Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Tiểu luận đạo đức kinh doanh GREEN WASHING PHÂN TÍCH TRƯỜNG hợp CÔNG TY CP hữu hạn VEDAN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.73 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÔN HỌC: ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
ĐỀ TÀI 06:
GREEN WASHING - PHÂN TÍCH TRƯỜNG HỢP
CÔNG TY CP HỮU HẠN VEDAN VIỆT NAM
GVHD: Lê Thanh Trúc
SVTH: Nhóm 3
Lớp HP:15D13020116203
Tp Hồ Chí Minh – 05/2015
NỘI DUNG
1. GIỚI THIỆU GREENWASHING
1.1 Khái niệm
Ngày nay, ngoài việc quan tâm đến chất lượng, giá cả của hàng hóa và sản
phẩm, người tiêu dùng dần ý thức hơn về quy trình, cách thức chúng được làm ra
và các vấn đề xã hội, đặc biệt là vấn đề môi trường. Nắm bắt được tâm lí này, càng
nhiều nhà sản xuất theo đuổi việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ xanh.
Cũng từ đó, khái niệm “Greenwashing” cũng được ra đời.
“Greenwashing” là thuật ngữ mang ý nghĩa tiêu cực, có nguồn gốc từ thuật ngữ
“Whitewashing”- vốn được dùng trong lĩnh vực chính trị, được hiểu là những nỗ
lực cố ý che giấu sự thật không hay (An intentional attempt to hide unpleasant
facts, especially in a political context).
“Greenwashing” được đặt ra bởi những nhà hoạt động môi trường với hàm
ý diễn tả những hành động đánh lạc hướng người tiêu dùng liên quan đến hoạt
động về môi trường của một công ty hoặc liên quan đến những lợi ích về môi
trường của một sản phẩm hoặc dịch vụ (the act of misleading consumers regarding
the environmental practices of a company or the environmental benefits of a
product or service).
Một hành động được xem là “Greenwashing” khi một công ty hoặc tổ chức
đầu tư thời gian cũng như tiền bạc để khẳng định sản phẩm của công ty mình là sản
phẩm xanh, thân thiện với môi trường (green products) thông qua công cụ quảng


cáo và marketing thay vì thật sự đầu tư vào thực tiễn kinh doanh để tối thiểu hóa
những tác động tiêu cực của sản phẩm đến môi trường sống. Hay nói cách khác
một cách ngắn gọn hơn đó là hành động đánh bóng doanh nghiệp, phủ lên mình
lớp vỏ xanh nhưng bên trong lại ấn chứa quá nhiều bất cập.
1.2 Nhận dạng greenwashing
Việc nhận dạng dấu hiệu của Greenwashing từ các doanh nghiệp đã được
Underwriters Laboratories – một trong những tổ chức về kiểm tra và giám định độc
lập lớn nhất thế giới nghiên cứu thông qua bản báo cáo “Bảy tội ác của
greenwashing” (The Seven Sins of Greenwashing)
1.2.1 Che dấu về những mối lợi bất cập hại (The Sin of the hidden Trade-off)
Đây cũng được xem là một dạng của Greenwashing khi doanh nghiệp tuyên
bố rằng sản phẩm của mình là “xanh” dựa trên một số ít thuộc tính mà không chú ý
đến những vấn đề môi trường quan trọng khác.
Lấy sản phẩm giấy là ví dụ điển hình cho dấu hiệu này. Sẽ thật là khó để cho
rằng giấy là sản phẩm thân thiện với môi trường chỉ bởi vì nó có nguồn gốc từ
những khu rừng được khai thác theo hướng bền vững. Những yếu tố môi trường
quan trọng khác trong quy trình tạo ra giấy, có thể kể đến như năng lượng, khí thải
nhà kính, ô nhiễm nước và không khí có thể là những vấn đề quan trọng và cần
phải xem xét.
1.2.2 Nêu không có bằng chứng (No proof)
Doanh nghiệp cũng bị xem là “greenwasher” khi đưa ra một tuyên bố về môi
trường mà không thể chứng minh được bằng các thông tin dễ truy cập hoặc bởi bên
thứ ba đáng tin cậy chứng thực. Ví dụ điển hình là các doanh nghiệp sản xuất sản
phẩm giấy vệ sinh và khăn giấy, họ tuyên bố về lượng phần trăm tái chế sản phẩm
nhưng lại không có bằng chứng chứng minh.
