Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Các yếu tố tác động đến cụm ngành hỗ trợ dệt may theo mô hình kim cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.8 KB, 26 trang )

1. 
Theo M.Porter, năng lực cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam hiện nay đều dựa
trên những lợi thế tự nhiên được thừa hưởng, đặc biệt là vị trí địa lý và đặc
điểm dân số. Chính phủ đã giúp các lợi thế tự nhiên này được bộc lộ và phát
huy thông qua việc mở cửa thị trường và đầu tư vào cơ sở hạ tầng cơ bản. Tuy
nhiên, Việt Nam chưa tạo dựng được các lợi thế mới, đặc trưng.

Một giải pháp được giáo sư nhấn mạnh là phát triển các cụm ngành sản xuất.
Ông đề xuất Việt Nam nên chia thành các cụm khu vực, đánh vào lợi thế từng
khu vực để xây dựng các cụm ngành. Ví dụ như cụm ngành điện tử và cơ khí ở
Hà Nội và các tỉnh lân cận dựa trên năng lực các nhà cung cấp nội địa; cụm
ngành logistics ở khu vực TP HCM dựa trên lợi thế là cơ sở hạ tầng; cụm ngành
du lịch ở khu vực miền Trung dựa vào chiến lược phát triển và các dịch vụ có
liên quan…Theo GS, Việt Nam cần tổ chức lại các chính sách hiện nay để lấy
cụm ngành làm trung tâm, đặc biệt trong lĩnh vực liên quan tới thu hút đầu tư,
phát triển kỹ năng lao động, khu công nghiệp, và phát triển khu vực tư nhân
trong nước; Tiến hành dự án lập bản đồ các cụm ngành nhằm định vị và đánh
giá các cụm ngành trên toàn quốc; Khuyến khích việc thực hiện các dự án cụm
ngành thí điểm thông qua việc thành lập một Quỹ sáng kiến cụm ngành Việt
Nam.
Ông nói. Vì thế, vai trò của
Chính phủ trong các sáng kiến cụm ngành được ông nêu rõ: Chính phủ nên hỗ
trợ tất cả các cụm ngành đã tồn tại và mới nổi, hỗ trợ thu thập và công bố số
liệu ở cấp cụm ngành, sẵn sàng thực hiện các kiến nghị. Chính sách cụm ngành
phải tận dụng tất cả những tài sản sẵn có, yếu tố lịch sử và vị trí địa lý, thúc đẩy
cạnh tranh để nâng cao năng suất và hiệu quả. Chính phủ không nên chỉ lựa
chọn những cụm ngành mình thích, lựa chọn các công ty mình thích, bao cấp
hoặc bóp méo cạnh tranh, định đoạt các ưu tiên phát triển của cụm ngành.
Ngành dệt may Việt Nam, từ năm 1990 đến nay, đã phát triển mạnh mẽ và
ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình tăng trưởng của nền kinh tế.
Trong tất cả các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu hiện nay, dệt may Việt Nam


là ngành có kim ngạch xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng lớn nhất.
Bảng cơ sở sản xuất
Năm 2000 Năm 2005 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011
Tổng cộng 7522 11073 14451 15921 18043
Dệt 3714 3311 3307 3519 3291
Trang phục 3808 7762 11144 12402 14752
Nguồn: Niêm giám thống kê TP Hồ Chí Minh và Tổng cục Thống kê
Năm 2011 có khoảng 115 DN sản xuất sợi và chỉ, gần 290 DN dệt, gần 180
DN thêu, in, đính cườm, gần 40 DN tham gia cung cấp phụ liệu, 50 DN đan
lưới, bện dây đai, 40 DN nhuộm, tẩy.( một số DN có thể thực hiện trọn gói
chuỗi giá trị sợi – dệt – nhuộm, hoàn tất gia công sản phẩm cuối), 10 DN sản
xuất linh kiện máy móc chuyên ngành dệt – may. Với những thành tựu này dệt
may Việt Nam đang là ngành công nghiệp quan trọng cho sự phát triển của đất
nước.
2.  ! "
#$

 Các yếu tố đầu vào:
%&'()&*++,-+./%0(123
• Tài nguyên thiên nhiên
Một thực tế là ngành dệt may Việt Nam vẫn đang chủ yếu gia công dựa trên đơn
đặt hàng của đối tác với mẫu mã và nguyên phụ liệu đối tác cung cấp. Nguyên
nhân do khâu nghiên cứu, thiết kế mẫu mã của Việt Nam hiện ở trình độ kém; khả
năng thâm nhập thị trường nước ngoài chưa tốt nên phải qua khâu trung
gian."Trình độ còn hạn chế, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ, yếu kém thì phải
làm gia công mới sống được. Muốn đứng ra tự mua nguyên liệu, bán sản phẩm thì
phải có thương hiệu, có quy mô sản xuất và hệ thống phân phối lớn… Những yếu
tố trên rất quan trọng nhưng hiện chúng ta rất yếu, mới chỉ có vài thương hiệu đáng
được kể tên như May Việt Tiến, May Nhà Bè…
Theo hiệp hội Dệt may VN, Tỷ lệ nội địa hóa về nguyên phụ liệu của toàn ngành

