Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH LÊN THỊ TRƯỜNG CHO VAY VÀ TIỀN GỬI VAI TRÒ CỦA VAY LIÊN NGÂN HÀNG VÀ GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG LIÊN HỆ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.54 KB, 13 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH LÊN THỊ
TRƯỜNG CHO VAY VÀ TIỀN GỬI: VAI TRÒ CỦA VAY LIÊN
NGÂN HÀNG VÀ GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG
LIÊN HỆ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
GVHD: TS. TRẦN PHƯƠNG THẢO
NHÓM 04
THÀNH VIÊN THAM GIA
1. Lương Cẩn
2. Nguyễn Thị Thanh Huyền
3. Nguyễn Thúy Oanh
4. Nguyễn Thành Trung (Nhóm trưởng)
5. Trần Đức Thắng
6. Lê Thị Thanh Thúy
7. Hồ Vân Thy
Thành phố Hồ Chí Minh, 2014
TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH LÊN THỊ TRƯỜNG
CHO VAY VÀ TIỀN GỬI: VAI TRÒ CỦA VAY LIÊN NGÂN HÀNG VÀ
GIÁM SÁT THỊ TRƯỜNG
LIÊN HỆ VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
1.1. Rút ra vấn đề đặc trưng của Ngân hàng quốc tế
1.1.1 Vấn đề 1 hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia
Vấn đề đầu tiên và là vấn đề chính yếu liên quan đến hiệu ứng lan tỏa xuyên
quốc gia và sự lo ngại sự cung ứng khả năng tài chính (một hàng hóa công) bởi
các chính quyền quốc gia có thể không tối ưu.
Bốn loại hiệu ứng lan tỏa xuyên quốc gia tiềm tàng có thể được xác định như
sau:


- Chi phí giám sát xuyên quốc gia.
- Những ảnh hưởng xuyên quốc gia của các cú sốc đến vốn chủ sở hữu các ngân
hàng.
- Chuyển giao tài sản xuyên quốc gia.
- Những ảnh hưởng xuyên quốc gia đến giá trị trách nhiệm bảo hiểm tiền gửi.
a) Chi phí giám sát xuyên quốc gia.
Một ngân hàng nước ngoài mua một ngân hàng Hà Lan và chuyện đổi thành
chi nhánh, theo quy định của EU thì quyền kiểm soát chi nhánh này sẽ thuộc về
nước bản xứ, chi nhánh Hà lan sẽ chịu sự giám sát bởi các nhà lãnh đạo của ngân
hàng mẹ nước ngoài. Tuy nhiên, để đảm bảo ổn định tài chính tại Hà Lan, các
nhà lãnh đạo Hà Lan và Bộ tài chính Hà Lan buộc phải chi cứu trợ tài chính vì
những lý do ổn định nội bộ, nhưng sẽ không có quyền giám sát chi nhánh của
ngân hàng nước ngoài. Lý do để các công ty bảo hiểm giữ một số quyền giám sát
các tổ chức (các chi nhánh và các công ty con) hoạt động trong nước là các chi
nhánh ngân hàng nước ngoài là ngân hàng cho vay cuối cùng và chịu chi phí cứu
trợ của nước sở tại. Đó là quy định của các nước sở tại áp dụng để hạn chế những
rủi ro của các tổ chức tài chính và các ngân hàng hoặc bộ tài chính trong trường
hợp có cứu trợ tài chính. Nói cách khác, quyền kiểm soát của nước bản xứ phải
bổ sung một số hình thức kiểm soát của nước sở tại, miễn là chi phí cứu trợ tài
chính vẫn còn trong nước. Quan điểm đã được Ủy ban Châu Âu công nhận một
phần với tuyên bố rằng: “Trong tình huống khẩn cấp giám sát viên của nước sở
tại có thể - thuộc vào quyền kiểm soát của Ủy ban – thực hiện bất kỳ biện pháp
phòng ngừa nào” (Walkner và Raes, 2005, p.37). Lập luận này lần nữa xuất hiện
trong British Turner Review kêu gọi sự giám sát hiệu quả của tất cả các tổ chức
hoạt động tại Anh quốc. Như đã thảo luận ở trên, vậy một quyết định có thể được
chuyển giao đến cấp Châu Âu hoặc ít nhất nên yêu cầu sự phối hợp giữa các
quốc gia này.
b) Những ảnh hưởng xuyên quốc gia của các cú sốc đến vốn chủ sở hữu các
ngân hàng,
2