Trong báo cáo của Terra Choice – một công ty marketing về môi trường năm
2010, không giống như tội che dấu những mối lợi bất cập hại (Có khuynh hướng
giảm từ 100% năm 2007 xuống còn dưới 30% năm 2010), tần suất doanh nghiệp vi
phạm lỗi không có bằng chứng đang khá cao. Ước tính có hơn 70% những tuyên
bố trong các quảng cáo xanh là phạm vào lỗi này, và báo cáo 2010 cũng chỉ ra đây

là lỗi vi phạm phổ biến nhất. Bản thân người tiêu dùng sẽ phải cẩn thận hơn, chỉ
nên tin những tuyên bố về môi trường xanh có nguồn gốc đáng tin cậy mà dễ dàng
tra cứu những tuyên bố của chúng với bằng chứng rõ ràng.
1.2.3 Tạo ra sự mập mờ (vagueness)
Là một tuyên bố không được định nghĩa rõ hoặc quá rộng để cho người tiêu
dùng dễ dàng hiểu sai nghĩa thực của nó.
Lấy ví dụ như một số sản phẩm trên thị trường có dán nhãn ‘All-natural’
(hoàn toàn tự nhiên). Nhưng đây là một thuật ngữ không rõ nghĩa và dễ làm người
tiêu dùng hiểu nhầm, vì thực tế là những chất như Arsenic, uranium, mercury, và
formaldehyde cũng đều là tự nhiên nhưng chúng hoàn toàn là gây độc hại. Do vậy,
“all natural” chưa hẳn đã là xanh, là thân thiện với môi trường.
1.2.4 Nêu điều không thích hợp (irrelevance)
Nhận dạng các doanh nghiệp thuộc trường hợp này là những doanh nghiệp
đưa ra những tuyên bố về môi trường mà những tuyên bố này có thể đúng nhưng
không quan trọng hay không có ích cho người tiêu dùng đang tìm kiếm sản phẩm
ưa thích hơn về mặt môi trường.
Ví dụ điển hình cho trường hợp này là doanh nghiệp sản xuất tủ lạnh. Thông
tin mà họ cũng cấp cho người tiêu dùng là không có chất CFC (“free-CFC”) – vốn
được biết là chất gây phá hủy tầng ozon, ảnh hướng nghiêm trọng đến môi trường.
Trong khi đó, điều này thật sự là không cần thiết bởi bản thân chất CFC là một hóa
chất bị cấm sử dụng bới tất cả các quốc gia trên thế giới.
1.2.5 Chỉ nhận lỗi nhỏ (còn lờ lỗi lớn) (lesser or two evils)
Một tuyên bố mà có thể trung thực trong một lĩnh vực của sản phẩm, nhưng
có nguy cơ sẽ làm sao nhãng người tiêu dùng để không nhận ra các tác động lớn
hơn về môi trường khi xét về tổng thể.
Có thể nhận dạng các doanh nghiệp loại này là những doanh nghiệp sản xuất
các sản phẩm về thuốc lá hữu cơ hay các dòng xe thể thao tiết kiệm nhiên liệu.
Thực tế khảo sát tại Terrachoice (2010) cho thấy số lượng các sản phẩm vi phạm
lỗi này cũng rất ít và có khuynh hướng giảm đáng kể, thậm chí là lỗi này gần như
không xuất hiện trong năm 2010.

1.2.6 Nói dối
Đây là trường hợp mà các doanh nghiêp tuyên bố sai sự thật liên quan đến
môi trường. Các ví dụ phổ biến nhất là sản phẩm giả tự xưng là chứng nhận hoặc
đăng ký Energy Star. Tương tự như với trường hợp “chỉ nhận lỗi nhỏ”, sự vi phạm
về vấn đề này của doanh nghiệp cũng rất ít và cũng có khuynh hướng giảm. Điều
này cũng dễ hiểu bởi đây là lỗi khá nghiêm trọng, một khi doanh nghiệp bị phát
hiện là tuyên bố sai sự thật, thì uy tín, thương hiêu của doanh nghiệp này sẽ bị ảnh
hưởng nghiêm trọng, và theo đó sẽ khó có cơ hội cạnh tranh trong bối cảnh thị
trường hiện nay.