hiện nay mới đạt khoảng 48%, nhiều chủng loại vải và phụ liệu vẫn phải nhập khẩu
từ Trung Quốc và một số nước ASEAN.
Theo hiệp hội Bông sợi VN, ngành dệt may hiện có nhu cầu sử dụng khoảng 6
triệu mét vải/năm, song chỉ sản xuất trong nước được khoảng 1,2 triệu mét, lượng
vải phải nhập khẩu lên tới 4,8 triệu mét/năm, tổng công suất ngành nhuộm cũng
chỉ đạt khoảng 800 triệu mét vải/năm. Đầu tư vào lĩnh vực dệt nhuộm cần một
lượng vốn lớn, xử lý chất thải ra môi trường tốn kém, thiếu bí quyết công nghệ và
nhân lực lành nghề, toàn bộ thuốc nhuộm đang sử dụng đều phải nhập khẩu.
Hiện nay, VN chủ yếu là sản xuất gia công do chỉ chủ động được khoảng 30 – 40%
nguồn nguyên phụ liệu, trong đó, sợi tổng hợp đáp ứng được 60% nhu cầu, vải 30
– 35%, bông đáp ứng 10% ( mỗi năm trong nước chỉ mới sản xuất được từ 13000
đến 16000 tấn bông xơ).
Hàng may mặc thường xuất khẩu qua nước thứ ba nên hầu hết nguyên phụ liệu đều
được khách đặt hàng cung cấp, tỷ lệ chất trợ và hóa chất cơ bản trong nước sản
xuất cung cấp cho ngành dệt chiếm từ 5 – 25% tùy chủng loại nhưng hầu hết là sản
phẩm có giá trị thấp, còn thuốc nhuộc và phụ tùng, chi tiết cho thiết bị dệt may
phải nhập khẩu hoàn toàn.
Các nguyên liệu chính: chỉ may, bông tấm, mếch dính, cúc nhựa, khóa kéo, băng
chun, bao bì đã được đầu tư sản cuất nhưng chỉ đáp ứng được 1 phần nhỏ nhu cầu
thị trường nội địa.
Cụ thể, trong ngành Dệt - May, các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được ưu tiên phát
triển gồm: Xơ thiên nhiên (bông, đay, gai, tơ tằm); xơ tổng hợp (PE, Viscose); Vải
(vải kỹ thuật, vải không dệt); hóa chất, chất trợ, thuốc nhuộm phục vụ ngành
nhuộm hoàn tất vải; phụ liệu ngành may (cúc, mex, khóa kéo, băng chung).
VN chỉ tập trung ở các sản phẩm gia công và quá phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên
liệu đầu vào nên giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp.
Cụ thể: ở một số DN:
-Công ty cổ phần may Ðồng Nai mới chỉ sử dụng 45 đến 50% vải nguyên liệu và
60 đến 70% phụ liệu trong nước, còn lại phải nhập khẩu nước ngoài. Mặc dù, trong
nước đã sản xuất nhiều loại nguyên phụ liệu dệt may nhưng cơ bản các DN dệt vẫn

chưa đáp ứng yêu cầu khách hàng cả về số lượng và chất lượng hàng cao cấp để
làm những đơn hàng xuất khẩu.
-Tổng công ty may Nhà Bè – công ty cổ phần cũng phải nhập khẩu tới 50%
nguyên phụ liệu từ nước ngoài; họ sử dụng chỉ khâu của Phong Phú, dây kéo của
Công ty cổ phần phụ liệu may Nha Trang hay của Công ty TNHH YKK Việt
Nam…, phần còn lại vẫn phải nhập khẩu. Không chỉ May Nhà Bè mà nhiều DN
may khác đều có nhu cầu mua nguyên phụ liệu trong nước bởi nếu mua được
nguyên liệu trong nước thì DN sẽ tiết kiệm được chi phí và thời gian, nhất là bảo
đảm đúng thời gian giao hàng cho các đối tác.
- Trong nhiều trường hợp, công ty phải thực hiện những đơn hàng rất gấp, nếu mua
nguyên liệu ở nước ngoài, DN phải mất chi phí cử người sang tận nơi đàm phán
hợp đồng, chưa kể khi hàng về Việt Nam thì làm thủ tục hải quan nhập khẩu
thường mất nhiều thời gian, hàng về không kịp, ảnh hưởng đến cả đơn hàng. Tổng
Giám đốc Phạm Phú Cường nhấn mạnh, DN xuất khẩu được hàng ra nước ngoài,
đem ngoại tệ về, nếu không phải sử dụng số ngoại tệ đó để mua lại nguyên phụ liệu
thì sẽ đem lại nhiều giá trị gia tăng hơn cho sản phẩm xuất khẩu.
Năm 2011, ngành sợi sử dụng 330 nghìn tấn bông, trong đó bông trong nước mới
đáp ứng 1,52%; 400 nghìn tấn xơ trong đó xơ trong nước sản xuất đạt 30%.
Theo thống kê của Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas), năm 2012, tổng nhập khẩu
nguyên phụ liệu để phục vụ xuất khẩu và tiêu dùng nội địa năm qua đạt 11,3 tỷ
USD. Trong đó, nhập khẩu bông 875 triệu USD (chiếm 98% nhu cầu), xơ sợi các
loại 1,4 tỷ USD (chiếm 54%), nhập khẩu vải lên tới 6,8 tỷ mét, trị giá 7,045 tỷ
USD (chiếm 88%) phụ liệu các loại 2,043 tỷ USD.
Số liệu thống kế từ ngành công nghiệp dệt may cho thấy, 7 thángdầu năm 2013,
Việt Nam nhập khẩu 103.000 tấn bông (trị giá 680 triệu USD, tăng 30%), 4,741 tỷ
USD vải (tăng 18,8%), 1,369 tỷ USD phụ liệu các loại (tăng 18,2%), 133.000 tấn
xơ sợi , trị giá 857 triệu USD (tăng 7,5%).
Theo ông Liêm, từ nay đến năm 2020 sẽ có nhiều cơ hội phát triển khá tốt, nhưng
sau năm 2020 cơ hội giảm dần. “Cần chuyển từ lượng sang chất, nâng cao khâu tự
thiết kế, mẫu mã thời trang, dệt may gia công chuyển về vùng nông thôn. Tập