Peek và Rosengren (2000) đã chứng minh trên thực tế tác động của sự sụt
giảm vốn nền kinh tế Mỹ đến các ngân hàng Nhật Bản, đó là kết quả từ sự sụp đổ
thị trường chứng khoán Nhật Bản vào những năm 1990. Các kênh giao dịch hoạt
động thông qua việc cắt giảm trong việc cấp tín dụng ngân hàng. Một chi nhánh
ngân hàng đa quốc gia, các nước sở tại sẽ kiểm soát khả năng thanh toán (thông
qua các chính sách ký quỹ tổn thất tín dụng và sự xác nhận xác suất vỡ nợ trong
khuôn khổ Basel II), nó có thể tác động vào nền kinh tế thực của nước ngoài.
Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, sự lo ngại tương tự đã được thể hiện bởi các
quốc gia Trung và Đông Âu có hệ thống ngân hàng được kiểm soát rất rộng lớn
bởi các ngân hàng nước ngoài.
c) Tác động xuyên quốc gia của sự chuyển dịch tài sản.
Ở loại hình công ty con đa quốc gia, nước bản xứ vẫn nắm quyền giám sát
công ty con, điều này có thể có rủi ro khi nước sở tại cấu kết với ngân hàng mẹ
để chuyển giao tài sản cho ngân hàng mẹ. Rủi ro này đã được thảo luận ở các
nước Trung và Đông Âu. Một ví dụ là trường hợp của Lehman Brothers
Holdings. Ngân hàng đầu tư đã có thói quen tập trung các hoạt động tiền mặt ở
New York. Trong trường hợp của Lehman Europe, đã lấy đi 8 tỷ $ trong số các
doanh nghiệp Anh quốc vào thứ 6 trước khi nó sụp đổ.
d) Những ảnh hưởng xuyên quốc gia đến giá trị trách nhiệm bảo hiểm tiền gửi.
Sự tranh luận chung liên quan đến sự đa dạng hóa rủi ro trong một chi nhánh
có trụ sở đa quốc gia, trong đó, bởi vấn đề đồng bảo hiểm, đã làm giảm giá trị
của quyền chọn bán được trợ cấp bởi bảo hiểm tiền gởi (Repullo 2001, Dermine
2003). Có một sự xem xét về tính năng động tăng thêm để đưa vào tài khoản.
Một ngân hàng đa quốc gia có thể hài lòng với mức độ đa dạng tổng thể của nó,
trong khi mỗi công ty con có thể trở nên rất chuyên nghiệp trong rủi ro tín dụng
địa phương. Điều này ngụ ý rằng các ngân hàng trong một quốc gia nhất định có
thể thấy rằng mình ngày càng dễ bị sụp đổ do đặc tính của cú sốc. Người ta lập
luận rằng, vì lý do danh tiếng, công ty mẹ sẽ cứu trợ các công ty con một cách có
hệ thống như thể họ là các chi nhánh. Điều này có thể đúng trong nhiều trường
hợp, nhưng sẽ có trường hợp nơi mà sự cân bằng của chi phí tài chính chống lại

chi phí danh tiếng có thể không được thuận tiện như vậy. Quy luật tương xứng
nguồn vốn có thể ít nghiệm ngặt trong cấu trúc chi nhánh có trụ sở. Điểm tổng
quát hơn là đa dạng hóa nên được khen thưởng với tỷ lệ sự tương xứng nguồn
vốn ít nghiêm ngặt.
1.1.2 Vấn đề 2 chi phí cứu trợ tài chính: Quá lớn? Quá phức tạp?
Cứu trợ tài chính của một ngân hàng lớn có thể tạo ra một gánh nặng rất lớn
cho ngân sách hoặc hệ thống bảo hiểm tiền gửi của một quốc gia (Dermine 2000,
3
2006). Điều này hoàn toàn đúng với trường hợp của các ngân hàng Icelandic có
quy mô vượt xa khả năng bảo hiểm của quốc gia. Một vấn đề có liên quan đã
nhận được nhiều sự quan tâm là một số ngân hàng quá phức tạp để sụp đổ. Hãy
tưởng tượng một ngân hàng Châu Âu lớn với các hoạt động xuyên quốc gia và
các hoạt động phi ngân hàng đáng kể (như bảo hiểm, quản lý tài sản) mà rơi vào
thảm họa tài chính. Sẽ rất khó để đưa ngân hàng này vào trách nhiệm quản lý tài
sản. Do mạng lưới phức tạp của các công ty con và những sự phức tạp về pháp lý
khác nhau, sự không chắc chắn liên quan đến chi phí của một sự sụp đổ có thể sẽ
cao và sự phức tạp này có thể tạo ra sự cám dỗ cho việc cứu trợ tài chính (“quá
lớn và quá phức tạp để sụp đổ”).
1.1.3 Kết luận về các vấn đề đặc trưng
Sau cuộc khủng hoảng ngân hàng quốc tế, một loạt các đề xuất được đưa ra
để củng cố chất lượng của việc giám sát ngân hàng. Chúng liên quan đến: tính
thanh khoản, rủi ro kinh doanh, vốn và dự phòng, các chính sách bồi thường, tính
rủi ro hệ thống và nhóm các nhà giám sát quốc gia. Mặc dù ý kiến của nhà chức
trách là hữu ích, những đề xuất này ngừng lại ở sự thiếu sót trong việc giải quyết
hai vấn đề chính: Làm thế nào để tăng cường trách nhiệm của các nhà giám sát?
Làm thế nào để giám sát các tập đoàn quốc tế?
Đó là ấn tượng để quan sát quy định tiền khủng hoảng đó, như Basel II, đã
yêu cầu các cuộc kiểm tra nhanh về rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường. Giám
sát trong khủng hoảng không phải là thiếu về quy định mà là thiếu về việc thực
thi quy định và vấn đề giám sát có hiệu quả. Nhưng làm thế nào để tăng cường