1.2.7 Tôn thờ nhãn mác rỡm
Doanh nghiệp rơi vào trường hợp này thường có những sản phẩm mà ngôn
từ và hình ảnh quảng cáo gây ấn tượng là có bên thứ ba bảo trợ nhưng trong thực tế
là không như vậy, hay nói cách khác là: Nhãn mác rởm.
Ví dụ điển hình, là nhiều doanh nghiệp hay dán những sản phẩm “sinh thái”
(eco), môi trường, thân thiện với môi trường (environment – friendly)…mặc dù
không có tổ chức nào chứng nhận như vậy cả.
Theo khảo sát của Terrachoice 2010, khuynh hướng của nhãn mác rởm này
đang có khuynh hướng tăng lên, từ 23% năm 2009 đến 30% năm 2010.
1.3 Những tác động tiêu cực của greenwashing
Thứ nhất, Greenwashing sẽ khiến chúng ta hiểu nhầm. Cụ thể, hành động
này chỉ nhằm đánh lừa chúng ta, làm chúng ta nghĩ rằng một công ty với một tiểu
sử tồi tệ về bảo vệ môi trường lại là một công ty tốt. Tất nhiên, không phải tất cả
các quảng cáo môi trường đều là không trung thực. Tuy nhiên, sẽ có vấn đề nếu
như có bất kỳ quảng cáo nào không trung thực mà lại được dán nhãn là
“greenwashing” một cách hợp pháp.
Thứ hai, Greenwashing có thể dẫn đến sự chủ quan của người tiêu dùng và
cả công tác quản lý. Nếu một doanh nghiệp trong một ngành cụ thể nào đó nổi lên
nhờ Greenwashing, thì các công ty khác sẽ làm theo cho phù hợp, do đó dẫn đến ảo
tưởng về toàn ngành công nghiệp bền vững về mặt môi trường, thay vì là sự bền
vững của chính ngành công nghiệp đó. Điều này tạo ra ảo tưởng về sự bền vững về

mặt môi trường và có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội chẳng hạn như
người tiêu dùng sẽ lại tiếp tục sử dụng sản phẩm của các công ty khiến môi trường
suy thoái và sẽ làm giảm chất lượng điều kiện sống cho các thế hệ tương lai.
Thứ ba, Greenwashing cũng có thể tạo ra tính đa nghi: nếu người tiêu dùng
cứ mong đợi những quảng cáo theo lối “mèo khen mèo dài đuôi” thậm chí từ công
ty lạc hậu nhất về công nghệ xanh, thì điều này có thể khiến người tiêu dùng hoài
nghi đến cả những công ty đi đầu về bảo vệ môi trường được pháp luật công nhận.
Vô hình dung, các công ty thực sự cam kết chịu trách nhiệm về hành vi đối với môi
trường hoàn toàn có lý khi để phải dè dặt với các “công ty greenwashing”.
2. GIỚI THIỆU CÔNG TY CỔ PHẦN HỮU HẠN VEDAN VIỆT NAM
2.1 Giới thiệu sơ lược về công ty Vedan.
Ở Việt Nam, khái niệm “green washing” còn khá là mới mẻ vì thế nên chúng
ta không thể tìm thấy được bất kì nghiên cứu hay là bài viết chuyên sâu về vấn đề
này. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta có thể cho rằng ở VN không có
“green washing”, “green washer”. Lấy điển hình cho hoạt động greenwashing ở
VN là công ty TNHH quốc tế Vedan.