trung vào sản xuất nguyên phụ liệu như sản xuất chủng loại vải chất lượng cao, sản
xuất sợi…”- ông Liêm đóng góp ý kiến.
Tại buổi góp ý, các chuyên gia cũng đề xuất, để thực hiện mục tiêu này, ngành dệt
may cần tập trung vào các nhóm giải pháp: phát triển mở rộng thị trường; định vị
các cụm công nghiệp dệt may tập trung, sản xuất theo hướng chuyên môn hóa,
cung cấp sản phẩm trọn gói; Tăng cường sự liên kết giữa các nhà sản xuất, các nhà
cung ứng và tham gia trong chuỗi giá trị của ngành. Phát triển nguồn nhân lực,
phát triển công nghiệp hỗ trợ về xơ sợi tự nhiên; khuyến khích đầu tư nước ngoài
vào phát triển xơ xợi tổng hợp, thuốc nhuộm chất trợ.
• Tài nguyên con người
- Mạnh:
Nguồn lao động dồi dào, khéo léo,tay nghề may tốt, cần cù, chịu khó;
Tiền gia công sản phẩm rẻ, chi phí nhân công thấp;
- Yếu:
Lao động có tay nghề cao, giàu kinh nghiệm còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Bên cạnh đó, mức
độ ổn định của nguồn lao động trong ngành may mặc không cao khiến cho các doanh
nghiệp may thường xuyên phải quan tâm đến việc tuyển dụng lao động mới;
Bên cạnh đó, các rào cản kỹ thuật về vệ sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội,
chống trợ giá có xu hướng ngày càng tăng. Sức thu hút hấp dẫn nhân lực cho ngành
dệt may ngày càng yếu đi so với các ngành công nghiệp khác.
Sản xuất mô hình gia công chiếm tỷ lệ cao, giá trị gia tăng còn thấp; kỹ năng quản lý
sản xuất còn yếu.
So với Trung Quốc, Việt Nam thua kém về khả năng cung cấp sản phẩm trọn gói,
năng suất lao động cũng như kinh nghiệm sản xuất. Với Indonesia, năng lực sản xuất
lớn, đồng bộ, truyền thống dệt lâu đời, nguồn lao động ổn định và chi phí thấp… là
những yếu tố cạnh tranh với Việt Nam. Tuy nhiên, các chuyên gia kinh tế đều chỉ ra
ưu điểm hứa hẹn sẽ thúc đẩy ngành dệt may Việt Nam mở rộng thị trường là việc ký
kết Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) với những ưu
đãi lớn về thuế quan.
• Nguồn vốn:

Hai ngành cần đầu tư vốn lớn nhất là dệt và nhuộm vải, tuy đã được chú trọng nhưng
chưa đủ sức và hiệu quả còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu phục vụ cho khâu sản
xuất ra sản phẩm cuối cùng.
Mặc dù dòng đầu tư đang dịch chuyển sang các nước Đông Nam Á trong đó có Việt
Nam, thị trường tiêu thụ ngày càng được mở rộng, phát triển do các hiệp định FTA
mang lại nhưng khả năng cạnh tranh từ thị trường Trung Quốc, Bangladesh,
Indonesia, Campuchia ngày càng quyết liệt.
Ông Vũ Ngọc Thuần, Giám đốc Công ty May Đồng Tiến (Đồng Nai) băn khoăn,
ngoài nguyên vật liệu thiếu, tỷ lệ nội địa hóa máy móc của các doanh nghiệp còn thấp,
địa phương có xu hướng không mặn mà thu hút đầu tư vào các ngành dệt nhuộm vì sợ
ô nhiễm môi trường, đang tiếp tục là thực tế khó cho ngành trong nỗ lực cải thiện sự
chênh lệch này.
Là DN có vai trò đầu tàu, từ đầu năm đến nay, Vinatex đã khởi công 5 dự án sản xuất
nguyên phụ liệu, trong đó chủ yếu là các nhà máy sợi. Tuy nhiên, trong khi các dự án
nguyên liệu thì có hạn, nhu cầu của DN lại lớn, "nguồn cung thiếu hụt" vẫn là vấn đề
nan giải.
• $4567 
Công tác thu thập, phân tích, cung cấp thông tin, thị trường trong nước và quốc tế
chưa kịp thời.
• $4567"8 
Công nghệ và thiết bị may đã được đổi mới và hiện đại hóa đến 90%, sản phẩm may
chất lượng phân khúc trung bình khá có tính cạnh tranh cao.
Nhìn chung, hiệu quả sử dụng thiết bị sợi, dệt, nhuộm chưa cao.
Công nghệ hỗ trợ còn yếu, phần lớn vải và phụ liệu may phụ thuộc vào nhập khẩu.
Liên kết trong chuỗi cung ứng yếu, chưa hình thành được các cụm, các khu công
nghiệp dệt may.
• .9: ;<.=>
Nghiên cứu đã chứng minh rằng ngành dệt may đang có những điểm yếu cần phải
thay đổi để tồn tại và phát triển: hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
đang chỉ tập trung ở các sản phẩm gia công và quá phụ thuộc vào nhập khẩu nguyên