trách nhiệm nhà giám sát ngân hàng. Sau đó là sự tồn tại của hệ thống ngân hàng.
Sự tồn tại của chúng được xem như là lấy đi khoản trợ cấp, với một nhu cầu để
bảo đảm cho các khoản nợ của chúng và, như một hệ quả, giám sát chúng chặt
chẽ để hạn chế nguy cơ về đạo đức. Một sự thay thế sẽ được thiết kế một quá
trình phá sản phù hợp cho các tổ chức này. Sư lo ngại phá sản sẽ làm tăng thêm
động cơ riêng tư của các chủ nợ để theo dõi các rủi ro của ngân hàng.
1.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam:
1.2.1 Thực trạng hệ thống tài chính Việt Nam:
Cùng với cải cách kinh tế, thị trường tài chính Việt Nam đã có những bước
phát triển nhất định. Sau hơn mười năm cải thiện hệ thống tài chính, các bộ phận
cơ bản của thị trường tài chính đã được hình thành tương đối đầy đủ, mặc dù
mức độ phát triển của từng thị trường cấu thành là không giống nhau. Hệ thống
các định chế về tài chính được phát triển cả về số lượng và chất lượng, từng bước
hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển của thị trường tài chính cho phù
4
hợp với thông lệ quốc tế. Về quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính được
thể chế hóa tường bước. Các cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động của thị
trường tài chính ngày càng được phối hợp một cách tốt hơn.
Tuy nhiên, thị trường tài chính Việt Nam cho tới năm 2008 vẫn còn kém phát
triển, chủ yếu dựa vào ngân hàng hay do ngân hàng chi phối.
a) Thị trường tiền tệ
Thị trường tiền tệ, theo Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là thị trường vốn
ngắn hạn, là nơi mua bán các giấy tờ có giá ngắn hạn dưới một năm. Thị trường
tiền tệ bao gồm thị trường nội tệ liên ngân hàng (được thành lập và đi vào hoạt
động năm 1993); thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chính thức đi vào hoạt động
từ 10/1994; thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc bắt đầu vận hành năm 1995 và
nghiệp vụ thị trường mở chính thức vận hành vào tháng 7/2002. Chức năng của
thị trường tiền tệ là tài trợ vốn ngắn hạn cho doanh nghiệp, đảm bảo vốn khả
dụng cho các tổ chức tín dụng và là nơi để NHNN Việt Nam thực thi các công cụ
chính sách tiền tệ.

Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ thống ngân
hàng, vì các ngân hàng là chủ thể quan trọng nhất trong việc cung cấp và sử dụng
vốn ngắn hạn. Tham gia thị trường tiền tệ ở Việt Nam hiện nay là hệ thống các tổ
chức tín dụng, gồm có: các NHTM, các công ty tài chính, các công ty cho thuê
tài chính, các quỹ tín dụng nhân dân.
- Nhìn lại hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng của Việt Nam
trong những năm qua, vẫn là khu vực cung cấp phần lớn các nguồn vốn
đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam. Điều này thể hiện về quy mô vốn luân
chuyển qua các lĩnh vực ngân hàng, các tổ chức tín dụng không ngừng
tăng và mở rộng.
Bên cạnh những kết quả đã dặt được trong lĩnh vực thị trường dịch vụ ngân
hàng ở Việt Nam như đã nêu trên, còn một số tồn tại, cần được khắc phục trong
thời gian tới, đó là:
- Nhiều loại hình dịch vụ cung cấp của các tổ chức tín dụng còn hạn chế,
hầu hết các dịch vụ ngân hàng cung cấp chỉ mới ở mức tiếp cận với các
dịch vụ truyền thống như của các nước. Chất lượng dịch vụ còn thấp, chưa
có tác dụng trong việc hỗ trợ cho việc phát triển lành mạnh của thị trường
tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh, trong cơ cấu doanh thu từ cho
vay chiếm tới hơn 70%, còn thu từ các dịch vụ ngân hàng chỉ chiếm dưới
30%. - Hiện nay các NHTM Nhà nước Việt Nam hiện chiếm trên 70% thị
phần huy động tiền gửi và tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng Việt
Nam. Còn đối tượng khách hàng chủ yếu của NHTM cổ phần là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khách hàng của các NH liên doanh và chi
5
nhánh ngân hàng nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
- Về mặt rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng cho thấy tỷ lệ nợ xấu
vẫn còn tồn tại. Theo công bố của hệ thống NHTM về tủ lệ nợ quá hạn so
với tổng dư nợ tuy đã giảm chỉ còn trên 3% năm 2007 so với 14.6% năm
1997.

- Trên thực tế tỷ trọng nguồn vốn huy động không kỳ hạn và ngắn hạn vẫn
chiếm khoảng trên dưới 3/4, do vậy sự sai lệch về cơ cấu thời hạn bảng
cân đối tài sản của hệ thống NHTM là tương đói lớn Mặc dầu trong vài
năm gần đây sự sai lệch về cơ cấu đồng tiền tuy có giảm, nhưng vẫn còn ở
mức độ rất lớn trong điều kiện lạm phát tương đối cao trong những năm
gần đây, đặc biệt là năm 2008 và trong môi trường đô la hóa cao như ở
Việt Nam hiện nay.
- Hoạt động của các NHTM chủ yếu dựa trên nguồn thu chênh lệch giữa lãi
suất huy động và lãi suất cho vay, điều đó sẽ làm cho hoạt động của các
NHTM có rủi ro lớn, tuy răng trong vài năm gần đây các NHTM đã có
thêm nhiều dịch vụ mới. Hiện nay phần lớn các khoản vay được thế chấp
bằng bất động sản, trong khi thị trường bất động sản đang nguội lạnh và
có những biến động không bình thường. Còn các khoản vay được thế chấp
chứng khoán tuy tỷ trọng còn nhỏ, song cũng đáng cảnh báo và lo ngại về
năng lực của các nhà đầu tư các nhân còn thấp và thị trường trứng khoán
Việt Nam còn tiềm ẩn nhiều yếu tố biến động về giá.
Vào năm 2010 sau hơn hai năm gia nhập WTO dòng vốn chu chuyển qua
ngân hàng tăng trưởng cao nhất từ trước đến nay và vượt xa dự báo từ đầu năm
của các nhà quản lý và quản trị ngân hàng
b) Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán Việt Nam cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu”
của nền kinh tế và chưa là kênh huy động vốn của các doanh nghiệp. Chức năng
cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn
chưa thể hiện rõ. Vốn dài hạn vẫn chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường
tiền tệ. Đó là điểm bất cập không phù hợp với sự phát triển của thị trường tài
chính.
Nhìn lại thị trường chứng khoán Việt Nam sau hơn 10 năm hoạt động, còn
nhiều tồn tại đó là:
- Về quy mô so với các nước trong khu vực còn nhỏ, tuy vốn hóa thị trường
tăng nhanh đạt 45%GDP. Giá chứng khoán (chỉ số giá cổ phiếu VN-

