀI
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài
Theo hiểu biết chung, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân
nước ngoài được coi là đã được xác lập khi thỏa mãn hai điều kiện:
Một là, các bên đạt được sự thỏa thuận các nội dung cần giao dịch trên
tinh thần tự nguyện, thiện chí và trung thực. Sự đạt được thỏa thuận về các
nội dung cần giao dịch trên tinh thần tự do, thiện chí, trung thực có nghĩa là
hợp đồng phải là những thỏa thuận, cam kết phản ánh ý chí của các bên tham
gia quan hệ hợp đồng.
Hai là, sự thỏa thuận mà các bên đạt được phải được thể hiện dưới
một hình thức nhất định phù hợp với quy định của pháp luật hoặc phù hợp với
sự thỏa thuận của các bên tham gia hợp đồng.
Như vậy, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài là quá trình giữa các thương nhân có trụ sở thương mại ở các nước
khác nhau và/hoặc có quốc tịch khác nhau, mà kết quả cuối cùng của quá
trình đó là sự thống nhất ý chí của các bên về các nội dung cần giao dịch
dưới hình thức nhất định.
Qua khái niệm trên, có thể thấy giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài có những nét đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài là quá trình tuyên bố ý chí của các chủ thể trong giao dịch với thương
nhân nước ngoài. Khác với các giao dịch dân sự thông thường hoặc các hợp

28
đồng mua bán hàng hóa trong nước, việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài thường là một quá trình dài.

Thứ hai, chủ thể là thương nhân các nước khác nhau. Đây là nét đặc
trưng nổi bật của giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài. Sự hiện diện của thương nhân nước ngoài làm tăng tính phức tạp của
giao dịch, làm hình thành mối quan tâm của các bên về việc lựa chọn luật áp
dụng đối với hợp đồng, sự điều chỉnh pháp luật đối với hàng hóa được xuất
khẩu và nhập khẩu theo hợp đồng, sự điều chỉnh pháp luật các nước đối với
các thương nhân là các bên của hợp đồng, thẩm quyền của cơ quan tài phán
trong giải quyết tranh chấp, cũng như tìm kiếm thông tin về đối tác…
Thứ ba, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước
ngoài có sự thống nhất ý chí của các bên về các nội dung cần giao dịch, ví dụ,
giá cả, điều kiện giao hàng, điều kiện thanh toán, bảo hiểm, hợp đồng mẫu,
điều kiện chất lượng…
Thứ tư, hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
được xác lập dưới hình thức nhất định. Tuy nhiên, những đòi hỏi về hình thức
của hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài thông thường
được quy định ngặt nghèo hơn so với các quy định về hình thức của hợp đồng
mua bán hàng hóa trong nước.
Có thể khẳng định rằng, quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài thường phức tạp bởi vì các bên phải giải
quyết các vấn đề sau:
Một là, xung đột pháp luật trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
với thương nhân nước ngoài.
Hai là, luật áp dụng và lựa chọn luật áp dụng trong giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài.
Ba là, quan hệ tiền hợp đồng trong giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa với thương nhân nước ngoài.

×