liệu đầu vào nên giá trị gia tăng hàng xuất khẩu thấp. Bên cạnh đó, năng lực cạnh
tranh của ngành chủ yếu dựa vào chi phí lao động thấp và các chi phí được hỗ trợ như
điện, nước và đất đai !" #!$
%&'()*+,!%-.$$*+/0'
-1$%-.23% (4* - +5
$(627%&8!%-.!935 !" 
#!93:9!;%<=!>
 =?@!ABC1+
(Petrotimes) – Hiện nay, ngành dệt may TP HCM mặc dù vẫn chiếm quy mô lớn
nhưng tốc độ tăng trưởng giảm dần. Điều này cũng làm hạn chế năng lực cạnh tranh
của ngành dệt may tại TP HCM.
Theo ông Vũ Thành Tự Anh – Viện Chính sách Công (IPP), trong ngành dệt may TP
HCM, thì may mặc và dệt là 2 sản phẩm chủ yếu, trong đó ngành may mặc đứng thứ
5, dệt đứng thứ 11 trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp chế biến của TP HCM.
Ngành dệt may được xếp vào một trong 6 ngành công nghiệp chế biến quan trọng của
thành phố.
Hiện nay, ngành công nghiệp may mặc TP HCM cũng có tốc độ tăng trưởng cao, bình
quân 17%/năm. Tuy nhiên, trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng giảm đáng
kể, thấp hơn tốc độ tăng trưởng trung bình của ngành may mặc cả nước (18,4%/năm).
Ngành dệt tốc độ tăng trưởng bình quân chỉ 8%/năm, thấp hơn mức tăng trưởng
11,6% của cả nước.
Tầm quan trọng của công nghiệp may mặc TP HCM thể hiện rõ nhất trong cơ cấu kim
ngạch xuất khẩu. Hàng may mặc luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu xuất khẩu
của TP HCM (không kể dầu thô) và vượt xa kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày,
thủy sản, gạo.
Ngành dệt may TP HCM cũng đóng góp đến gần 40% giá trị sản xuất hàng dệt may
của cả nước. Về mặt số lượng không thể phủ nhận được thành công của ngành dệt
may, tuy nhiên chất lượng tăng trưởng của ngành được đánh giá thấp, chủ yếu vẫn là
gia công, cắt may.
Thấy bảng này hay, nên t bê luôn vào.chả muốn bỏ ^^

Điểm
mạnh
- Nguồn lao động dồi dào, khéo léo, cần cù, chịu khó;
- Tiền gia công sản phẩm rẻ, chi phí nhân công thấp;
- Chất lượng các sản phẩm may mặc của Việt Nam được các nước nhập
khẩu đánh giá cao;
- Kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam ngày càng tăng và thị
trường xuất khẩu ngày càng được mở rộng;
- Các doanh nghiệp may đang dần chú trọng và có kế hoạch đầu tư nâng
cao năng lực thiết kế, năng suất lao động, ứng
dụng công nghệ vào sản xuất nhằm giảm lãng phí vềnguyên vật liệu
Điểm
yếu
- Công nghệ của các doanh nghiệp trong ngành vẫn còn lạc hậu;
- Lao động có tay nghề cao, giàu kinh nghiệm còn chiếm tỷ lệnhỏ. Bên
cạnh đó, mức độ ổn định của nguồn lao động trong ngành may mặc không
cao khiến cho các doanh nghiệp may thường xuyên phải quan tâm đến
việc tuyển dụng lao động mới;
- Chủ yếu là thực hiện may gia công cho các doanh nghiệp nước ngoài nên
giá trị gia tăng của ngành may còn thấp;
- Chưa xây dựng được thương hiệu riêng cho ngành may của Việt Nam tại
thị trường nước ngoài nên không chủ động được kênh phân phối và thị
trường tiêu thụ,
- Phần lớn nguyên liệu cho ngành may mặc hiện nay vẫn phải nhập khẩu
dẫn đến giá trị thực tế thu được của ngành chưa cao,
- Ngành may mặc Việt Nam hiện chưa chú trọng nhiều đến thịtrường nội
địa;
- Khả năng tự thiết kế còn yếu, phần lớn là làm theo mẫu mã đặt hàng của
phía nước ngoài để xuất khẩu.


hội
- Dân số Việt Nam đông sẽ cung cấp một nhu cầu lớn cho ngành may mặc
Việt Nam;
- Mức sống và thu nhập của người dân ngày càng tăng lên sẽ khiến cho
nhu cầu đối với các sản phẩm may mặc ngày càng tăng, đặc biệt là các sản
phẩm trung và cao cấp;
- Hàng may mặc của Việt Nam ngày càng nhận được sự tín nhiệm của các
nước nhập khẩu (Mỹ, EU, Nhật Bản…) do chất lượng sản phẩm cao nên
sẽ có thể mở rộng hơn thịphần xuất khẩu cũng như tăng giá trị xuất khẩu;
- Việt Nam trở thành thành viên của WTO sẽ được hưởng những ưu đãi về
thuế suất khi xuất khẩu hàng may mặc vào các nước khác;
- Ngành may mặc trong thời gian tới được coi là ngành ưu tiên và khuyến
khích phát triển nên sẽ nhận được những nguồn vốn đầu tư lớn cả trong và
ngoài nước
Thách
thức
- Các quốc gia nhập khẩu thường có những yêu cầu nghiêm ngặt đối với
chất lượng của hàng may mặc nhập khẩu vào, bao gồm cả hàng hóa của
Việt Nam.;
- Hàng hóa Việt Nam cũng như của một số quốc gia khác có nguy cơ bị
kiện bán phá giá và áp mức thuế chống bán phá giá nhằm bảo vệ ngành
may mặc của nước nhập khẩu;
- Để thu được lợi nhuận cao thì Việt Nam cần phải đầu tư ác sản phẩm
thiết kế thời trang để đáp ứng yêu cầu của thịtrường trong nước cũng như
để xuất khẩu.;
- Những biến động bất lợi về giá dầu thế giới, giá lương công nhân có thể
làm tăng giá thành sản xuất của doanh nghiệp may. Nếu giá sản phẩm may
mặc của Việt Nam tăng lên và cao hơn các nước khác thì các nước nhập
khẩu sẽ chuyển hướng sang những nước có giá thành rẻ hơn và không
nhập khẩu hàng may mặc của Việt Nam nữa, do đó sẽ làm giảm sút kim