index) tăng giảm thất thường, thị trường chứng khoán trong thời gian qua
vẫn chưa đảm bảo sự bền vững lành mạnh.
6
- Về hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều bất
cập về tài chính. Mặc dầu các công ty chứng khoán đã phát hành thêm cổ
phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc vốn điều lệ từ các
chủ sở hữu vốn (đối với các công ty trứng khoán trực thuộc ngân hàng
thương mại), nhưng nhìn chung vốn điều lệ vẫn còn thấp, điều đó đã làm
ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty chỉ đóng vai
trò đầu tư dẫn dắt thị trường hoặc rủi ro do mức vốn khả dụng thấp.
- Về cơ sở vật chất, kỹ thuật và hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế.
Đội ngũ về nhân sự hành nghề có chuyên môn có giấy phép hành nghề,
đặc biệt về chất lượng về nhân sự lãnh đạo công ty còn thiếu và yếu chủ
yếu về nghiệp vụ chuyên môn kinh doanh chứng khoán cũng như tư vấn
pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp.
Trên thực tế hiện nay số lượng công ty chứng khoán ở nước ta vượt quá quy
mô thị trường, nếu so sánh với các nước trong khu vực (Trung Quốc 107 công ty,
Malaysia 37 công ty, Thái Lan 41 công ty, Singgapor 27 công ty và Hàn Quốc
trên 50 công ty).
Tuy số lượng tài khoản đầu tư tăng nhanh, nhưng chủ yếu là tài khoản các
nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị tác động chi phối bởi các nhà đầu tư lớn
trên thị trường. Những nhà đầu tư này lại thiếu kỹ năng phân tích đầu tư, phân
tích thị trường, do vậy ảnh hưởng tới sự ổn định của thị trường. Những nhà đầu
tư chuyên nghiệp chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn, một số nhà đầu tư lớn nước
ngoài mở tài khoản nhưng chưa tham gia đầu tư. Các quỹ đầu tư nước ngoài
tham gia thị trường trong nước thông qua các tài khoản ủy thác cá nhân và đầu tư
trung lập vào cổ phiếu các doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư trên
Sàn giao dịch chứng khoán Tp.Hồ Chí Minh và trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nội.
Tuy Luật Chứng khoán được ra đời thay thế Nghị định 144/2003/NĐ-CP,

ngày 28/11/2003 của Chính phủ về Chứng khoán và Thị trường chứng khoán,
song hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán còn bất cập và chưa được
hoàn thiện. So với yêu cầu đòi hỏi của thực tế của sự phát triển thị trường tài
chính và các định chế tài chính trong nề kinh tế thị trường với năng lực quản lý
và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước còn hạn chế.
Cơ quan quản lý Nhà nước, SGDK và TTGDCK, các công ty chứng khoán,
công ty niêm yết trong công tác quản lý, điều hành hoạt động của thị trường
chứng khoán còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn và nhiều bất cập.
c) Thị trường bảo hiểm
Trước đây, thị trường bảo hiểm duy nhất chỉ có 1 doanh nghiệp. Kể từ năm
1933, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP, đặc biệt là khi Luật kinh
7
doanh bảo hiểm ra đời, hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã đạt được những kết
quả quan trọng sau:
- Quy mô và phạm vi hoạt động của thị trường bảo hiểm đã phát triển mạnh
mẽ, với tốc độ cao, bên cạnh việc đảm bảo ổn định, chống lại các nguy cơ
rủi ro, thị trường bảo hiểm còn đóng vai trò quan trọng trong việc huy
động các nguồn lực tài chính đầu tư dài hạn của nên kinh tế.
Các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo lập nguồn vốn lớn và dài hạn cho đầu
tư phát triển kinh tế xã hội. Bảo hiểm đã góp phần tích cực đến ổn định và
phát triển kinh tế xã hội và đời sống nhân dân.
- Các loại sản phẩm bảo hiểm được phát triển đa dạng, phong phú với gần
70 sản phẩm bảo hiểm nhận thọ và phi nhân thọ thuộc cả lĩnh vực bảo
hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo hiểm trách nhiệm. Cơ cấu bảo
hiểm đã chuyển dần từ ngắn hạn sang dài hạn.
- Xét trên phương diện pháp lý, thị trường bảo hiểm Việt Nam được vận
hành trong khuôn khổ pháp lý tương đối đồng bộ, chặt chẽ và áp dụng
nguyên tắc phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thị trường bảo hiểm còn một số tồn tại:
- Quy mô thị trường còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và thấp hơn