Vedan Việt Nam được thành lập vào năm 1991 như một chi nhánh của công
ty Trách nhiệm hữu hạn quốc tế Vedan, một công ty của Đài Loan được niêm yết
trên sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông. Cho đến năm 2010, Công ty quốc tế
Vedan đã có bốn chi nhánh hoạt động chính, ba trong số đó là ở Trung Quốc, và chi
nhánh thứ bốn là ở Việt Nam. Vedan đã xâm nhập vào thị trường Trung Quốc, Việt
Nam và những nước khác trong khu vực ASEAN kể từ những năm 1970. Công ty
là một nhà sản xuất hàng đầu Châu Á về những sản phẩm công nghiệp như amino
axit lên men, thực phẩm bổ sung và các sản phẩm từ bột sắn. Để mở rộng thị
trường, công ty mẹ đã thành lập Vedan Việt Nam như một cơ sở sản xuất chính.
Đến năm 2010, Vedan là nhà sản xuất bột ngọt (MGS) lớn nhất tại Đông Nam Á và
là nhà cung cấp Lyzin & sản phẩm từ bột sắn ở Việt Nam. Vedan mô tả phong cách
quản lý dựa trên “Sự khiêm tốn, trách nhiệm, đổi mới” và một phần
của “nền văn hóa doanh nghiệp tương trợ”. Cho đến năm 2010, công ty đã có hơn
1.800 nhân viên Việt Nam. Ngay sau khi mới thành lập, Vedan đã xác định sử dụng

công nghệ sinh học tiên tiến nhất để sáng tạo ra những sản phẩm mới, có giá trị cao
nhằm cung cấp cho thị trường, đồng thời không ngừng đầu tư nghiên cứu phát
triển. Và đó cũng chính là mục tiêu hướng tới của công ty Vedan nhằm đóng góp
cho xã hội.
2.2 Các tuyên bố của Vedan về cộng đồng và môi trường:
Vào website của doanh nghiệp này, ta luôn nhận thấy hình ảnh về một doanh
nghiệp với việc thực hiện CSR hiệu quả, cụ thể là: Nâng cao phúc lợi cho công
nhân, cung cấp dịch vụ y tế 24 giờ, những bữa ăn và phương tiện đi lại miễn phí
cho nhân viên, nhà ở miễn phí cho những ai đến từ các huyện khác, và đặc biệt
thưởng tiền nhân ngày Quốc tế Lao động và Quốc Khánh Việt Nam. Vedan cũng tổ
chức các chương tình huấn luyện đội ngũ nhân viên về truyền thông, kỹ thuật sản
xuất, bảo dưỡng máy móc, an toàn lao động và vệ sinh, bảo vệ môi trường, phòng
chống cháy nổ, điều khoản khẩn cấp, cứu trợ và tiêu chuẩn hoạt động ISO 9000.
Ngoài ra, Vedan cũng cộng tác với các trường Đại học của địa phương và những cơ
quan nông nghiệp nhà nước trong việc cải thiện kỹ thuật và công nghệ nông nghiệp
để tăng năng suất.
Vedan đã đạt chứng chỉ ISO 9001 : 2000 và được chính phủ Việt Nam công
nhận. Các giải thưởng bao gồm Giải thưởng Xuất khẩu Bộ Thương mại năm 2001
cho công ty có giá trị xuất khẩu nổi bật và những đóng góp cho thu nhập của Việt
Nam, và chứng nhận từ Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm
2001 vì những đóng góp cho sự phát triển nông nghiệp và nông thôn của đất nước.
2.3 Các vi phạm của Vedan Việt Nam về môi trường.
Tuy nhiên, ngoài bề nổi về các tuyên bố mạnh mẽ ấy, từ phản ánh, bức xúc
của người dân địa phương về tình trạng lén lút xả nước thải không qua xử lý ra môi
trường, sau hơn 3 tháng theo dõi, ngày 13 tháng 9 năm 2008, đoàn kiểm tra liên
ngành đã bắt quả tang Công ty Vedan đóng tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng
Nai xả một lượng nước thải lớn chưa qua xử lý ra sông Thị Vải. Theo ước tính,
Vedan có thể xả nước thải tới 5.000 m
3
/ngày ra sông.