ngạch xuất khẩu ;
- Sự cạnh tranh mạnh mẽ của hàng may mặc Trung Quốc vớigiá thành rẻ
và kiểu dáng mẫu mã đa dạng, phù hợp với thu nhập của người dân Việt
Nam và các nước trên thế giới.
 Các điều kiện về nhu cầu:
- Tỷ lệ nội địa hóa của toàn ngành dệt may mới đạt khoảng 48% và còn
tiếp tục tăng.
- Ngành dệt may hiện có nhu cầu khoảng 6 triệu mét vải/ năm ( tuy nhiên
chỉ sản xuất trong nước được 1,2 triệu mét)
- Tổng công suất ngành nhuộm là 800 triệu mét vải/ năm
- Sự phát triển của cụm ngành phải đáp ứng được nhu cầu nguồn nguyên phụ
liệu trong nước, trong đó sợi tổng hợp đáp ứng được 60% nhu cầu, vải 30-35%,
còn bông là 10%, tỷ lệ chất trợ và hóa trợ cơ bản trong nước chỉ đáp ứng được
5-25% tùy chủng loại. còn thuốc nhuộm, phụ tùng, chi tiết cho thiết bị dệt may
hoàn toàn phải nhập khẩu.
- Sau nhiều nỗ lực từ phía doanh nghiệp và chính phủ, một số phụ liệu
chính như chỉ may, bông tấm, mếch dính, cúc nhựa,khóa kéo, băng chun, nhãn
mác, bao bì đã được đầu tư sản xuất nhưng chỉ đáp ứng được một phần nhỏ của
nhu cầu nội địa.
- Không chỉ nhu cầu hàng hóa có chất lượng cao ở các nước bạn hàng, thì
theo Vitas năm 2011 trong số 11 tỷ USD nhập khẩu nguyên phụ liệu cho ngành
dệt may thì có tới 3,6 tỷ USD dành để sản xuất hàng phục vụ thị trường nội địa.
- Đời sống nhân dân càng cải thiện thì nhu cầu “ăn ngon, mặc đẹp” ngày
càng cao, để đáp ứng nhu cầu đó thì chúng ta đã dần xây dựng được những
thương hiệu một số hãng may như viettien, nhabe… và cho ra đời những dòng
sản phẩm phục vụ người có thu nhập cao.
- Ngoài các mặt hàng may mặc thì nhu cầu về các mặt hàng khác như:
chăn, ga, gối, đệm, màn, thảm… của người dân ngày càng cao để phục vụ nhu
cầu đa dạng của đời sống
- Dệt may Việt Nam hiện chiếm vị trí thứ 5 trong số các nước phát triển

lớn trên Thế giới, đặc biệt là việc Việt Nam tham gia đàm phán các hiệp định
thương mại tự do (FTA) giũa Việt Nam, ASEAN với EU, đặc biệt là Hiệp định
thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã mở ra cơ hội lớn cho Việt Nam
đẩy mạnh xuất khẩu dệt may. Điều này đòi hỏi phải có sự hỗ trợ và phát triển
của các cụm ngành có liên quan, để Việt Nam đáp ứng được đòi hỏi về tiêu
chuẩn vải, sợi, thành phẩm để xuất khẩu.
- Do các nước nhập khẩu hàng hóa của ngành dệt may có khá nhiều nước
phát triển nên nhu cầu của họ là hàng hóa chất lượng cao. Nên thường thì họ sẽ
cung cấp luôn nguồn nguyên phụ liệu chất lượng cao cho việt Nam gia công chế
biến => càng cần có sự phối hợp và phát triển đồng đều giữa các doanh nghiệp
trong cụm ngành.
 Bối cảnh cạnh tranh:
 ?@AB"CDE#FGHI#FGHJ#K#LMDN
- Việc khởi động đàm phán các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa Việt
Nam, ASEAN với EU, đặc biệt là Hiệp định Thương mai xuyên Thái Bình
Dương (TPP) mà Việt Nam là một trong 9 thành viên, đang ở ra nhiều cơ hội
cho dệt may Việt Nam.
- Dệt may Việt Nam hiện đang chiếm vị trí t5 trong số các nước xuất khẩu lớn
trên thế giới. Cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may có thể nhìn thấy rõ
khi Việt Nam đã và đang tích cực tham gia đàm phán các Hiệp Định Thương
mai tự do song phương và đa phương, Hiệp định Thương mại xuyên Thái
Bình Dương (TPP)
- Các doanh nghiệp và Chính phủ đã nỗ lực để giả quyết vấn đề thiết bị dệt
may phải nhập khẩu hoàn toàn thúc đẩy đầu tư phát triển các ngành thiết bị
phụ liệu như chỉ may, bông tấm, mếch dính, cúc nhựa, khóa kéo, băng chun,
nhãn mác, bao bì.
- Công nghiệp dệt may thành phố Hồ Chí Minh có dải sản phẩm và dịch vụ
phong phú, từ sản xuất bông gòn, bông tấm, xe sợi, xe chỉ may, dệt thảm, đan
lưới…đén tẩy, nhuộm, hoàn tất, may trang phục, chặn đẹm, in, thêu, đính
cườm chất lượng sản phẩm đa dạng nhưng có quá ít sản phẩm tạo dựng được