so với các nước trong khu vực.
- Thị trường bảo hiểm phát triển chưa cân đối, các loại hình sản phẩm chưa
đa dạng; năng lực cạnh tranh còn nhiều hạn chế và biểu hiện cạnh tranh
không lành mạnh vẫn còn tồn tại; hoạt động môi giới bảo hiểm còn chậm
phát triển; một số cơ chế chính sách hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển của thị trường bảo hiểm; công tác quản lý giám sát còn nhiều
bất cập,
Nhìn lại thực trạng của thị trường tài chính Việt Nam, đặc biệt lá từ sau
những năm đổi mới kinh tế và sau hơn 2 năm gia nhập WTO của Việt Nam, đã
có những thành công. Bên cạnh những kết quả đạt được, cũng còn nhiều hạn chế
và tồn tại, đó là:
- Hạn chế trong việc huy động nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển, thể
hiện: thị trường tài chính có quy mô nhỏ, các thể chế trên thị trường chưa
hoàn chỉnh, nhiều định chế tài chính trung gian cần tiếp tục hoàn thiện;
sản phẩm hoàng hóa của thị trường chưa nhiều, phạm vi cung cấp dịch vụ
chủ yếu mới tập trung tại khu vực thành thị; sự phối hợp giữa các kênh
huy động vốn còn chưa đồng bộ; khung pháp lý mới được xây dựng và
hình thành, các nguyên tắc quản lý và chuẩn mực quốc tế về tính minh
bạch, công khai tuy đã được áo dụng, song còn nhiều vấn đề cần được
hoàn thiện; năng lực cung ứng dịch vụ tài chính còn hạn chế
8
- Vấn đề quản lý, điều hành của Nhà nước còn những mặt hạn chế, chưa có
sự phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước đối với thị trường tài chính
và dịch vụ tài chính; còn có tình trạng cơ quan quản lý Nhà nước can thiệp
vào các hoạt động của chủ thể, trong khi đó lại buông lỏng giám sát thị
trường, sự phối hợp quản lý và điều hành giữa các kênh huy động, giữa
các loại thị trường (thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường bất động
sản ) còn thiếu đồng bộ; năng lực cán bộ quản lý Nhà nước chưa được
nâng cao phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển của nền kinh tế trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế; công tác quản lý giám sát để giảm thiểu rủi

ro còn nhiều bất cập.
1.2.2 Thực trạng mô hình tổ chức và hoạt động của thanh tra Thị trường tài
chính Việt Nam:
a) Thanh tra ngân hàng (TTNH)
Hiện nay, TTNH được tổ chức thành bộ máy thuộc NHNN, gồm Thanh tra
NHNNTW và Thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố chịu sự chỉ đạo, điều
hành của chi nhánh NHNN, vừa của TTNHNNTW. Cơ chế điều hành này gây ra
sự chậm trễ, chồng chéo, không thống nhất giữa trung ương và địa phương, hiệu
lực thấp. Mạng lưói thanh tra NHNN được phân bổ”bình quân”theo địa giới hành
chính, trong khi các Định chế tài chính (ĐCTC) lại phân bổ không đồng đều trên
các địa phương.
Thanh tra NHNNTW chịu sự chỉ đạo và hướng dẫn về tổ chức và nghiệp vụ
thanh tra của Tổng Thanh tra nhà nước, đồng thời chịu sự chỉ đạo của Thống đốc
NHNN, dẫn đến sự chồng chéo và thiếu thống nhất giữa các cấp lãnh đạo trong
hoạt động thanh tra. Các mối quan hệ chỉ đạo, điều hành và phối hợp giữa các vụ,
cục chức năng tại NHNNTW với chi nhánh NHNN trong lĩnh vực TT – GS cũng
rất chồng chéo, trùng lặp, không rõ ràng. TTNH không có chức năng cấp và thu
hồi giấy phép hoạt động ngân hàng là một trong những nguyên nhân gây ra sự
nhũng nhiễu của các đối tượng bị TT – GS và thiếu chặt chẽ trong mô hình TT –
GS.
Thanh tra tại chỗ còn mang tính “chữa cháy” và can thiệp quá mức vào
công việc nội bộ của các TCTD và chưa có cơ chế trao đổi thông tin hay quản trị
rủi ro trên toàn bộ TTTC. Việc TT – GS trên TTTC Việt Nam hiện còn rời rạc
theo kiểu:” đèn ai nấy rạng”,”việc ai nấy biết”hay”chợ nào hàng rào ấy”.
b) Thực trạng thanh tra – giám sát các ĐCTC do bộ Tài chính quản lý
Về TT – GS TTCK: Mức độ vốn hoá qua TTCK VN suy giảm từ khoảng
40% vào cuối tháng 8/2008 cùng các khiếm khuyết khác trên TTCK đang đặt vấn
đề lớn đối với hoạt động TT – GS. Cho tới nay, vẫn chưa xác định mô hình nào
là chuẩn cho TT – GS TTCK. Hoạt động TT – GS còn bị coi nhẹ, phân tán và
9