Sáu ngày sau đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thông báo rằng giám đốc
nhà máy Vedan Việt Nam đã được các cơ quan chính quyền triệu tập vì nhà máy đã
vi phạm luật môi trường như sau:
• Xả nước thải cao hơn gấp 10 lần mức cho phép tại nhà máy sản xuất
tinh bột;
• Xả nước thải cao hơn gấp 10 lần mức cho phép tại nhà máy sản xuất
bột ngọt và lyzin;
• Xả nước thải cao hơn gấp 10 lần mức cho phép tại các nhà máy khác;
• Không cung cấp các bản báo cáo đầy đủ cho các cơ quan chức năng
những thông tin và dữ liệu về bảo vệ môi trường;
• Không ký cam kết bảo vệ môi trường cho trang trại chăn nuôi lợn của
công ty với cơ quan bảo vệ môi trường;
• Phát triển và đưa vào hoạt động một dự án nâng cao năng suất của các
nhà máy sản xuất soda và axít mà không đánh giá tác động đến môi
trường;
• Phát triển và đưa vào các dự án hoạt động để nâng cao năng suất của
các nhà máy, kể cả bột ngọt, tinh bột, gia vị cao cấp, và lyzin mà
không báo cáo đánh giá tác động môi trường;
• Thải chất độc trực tiếp vào môi trường mà không sử dụng các thiết bị
để giảm thiểu mức độ độc hại;
• Không kiểm soát chất thải nguy hại theo quy định bảo vệ môi trường
• Đổ nước thải vào nguồn nước tại các địa điểm không được chỉ định
trong giấy phép.
Vedan đã trở thành một trường hợp điển hình về việc vô trách nhiệm với môi
trường, dẫn đến những hậu quả, thiệt hại về mặt tài chính và danh tiếng thay vì
đáng lẽ trở thành một công ty thành công.
3. PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG GREENWASHING CỦA VEDAN.
3.1 Che dấu về những mối lợi bất cập hại
Vedan quảng cáo phân bón VEDAGRO dạng lỏng ngoài khả năng cung cấp
đầy đủ đạm, kali còn cung cấp các nguyên tố đa, trung vi lượng cần thiết cho cây

trồng sinh trưởng, giúp cây trồng hấp thụ sử dụng những thành phần dinh dưỡng
hữu cơ tốt nhất
Tuy nhiên, nếu sử dụng lượng phân lỏng nhiều trong thời gian dài sẽ khiến ô
nhiễm đất, mặt nước và giảm độ pH rất nhanh, thậm chí gây độc. Thế nhưng, công
ty Vedan không bao giờ đề cập đến các tác hại này khi giới thiệu sản phẩm này cho
người dân.
3.2 Tạo ra sự mập mờ
Vedan thiết kế và lắp đặt hệ thống bơm, đường ống kỹ thuật để bơm dịch
thải lỏng của nhà máy sản xuất lysin, nhà máy bột ngọt, nhà máy sản xuất PGA từ
bể bán âm dung tích 6.000-7.000m3 và bồn chứa 15.000m3 để bơm và xả trực tiếp
vào sông Thị Vải. Việc lắp đặt hệ thống xả dịch thải của Vedan trái với quy trình kỹ
thuật xử lý chất thải (nước thải, dịch thải lỏng), không đúng với nội dung báo cáo
môi trường đã được phê duyệt và vi phạm các quy định của pháp luật về bảo vệ
môi trường.
Trả lời câu hỏi vì sao các cơ quan chức năng tỉnh Đồng Nai nhiều lần kiểm
tra hệ thống xử lý nước thải của Vedan nhưng không phát hiện sự việc gian dối
này? Ông Hoàng Văn Thống, chi cục trưởng Chi cục Bảo vệ môi trường Đồng Nai,
nói: “Đây là một hệ thống kỹ thuật rất tinh vi và phức tạp, ở cấp độ địa phương
Đồng Nai không đủ người, nghiệp vụ và phương tiện kỹ thuật để phát hiện hành vi
gian dối này”.