thương hiệu mạnh, chiếm được sự tin cậy của khác hàng.
- Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài được đầu tư công nghệ và kỹ thuật
tiên tiến thì các doanh nghiệp nội trong Cụm ngành hỗ trợ may mặc tại thành
phố Hồ Chí Minh đang gặp những khó khăn chung như quy mô sản xuất
nhỏ,công nghệ lác hậu, khả năng quản tị yếu, khó tiếp cận vốn đòi hỏi có
chính sánh đầu tư phát triển ngành may mặc trong nước chứ không chỉ chủ
yếu gia công cho các công ty nước ngoài.
- Năm 2012, nhiều doanh nghiệp (DN) ngành dệt may Việt Nam bị cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu tác động, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, cũng như thị
trường tiêu thụ sản phẩm trong nước, nhất là thị trường xuất khẩu. Các doanh
nghiệp dệt may phải chịu áp lực tỷ giá đồng EUR so với đồng USD và đồng
tiền VND đều giảm, chi phí đầu vào tăng, khó khăn trong việc huy động vốn,
lực lượng lao động biến động… làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp.
 DODPQR?S#F"C?@#KTUDVFQRW#VFXDF?CQGLN
- Chính sách vĩ mô ở tầm quốc gia khi tác động trực tiếp đến các doanh
nghiệp ngành nghề sẽ trở thành chính sách vi mô ở cấp độ địa phương. Đơn
cử như những vấn đề đào tạo nghề, quỹ đất cho doanh nghiệp cũng như các
vấn đề giao thông vận tải là những vấn đề của địa phương. Những chính
sách của địa phương liên quan đến vấn đề tài chính, đầu tư, giáo dục phải
xoay quanh cụm ngành nòng cốt của địa phương. Đây chính là động lực
chung để cả cụm ngành phát triển.
- chính sách khuyến khích của nhà nước “người Việt dung hàng Việt”  đẩy
mạnh phát triển phụ liệu để tạo ra các sản phẩm có tính khác biệt.
- chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng sản phẩm sạch, sản phẩm có giá trị
gia tăng và hàm lượng chất xám cao (sản phẩm dệt, sợi, may cao cấp), đẩy
mạnh xuất khẩu.
 Tác động trở lại : Cụm ngành dệt may giúp doanh nghiệp tăng khả năng tiếp
cận với các nhân tố đầu vào chuyên biệt như nguyên vật liệu, thông tin, dịch
vụ, lao động kỹ năng, thể chế, cũng như các “hàng hóa công” khác. Ngoài ra,

khi hoạt động theo cụm, các doanh nghiệp trong ngành có thể tăng tốc độ,
giảm chi phí điều phối và chi phí giao dịch giữa các doanh nghiệp trong cụm
ngành. Doanh nghiệp còn tăng khả năng truyền bá các thực hành tốt và kinh
nghiệm kinh doanh hiệu quả, thúc đẩy cạnh tranh nhờ so sánh trực tiếp với
các doanh nghiệp trong cụm ngành. Doanh nghiệp hoạt động trong cụm bắt
buộc phải đổi mới doanh nghiệp của mình so với các đối thủ cạnh tranh.
3. 1DC#AB;
Chính phủ cần phối hợp cùng Hiệp hội Dệt May, Tập đoàn Dệt May Việt Nam
để lên chiến lược xây dựng cụm ngành dệt may nhằm tận dụng lợi ích của các
cụm công nghiệp như: tăng cạnh tranh, tăng hợp tác và tạo tác động lan tỏa của
các doanh nghiệp trong cụm ngành.
Xây dựng cụm ngành dệt may ở Việt Nam lien quan đến chính sách công
nghiệp, do đó vai trò của Chính phủ là hết sức quan trọng:
- Đảm bảo môi trường kinh doanh thuận lợi để thúc đẩy cạnh tranh, hợp
tác và tạo tác động lan tỏa giữa các doanh nghiệp. Về cơ bản ngành dệt
may Việt Nam đã có lịch sử lâu dài, qui mô thị trường tương đối lớn và
các thiết chế thị trường đã được hình thành một cách cơ bản.
- Đảm bảo sự tiếp cận của doanh nghiệp đến nguồn lực và nhân tố sản xuất
mục đích của biện pháp nay là nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp cận các
nguồn lực sản xuất dễ dàng với chi phí thấp nhất qua đó hạ giá thành sản
phẩm và nâng cao năng lực cạnh tranh.
- Thu hút đầu tư và khâu sản xuất nguyên phụ liệu, đặc biệt là khâu dệt,
nhuộm và hoàn tất. Rõ rang khâu sản xuất nguyên phụ liệu là khâu quan
trọng và có giá trị gia tăng cao nhưng đang là khâu yếu kém nhất của
ngành dệt may Việt Nam. Do đó để thúc đẩy sự phát triển của ngành dệt
may Việt Nam, chính phủ phải có chính sách thu hút đầu tư (trong và
ngoài nước) và khâu sản xuất nguyên phụ liệu dể khắc phục tình trạng
yếu kém này.
4. EAA94C#
#Y D'=Z%&: %[ A!\]^_<

(=`('\]\]5`3N&[ A!7" #!
('+$,: %a(&<ba5c
-de(%/!$f3g$=`eh$c5 
$6+e!$-2h!<+i%5,j-'-5
5'`<D%8(6(=!!(=`%&52%%
 '=Z%&: % !&=!N
 94F6?
Việt Nam gia nhập WTO, để có nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cạnh tranh,
ngành Dệt May đang cần nhanh chóng đào tạo lại nguồn nhân lực hiện có của
ngành. Đây thực sự là một áp lực rất lớn cho hoạt động đào tạo nguồn nhân lực
của ngành Dệt May nói chung và các doanh nghiệp Dệt May nói riêng.
Năm 2012, thành công lớn nhất của Dệt may đó là duy trì được công việc và
thu nhập cho gần 2 triệu lao động trong cả nước với mức thu nhập gần 5 triệu
đồng một người, cải thiện 14% mức lương. Đó là bài toán an sinh lớn nhất mà
Dệt may đã làm được. Để làm được điều đó cần có sự hỗ trợ rất nhiều từ Nhà
nước với hàng loạt các chính sách nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng lao
động:
- Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật, cán bộ pháp chế, cán
bộ bán hàng chuyên ngành Dệt May, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề
của các dự án dệt, nhuộm trọng điểm.
- Mở các khóa đào tạo về thiết kế và phân tích vải, kỹ năng quản lý sản xuất,
kỹ năng bán hàng (gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán hàng, kiến thức về
tiêu chuẩn môi trường và lao động).
- Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các khóa
đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ pháp chế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ bán hàng, đào
tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề cao tại các cơ sở đào tạo ở nước ngoài.
- Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo
chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc cử cán
bộ ra nước ngoài để đào tạo.
- Củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt May, xây dựng