mang tính tự phát, chưa kiểm soát được thị trường OTC và thị trường tự do.
Quyết định 02/2008/QĐ-BTC quy định; Thanh tra chứng khoán xử phạt sai phạm
tại cấp UBCKNN, nhiệm vụ giám sát được giao cho 4 đơn vị chức năng tương
ứng với đối tượng quản lý của từng ban, gồm: Ban Quản lý kinh doanh chứng
khoán, Ban quản lý các công ty quản lý quỹ và các quỹ đầu tư chứng khoán, Ban
quản lý phát hành chứng khoán và Ban giám sát TTCK.
c) Thanh tra – giám sát thị trường bảo hiểm:
Về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN): là một tổ chức tài chính Nhà
nước, có vốn pháp định là 5000 tỷ đồng do NSNN cấp, hoạt động không vì mục
đích lợi nhuận, nhưng cho đến nay vẫn không rõ BHT-GVN là loại ĐTTC nào!
Thu nhập của BHTGVN là nguồn thu phí bảo hiểm từ các ĐCTD, nhưng nghiệp
vụ của BHTGVN dường như thoát ly hoàn toàn với gánh nặng rủi ro mà các
TCTD nộp phí phải đối mặt, các suất phải thanh toán bảo hiểm cho người gửi
tiền rất thấp vì phải “chờ” đối tượng bảo hiểm bị công bố phá sản hay giả thể
thực sự bằng văn bản thì BHTGVN mới vào cuộc. Từ khi thành lập tới nay,
BHTG VN mới chỉ chi chưa đầy 20 tỷ để chi bảo hiểm cho người gửi tiền ở hơn
10 quỹ TĐN sau khi bị tuyên bố giải thể. Hơn nữa, Chính phủ và NHNN thường
phải chủ động phòng ngừa nguy cơ phá sản ngân hàng ngay từ khi có những mức
độ nguy hiểm khác nhau, điều này đòi hỏi BHTGVN phải có trách nhiệm với các
TCTD đã nộp phí và phải hoạt động thao sự điều chỉnh của Luật Danh nghiệp,
đồng thời cũng phải là đối tượng bị TT – GS của cơ quan TT – GS chuyên ngành
thanh tra bảo hiểm trên TTTC VN.
Những ĐCTC bảo hiểm khác: Việc giám sát các ĐCTC bảo hiểm đang được
giao chp nhiều vụ chức năng thuộc Bộ Tài chính ứng với các chức năng quản lý
nhà nước như mô hình TT – GS rất manh mún trên TTCK hiện nay. Nghiệp vụ
TT – GS đối với các ĐCTC bảo hiểm còn ở trình độ cổ điển, bị động dự trên sự
việc đã xảy ra, đi xác minh, kiểm tra số liệu và không rõ hoạt động theo sự điều
chỉnh của luật nào?, việc chỉ trả tiền bù của các ĐCTC bảo hiểm phải tuân thủ
theo cơ chế nào? đều “tuỳ quy chế riêng”.
1.2.3 Bài học kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính

Thứ nhất, là bài học về giám sát tài chính và sự thận trọng trong chạy theo
thời cuộc và “thời thượng”. Đặc biệt là sự quan tâm đến việc xây dựng tốt những
nền tảng cơ bản cho phát triển hệ thống và thị trường tài chính (như khuôn khổ
pháp lý về giám sát và tổ chức giám sát tài chính, việc phát triển các định chế đầu
tư dài hạn, định mức tín nhiệm, hệ thống động lực, việc tổ chức lại sàn giao dịch
chứng khoán ). Hiện tại, thông tin minh bạch và sự phân công, phối hợp hiệu
quả giữa các cơ quan giám sát tài chính là đặc biệt quan trọng.
10
Thứ hai, là bài học về việc cho vay mua nhà ở dễ dãi “cho vay dưới chuẩn”
nhưng thiếu cơ chế kiểm soát. Để hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp và thu
nhập khiêm tốn có điều kiện sở hữu nhà ở, Chính phủ Mỹ có chương trình “cho
vay dưới chuẩn”. Các ngân hàng thương mại khi cho đối tượng này vay thì được
hai tổ chức Fannie Mae và Freddie Mac mua lại các khoản vay này. Khi thị
trường bất động sản suy thoái, những người thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn
không có điều kiện để trả nợ.
Thứ ba là bài học về xây dựng và củng cố niềm tin của công chúng. Bởi nhiều
khi sự đỗ vỡ của ngân hàng bắt nguồn từ tâm lý hoảng loạn thái quá của dân
chúng. Bài học này liên quan đến việc sử dụng tốt một công cụ kiểm soát là bảo
hiểm tiền gửi (BHTG). Tổ chức BHTG cần phát huy tốt vai trò của mình để tạo
được niềm tin của công chúng đối với hệ thống tài chính ngân hàng và tham gia
ngăn chặn, xử lý những rủi ro nhằm hạn chế sự đổ vỡ mang tính dây chuyền.
Thứ tư là bài học “chứng khoán hóa bất động sản thế chấp” trong khi hệ
thống kiểm soát không theo kịp nhằm tạo lập ra nguồn vốn khổng lồ, nhưng thực
sự rất mong manh, để đáp ứng tham vọng mở rộng không ngừng mở rộng nghiệp
vụ đầu tư tín dụng và đầu cơ trên thị trường bất động sản. Để hỗ trợ cho vay tạo
lập nhà ở, Chính phủ Mỹ còn cho lập Fannie Mae và Freddie Mac. Hoạt động
chính của Fannie Mae và Freddie Mac là mua lại những món nợ vay thế chấp
bằng bất động sản, đặc biệt là các khoản vay thế chấp "dưới chuẩn" của các ngân
hàng rồi dùng bất động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” bán
cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Như vậy