Tuy nhiên, tại cuộc họp báo, vị đại diện Công ty Vedan đã phải ba lần xin lỗi
trước các cơ quan báo chí, nhưng lại gọi những tổn thất do họ gây ra, tạo nên cơn
“sốc nặng” cho cả xã hội chỉ là những sai sót về quản lý. Đại diện Vedan phát biểu:
“Về bản thân, tôi chưa bao giờ nghe về hai đường ống ấy. Trên danh nghĩa, đó là
thiết bị hút nước, làm mát máy…Công ty chúng tôi có những sai sót về vấn đề
quản lý. Chúng tôi đã gây ra cho xã hội mọi sự xáo trộn. Chúng tôi đã tỏ thái độ
thành khẩn, xin báo chí và xã hội cho chúng tôi thời gian để khắc phục…”. Ở đây,
vị giám đốc của Vedan đã cố tình đưa ra một lời giải thích nhằm gây ra sự không rõ
ràng giữa một hệ thống xả nước thải và hệ thống hút nước, làm mát máy. Từ đó,
làm cho mọi người bị hiểu sai về công dụng của hai hệ thống đường ống này là vô

hại với môi trường, trong khi trên thực tế thì đây là đây chính là tác nhân gây ra ô
nhiễm cho dòng sông Thị Vải.
3.3 Nêu điều không thích hợp
Vedan công bố hệ thống xử lý nước thải UASB còn lưu lại hàm lượng
cyanure mà Vedan thông tin cung cấp cho người tiêu dùng là giới hạn hàm lượng
loại chất độc hại này có trong nước thải sau xử lý là 0.1mg/lít là đúng theo quy
định tiêu chuẩn điều này là thật sự không cần thiết bởi bản thân một hệ thống xử lý
nước thải phải đảm bảo tiêu chuẩn này.
3.4 Chỉ nhận lỗi nhỏ
Công ty tuyên bố chỉ giới hạn những lời hứa thực hiện ngay các yêu cầu
pháp lý - thanh toán lệ phí môi truờng và tiền phạt, tạm dừng sản xuất và cải tiến
hệ thống xử lý nuớc thải của nó.
Không có quan chức nào của công ty thể hiện sự sẵn sàng để sửa chữa
những thiệt hại cho hệ sinh thái sông, hoặc để đền bù nguời dân địa phương bị ảnh
hưởng nhiều do ô nhiễm sông.
Năm 2005, Vedan đã một lần nhận lỗi và bồi thường cho người dân
TP.HCM, Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu 15 tỉ đồng nhưng chỉ tuyên bố dưới danh
nghĩa “hỗ trợ ngư nghiệp”. Rõ ràng Vedan không hề muốn nhận phần lỗi lớn về
mình mà chỉ thừa nhận những lỗi nhỏ để làm xoa dịu dư luận.
Vedan thuê Tiến Sỹ Lee Ken, một giáo sư Đài Loan để ước tính thiệt hại đối
với môi trường do công ty gây ra. Ông Ken báo cáo rằng các khu công nghiệp dọc
sông Thị Vải và các nhánh sông như Gò Đậu, Nhơn Trạch 2, Phú Mỹ 1 và Mỹ
Xuân A cũng phải chịu trách nhiệm cho việc ô nhiễm này. Ông nói thêm: Vedan chỉ
chịu trách nhiệm từ 8,8 - 77% mức độ ô nhiệm của dòng sông, phụ thuộc vào từng
khu vực. Cùng với phạm vi trách nhiệm rộng của Vedan thì khoản ước tính này rất
trái ngược so với các báo cáo mà hội đồng môi trường Việt Nam đã đánh giá. Theo
đó, Vedan đã gây thiệt hại gần 90% đối với con sông. Giáo sư Đài Loan cho rằng:
nước thải từ Vedan chỉ gây thiệt hại đến 325 hecta khu vực nuôi thủy hải sản ở tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu thay vì 2.400 hecta như đã công bố từ chính tỉnh này. Do đó,
công ty tìm cách giảm mức bồi thường tại hàng loạt buổi gặp gỡ với các hội nông

dân và các tổ chức địa phương và kéo dài cho tới tháng 9 năm 2010. Một tác hại
tiêu cực của những cuộc thương lượng kéo dài đó là mỗi buổi gặp gỡ lại được đưa
lên các bản tin thời sự. Điều này càng làm ảnh hưởng trầm trọng hơn tới danh tiếng
của Vedan và càng thôi thúc những yêu cầu đồi bồi thường.