Trường Đại học Dệt May và Thời trang để tạo cơ sở vật chất cho việc triển khai
các lớp đào tạo.
- Duy trì thường xuyên các lớp đào tạo hệ cao đẳng, trung cấp, công nhân
thông qua hệ thống các trường chuyên nghiệp của ngành dệt may nhằm cung cấp
đủ nguồn nhân lực cho ngành. Hiệp hội Dệt May Việt Nam và Tập đoàn Dệt
May Việt Nam là đầu mối để phối hợp và liên kết với các cơ sở đào tạo trong và
ngoài nước triển khai Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành.
 GH,67"8I"JK
- Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành dệt may theo hướng tự chủ,
tự chịu trách nhiệm.
- Nâng cao năng lực tư vấn, nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ,
khả năng thiết kế và sáng tác mẫu của các Viện nghiên cứu.
- Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong ngành đẩy mạnh các hoạt động nghiên
cứu triển khai các tiến bộ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực
sản xuất của các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam.
- Nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, các nguyên liệu mới để tạo ra các
sản phẩm dệt có tính năng khác biệt, triển khai các chương trình sản xuất sạch
hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản
xuất và chất lượng sản phẩm Dệt May.
- Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt may phù
hợp và hài hòa với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thông lệ quốc
tế. Hỗ trợ nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm Dệt
May, hỗ trợ cho các doanh nghiệp Dệt May trong quản lý chất lượng và khắc
phục các rào cản kỹ thuật.
- Xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái Dệt May và Trung tâm phát triển các
mặt hàng vải
- Xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành Dệt May, nâng cao chất lượng của trang
thông tin điện tử.
- Nghiên cứu xây dựng các chính sách khuyến khích thúc đẩy chuyển giao
công nghệ trong ngành Dệt May.

 >L@"B4@:MN?#4EAMF
:M #OH
- Bộ tài nguyên môi trường, Bộ khoa học công nghệ và môi trường đã ban
hành các văn bản Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN và các quy chuẩn ký thuật quốc
gia QCVN đối với các loại vật liệu ngành dệt may (vải dệt kim, vải dệt thoi, sợi,
sợ bông, xơ nhân tạo ) và quy chuẩn nước thải ngành dệt may.
- Xây dựng Báo cáo đánh giá tác động môi trường phù hợp với Chiến lược
phát triển ngành Dệt May và các quy định pháp luật về môi trường.
- Triển khai Chương trình sản xuất sạch hơn trong ngành Dệt May, khuyến
khích các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường theo ISO 14000,
tạo môi trường lao động tốt cho người lao động theo tiêu chuẩn SA 8000
- Xây dựng và thực hiện lộ trình đổi mới công nghệ trong ngành Dệt May
theo hướng thân thiện với môi trường.
- Tập trung xử lý triệt để các cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Triển
khai xây dựng các Khu, Cụm Công nghiệp Dệt May có hệ thống xử lý nước thải
tập trung, đạt tiêu chuẩn môi trường để di dời các cơ sở dệt may có nguy cơ gây
ô nhiễm vào khu công nghiệp.
- Tăng cường năng lực nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường.
- Đáp ứng các yêu cầu về môi trường và rào cản kỹ thuật để hội nhập kinh tế
quốc tế.
 >L@P#O6Q6F QR
- Cho nhiều đối thủ tham gia thị trường và có những chính sách chống độc
quyền chi phối
- Tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán mở rộng thị trường Dệt May
trên thị trường quốc tế.
- Cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, xuất nhập
khẩu theo hướng thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, đơn giản hóa các thủ tục.
- Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, trốn
thuế, gian lận thương mại.
- Tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương mại quốc tế. Chuẩn bị kỹ

việc chống các rào cản kỹ thuật mới của các nước nhập khẩu cho các doanh
nghiệp xuất khẩu.
- Tổ chức mạng lưới bán lẻ trong nước, đổi mới phương thức tiếp thị xuất
khẩu, đồng thời quan tâm đến việc xây dựng, quảng bá thương hiệu sản phẩm,
xây dựng hình ảnh của ngành Dệt May Việt Nam trên thị trường trong nước và
quốc tế.
- Bố trí đủ cán bộ pháp chế cho các doanh nghiệp trong ngành để tham gia
soạn thảo, đàm phán và giải quyết các tranh chấp hợp đồng, nhất là hợp đồng
thương mại quốc tế.
- Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển sâu
rộng phát triển thị trường thị trường nội địa và nước ngoài
 EAA7#
SG.(f=k-5=<(f==`$5$l5*c
5,N=3<%&$=m<h$Các nhà đầu tư nước
ngoài vào lĩnh vực dệt may vào Việt Nam là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông,
Nhật, Đức và Thái Lan. Hiệp hội dệt may Việt Nam cho biết vốn FDI đổ vào
ngành dệt may vẫn còn thấp do những tác động tiệu cực từ cuộc khủng hoảng
kinh tế toàn cầu.
n?&.)(f=k$! %$=`5=`$<
%8(6 +oZ!N
+ Khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát
triển ngành dệt may để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
+ Xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên
liệu bông xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu gọi các nhà đầu
tư trong nước và nước ngoài. Trong đó ưu tiên các dự án sản xuất vải dệt thoi
phục vụ cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu.
+ Xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành Dệt May có đủ điều kiện hạ
tầng cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi
trường và lao động có khả năng đào tạo.
+ Phối hợp với các địa phương đầu tư phát triển cây bông, trong đó chú