những món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản phẩm tài chính thông
dụng có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ.
Thứ năm, là bài học về mua bán khống. Mua bán khống ở mức độ vừa phải
có kiểm soát sẽ là chất xúc tác tạo nên sự kích thích cho kinh tế phát triển. Mua
bán khống quá mức sẽ thổi phồng các tổn thất, gây nên những đổ vỡ kinh tế to
lớn khi nó xảy ra.
1.2.4 Kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hội nhập và tự do hóa tài chính:
Thứ nhất, Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị trường tài
chính với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo
nâng dần năng lực và khả năng cạnh tranh, vừa thích nghi và tiến gần hơn đến
những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Sự thành công về việc xúc tiến mở cửa thị
trường tài chính thời gian qua đã cho thấy rằng, sự tham gia của các hoạt động
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính cũng đã mang lại lợi ích đáng
kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ,
11
tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tăng thêm tích luỹ
vốn cho nền kinh tế.
Thứ hai, việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền
với một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay.
Không thể cứ tiếp tục duy trì sự phát triển kinh tế thông qua việc bảo hộ bằng
cách hạn chế sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được
bảo hộ thông qua những cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo vệ
trong điều kiện cạnh tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập. Một trong những
nguyên nhân chủ yếu của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trên thế
giới (cùng với những nguyên nhân khác) là sự yếu kém của chính bản thân hệ
thống tài chính ngân hàng nội địa của các nước thi hành chính sách mở cửa. Do
đó, đã không đối phó nổi những trận bão táp tài chính nảy sinh do hiệu ứng của
đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị trường nếu quá đột ngột do không cho
sự cải cách đáng kể để nâng cao năng lực của hệ thống tài chính nội địa trước khi
tiến hành mở cửa sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng

kiểm soát của chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. Vì vậy, cải cách và
loại bỏ dần tính hành chính bao cấp của hệ thống tài chính nội địa cho thích ứng
với kinh tế thị trường trong môi trường quốc tế được coi là một trong những
chiến lược mang lại sự thành công khi tham gia hội nhập.
Thứ ba, cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ là những cải
cách về mặt cơ cấu tổ chức, năng lực nghề nghiệp, mà phải được tiến hành toàn
diện cả về quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ thống gắn
với những điều kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách về hệ điều hành chính
sách tỷ giá, quản lý ngoại tệ và chính sách lãi suất phải được coi là đặc biệt quan
trọng vì chúng hết sức nhạy cảm đối với nền kinh tế. Bài học rút ra từ các cuộc
khủng hoảng tiền tệ trên thế giới đã cho thấy, việc duy trì một chế độ tỷ giá chính
thức quá xa so với tỷ giá thực, việc thả lỏng trong quản lý ngoại tệ và việc quá
lạm dụng chính sách lãi suất để tác động vào nền kinh tế một cách cưỡng bức
trong một thời gian dài nếu không được điều chỉnh để tiến gần hơn với những
điều kiện quốc tế sẽ là một bất lợi lớn khi tiến hành mở cửa thị trường và tham
gia hội nhập, thậm chí sẽ là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng.
Thứ tư, cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị trường dịch
vụ tài chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống luật
pháp, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả và minh bạch, tạo sân
chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Trong đó, đặc biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý đảm bảo
quyền giám sát kiểm tra của chính phủ và các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với
các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài nhằm đảm bảo sự khống chế của Nhà nước trong việc duy trì sự ổn
12
định và sự lành mạnh của thị trường dịch vụ tài chính. Trước mắt cần xoá bỏ
ngay sự đối xử ưu đãi về thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực dịch vụ tài chính nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa
doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
13

×