3.5 Nói dối
Vedan công bố có xây dựng 3 hệ thống xử lý và xả thải “hiện đại”, nhưng
tất cả là nhằm đối phó, đúng hơn là ngụy trang với cơ quan chức năng Trung ương
và địa phương. Để nhằm giảm chi phí sản xuất, tối đa hoá lợi nhuận, công ty Vedan
chỉ cho vận hành hệ thống xử lý nước thải khi có đoàn thanh tra kiểm tra, khi
không có kiểm tra thì cho xả thẳng nguồn nước chưa xử lý ra sông. Hơn thế nữa,
theo nhận định của đoàn thanh tra, hệ thống này không đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ
thuật cần thiết cho việc xử lý kỹ thuật, nếu không nói là làm cho có.
Hành động của Vedan vi phạm các nguyên tắc xét dưới góc độ đạo đức kinh
doanh:
Tính trung thực
 Hành động xả nước thải không qua xử lý của vedan là hành đông gian dối,
xảo trá với thủ đoạn tinh vi để “ăn không” tiền phí bảo vệ môi trường
khoảng 127 tỷ đồng
 Công ty không lập hồ sơ đăng kí phát sinh amiăng (là chất thải nguy hại) với
cơ quan quản lý
 Xây dựng 3 hệ thống xử lý và xả thải hiện đại nhưng không đảm bảo tiêu
chuẩn kĩ thuật nhằm đối phó, ngụy trang với cơ quan chức năng và địa
phương
Tôn trọng con người
 Hành động xả nước thải không qua xử lý của vedan là hành đông gian dối,
xảo trá với thủ đoạn tinh vi để “ăn không” tiền phí bảo vệ môi trường
khoảng 127 tỷ đồng
 Công ty không lập hồ sơ đăng kí phát sinh amiăng (là chất thải nguy hại) với
cơ quan quản lý
 Xây dựng 3 hệ thống xử lý và xả thải hiện đại nhưng không đảm bảo tiêu

chuẩn kĩ thuật nhằm đối phó, ngụy trang với cơ quan chức năng và địa
phương
Lợi ích doanh nghiệp với lợi ích của khách hàng và xã hội
 Việc hồi sinh dòng sông Thị Vải đã được tính toán là phải mất tới 15 năm và
chi phí lên tới hàng trăm tỷ đồng.
 Trong khi Vedan “tiết kiệm” chi phí cho mình lại gây ra hậu quả khôn lường
cho xã hội.
4. KẾT LUẬN
Như đã phân tích trên đây, nhu cầu về việc tiêu dùng của sản phẩm xanh
ngày càng cao, và đó cũng là một xu hướng tất yếu hướng đến một xã hội bền
vững. Do vậy, bản thân doanh nghiệp nên nhận thức rõ về xu hướng này để hướng
đến việc sản xuất bền vững, tạo ra những sản phẩm thật sự “xanh”, thân thiện với
môi trường, từ đó luôn tạo được niềm tin đối với người tiêu dùng. Để làm được
điều này, doanh nghiệp phải luôn tránh rơi vào trường hợp bị đánh giá là thực hiện
“greenwashing” thông qua một số định hướng:
– Hiểu biết về tất cả các tác động của môi trường của sản phẩm trong toàn
bộ vòng đời của nó.
– Luôn theo đuổi việc cải thiện môi trường (xuyên suốt vòng đời) và khuyến
khích khách hàng đi cùng với doanh nghiệp trên hành trình này.
– Không nên tuyên bố về lợi ích môi trường khi mà tất cả các đối thủ cạnh
tranh của doanh nghiệp đều như vậy.
– Luôn luôn nói thật với khách hàng.
Dưới giác độ người tiêu dùng, sự tác động của chính những người tiêu dùng
thông minh cũng sẽ góp phần làm giảm đi thực trạng greenwashing như hiện nay.
Người tiêu dùng có thể tiếp tục ủng hộ cho những sản phẩm xanh hơn (greener
products); tìm kiếm và chọn những sản phẩm với nhãn hàng thân thiện với môi
trường tin cậy; luôn nhớ cách nhận dạng “greenwashing” và chọn những sản phẩm
có tính minh bạch, có thông tin và có tính giáo dục.

×