trọng xây dựng vùng bông có tưới, từng bước đáp ứng nhu cầu bông cho ngành
dệt, sợi.
 >TUN"M
- Tạo điều kiện cho các DN trong nước, khai thác lợi thế của các Hiệp định
Tự do thương mại FTA và Hiệp định xuyên Thái Bình Dương (TPP) để từ đó
tranh thủ mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh hàng Việt Nam xuất khẩu
- Tích cực liên kết các đơn vị trong Hiệp hội Dệt may Việt Nam để nâng cao
giá trị gia tăng hàng dệt may Việt Nam.
- Năm 2012, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật
quản lý thuế. Theo đó, vẫn tiếp tục cho phép doanh nghiệp sản xuất hàng xuất
khẩu được ân hạn thuế 275 ngày nhưng phải có điều kiện. Chính sách ân hạn
thuế này đã tiếp sức cho các doanh nghiệp may xuất khẩu
 VEWFUL@XE:@:
Để nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu đối với cụm ngành dệt may,
chính phủ đã phối hợp cùng các DN dệt may trong nước thực hiện các chính
sách và dự án nhằm tìm ra hướng đi lâu dài ổn định cho nền công nghiệp mũi
nhọn này, cụ thể như sau:
- Triển khai dự án trồng bông vải theo mô hình trang trại thay thế phương
thức trồng bông phân tán trong các hộ dân đã được triển khai thí điểm.
- Xây dựng mô hình trồng bông có hệ thống tưới nhỏ giọt theo công nghệ
của Israel đối với các giống bông VN 01-2 (Ở vùng bông Ninh Thuận, Viện
Nghiên cứu bông và Phát triển nông nghiệp Nha Hố tiến hành trồng bông theo
mô hình trang trại có tưới nhỏ giọt và áp dụng phủ màng PE trên các luống bông
mang lại hiệu quả cao. Thực tế này đang mở ra triển vọng trồng bông trên quy
mô công nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn.)
- Gấp rút triển khai các dự án sản xuất xơ visco, chủ yếu từ nguồn nguyên
liệu là bột gỗ bạch đàn và keo lai tai tượng, vốn đang được trồng nhiều ở Việt
Nam.
5. Y:5%Z
Mặc dù đã là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai trên thế giới,

lớn nhất khối EU và kinh tế Đức bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn
cầu, nhưng nhu cầu tiêu thụ hàng dệt may tại Đức vẫn tiếp tục tăng lên trong
những năm qua, chủ yếu do sức mua của người dân trong nước vẫn ổn định.
Đây thực sự là cơ hội tốt cho các nước xuất khẩu hàng dệt may để mở rộng thị
trường tại Đức.
Các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Đức trước hết phải đảm bảo đầy đủ
các tiêu chuẩn và điều kiện thương mại chung của EU. Ngoài ra, để thành công
trong việc tiếp cận thị trường khó tính này, các nhà xuất khẩu nước ngoài cần
tìm hiểu đầy đủ thông tin về thị trường, thị hiếu thời trang và chuẩn bị tốt hàng
hóa đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật, nhãn hiệu, quy định về nhập khẩu, các yêu
cầu về chứng chỉ riêng đối với sản phẩm dệt may và cần tìm hiểu các kênh phân
phối hàng dệt may tại Đức.
- ":ALA

Cách thức thâm nhập thị trường hàng dệt may của Đức hiệu quả nhất và chi
phí thấp nhất là thuê một đại lý bán hàng hoặc một đại diện. Đại lý thường được
trả theo phần trăm hoa hồng và được chuyên môn hóa với từng sản phẩm. Các
đại diện được trả lương và thường có tính chất thay mặt nhà xuất khẩu. Tại Đức
có Hiệp hội Quốc gia các đại lý phân phối (CDH), các nhà xuất khẩu nước
ngoài có thể liên hệ để hỏi thuê đại lý.

Một kênh khác là thâm nhập hàng hóa thông qua các nhà nhập khẩu hay các
công ty bán buôn hàng dệt may ở Đức. Các công ty bán buôn/ nhà nhập khẩu
này thường là những người có hiểu biết sâu sắc về từng sản phẩm và nhóm sản
phẩm dệt may. Họ sẽ có trách nhiệm lo mọi thủ tục, giấy tờ cần thiết, lưu kho
bãi khi hàng đến cảng, phân phối hàng và các việc liên quan đến việc nhập khẩu
lô hàng dệt may vào Đức.

Các nhà sản xuất nhỏ ở nước ngoài cũng có thể bán sản phẩm qua các trung
tâm mua bán ở Đức. Các trung tâm này có kho hàng và có các chuyên gia hiểu

biết sâu về thị trường có thể giúp bán sản phẩm vào Đức qua việc gom các nhu
cầu nhỏ thành đơn hàng nhập khẩu khối lượng lớn, tăng được khả năng cạnh
tranh.

- $X#$6

Tại Đức có nhiều cơ quan hỗ trợ các nhà xuất khẩu nước ngoài thâm nhập
thị trường và thiết lập hệ thống tiêu thụ hàng tại Đức. Đối với hàng dệt may có
các tổ chức quan trọng sau:

Tổ chức xúc tiến hàng dệt may và thời trang Đức (Gasamtextil) – là tổ chức
lớn tập hợp các tổ chức và hiệp hội ngành hàng tại các địa phương. Các nhà
nhập khẩu quan tâm có thể hỏi thông tin về các doanh nghiệp thành viên trên
phạm vi liên bang và về các hiệp hội, tổ chức liên quan đến dệt may trong phạm
vi khối EU.

Hiệp hội các nhà bán lẻ Đức (The Institute of German Textile Retail Traders
(BTE) – có thể cung cấp các thông tin đầy đủ về các công ty bán lẻ hàng dệt
may tại Đức. BTE phát hành “Cẩm nang về bán lẻ hàng dệt may tại Đức” cung
cấp các thông tin liên quan đến 85% các công ty bán lẻ dệt may tại Đức.

×