Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Quản trị rủi ro tín dụng theo Basel trong hoạt động ngân hàng. Thực trạng và khả năng ứng dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.42 KB, 29 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
o0o
ĐỀ TÀI:
Quản trị rủi ro tín dụng theo Basel trong hoạt
động ngân hàng. Thực trạng và khả năng ứng
dụng tại VN
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS.TS TRẦN HUY HOÀNG
NHÓM THỰC HIỆN:
LẠI MINH KHÔI (Nhóm trưởng)
HOÀNG NGỌC MAI ANH
LÊ ĐỨC CẢNH
ĐINH THỊ PHƯƠNG LOAN
NGUYỄN HUY MINH
PHẠM LÊ HẠNH NGUYÊN
TRẦN QUYỀN
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10 NĂM 2014

1. Sơ lược Basel
Ủy ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng là một Ủy ban bao gồm các chuyên gia
giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi các thống đốc ngân hàng TW của nhóm
G10 vào cuối năm 1974, từ sau một loạt các cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thịt
rường ngân hàng, trong đó đáng chú ý nhất chính là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở
Tây Đức. Hiện nay, các thành viên của Ủy ban gồm đại diện ngân hàng trung ương hay
cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng của các nước: Anh, Bỉ, Canada, Đức, Hà Lan, Hoa
Kỳ, Luxembourg, Nhật, Pháp, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sỹ và Ý. Ngoài ra hệ
thống ngân hàng của nhiều quốc gia khác trên thế giới cũng đã biểu thị sự đồng thuận
tham gia tuân thủ hiệp ước do các quốc gia này đã ký kết – Hiệp ước Basel (Basel
Accord). Ủy ban được nhóm họp 4 lần trong một năm diễn ra lần đầu vào tháng 2 năm
1975.
Theo Ủy ban thì bất kỳ một sự yếu kém của hệ thống ngân hàng dù là quốc gia phát triển


hay đang phát triển đều có thể đe dọa đến tình hình ổn định tài chính chung của toán thế
giới. Chính vị vậy vấn đề nâng cao năng lực quản lý kiểm soát hệ thống tài chính ở mỗi
quốc gia cần phải được đặc biệt quan tâm nhiều hơn. Ủy ban đã tham gia hoạt động trong
nhiều năm qua cho quan điểm và sứ mạng này, dưới cả hình thức trực tiếp cũng như gián
tiếp thông qua các mối liên hệ với chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân hàng ở các quốc
gia khác nhau trên toàn cầu.
Ủy ban thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận về những vấn đề xoay quanh sự hợp tác
quốc tế để giảm bớt khoảng cách trong công tác giám sát ngân hàng, nâng cao chất lượng
công tác giám sát hoạt động ngân hàng trên toàn thế giới. Mục tiêu quan trọng của các
cuộc thảo luận là thu hẹp khoảng cách giám sát quốc tế trên hai nguyên lý cơ bản là: (1)
không ngân hàng nước ngoài nào được thành lập mà thoát khỏi sự giám sát; và (2) việc
giám sát phải tương xứng. Để làm được điều này, Ủy ban Basel đã cố gắng tìm hiểu và
thức hiện được ba điều cơ bản: trao đổi thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia, cải
thiện hiệu quả kỹ thuật giám sát hoạt động ngân hàng quốc tế và đặt ra những tiêu chuẩn
giám sát tối thiểu trong những lĩnh vực mà Ủy ban thực sự quan tâm.
Vào năm 1988, Ủy ban (BCBS) đã xuất bản một tập hợp các yêu cầu về vốn tối thiểu đối
với các ngân hàng. Các yêu cầu này còn được gọi là hiệp ước Basel I988 (Basel I), và
được thi hành theo quy định của pháp luật trong nhóm G10. Theo đó, Ủy ban đã quyết
định giới thiệu hệ thống đo lường vốn với khung đo lường rủi ro tín dụng có tiêu chuẩn
vốn tối thiểu 8%. Basel I không chỉ được phổ biến trong các quốc gia thành viên mà còn
được phổ biến ở hầu hết các nước khác có các ngân hàng hoạt động quốc tế. Đến năm
1996, Basel I được sửa đổi với rất nhiều điểm mới. Tuy vậy, Hiệp ước vẫn có khá nhiều
điểm hạn chế và trở nên lỗi thời hơn.
3
Để khắc phục những hạn chế của Basel I, tháng 6/1999, Uỷ ban Basel đã đề xuất khung
đo lường mới với 3 trụ cột chính: (i) yêu cầu vốn tối thiểu trên cơ sở kế thừa Basel I; (ii)
sự xem xét giám sát của quá trình đánh giá nội bộ và sự đủ vốn của các tổ chức tài chính;
(iii) sử dụng hiệu quả của việc công bố thông tin nhằm làm lành mạnh kỷ luật thị trường
như là một sự bổ sung cho các nỗ lực giám sát. Đến ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc
tế về vốn Basel mới (Basel II) đã chính thức được ban hành.

Lịch sử vắn tắt của Hiệp ước vốn Basel: (1) Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên
(Basel I) ra đời và có hiệu lực từ 1992. (2) Năm 1996, Basel I được bổ sung thêm rủi ro
thị trường (được thực thi chậm nhất vào ngày 1/1/1998). (3) Tháng 6/1999, đề xuất một
khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn lần thứ nhất (First Consultative
Package - CP1). (4) Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2). (5) Tháng
4/2003, chương trình tư vấn lần thứ ba (CP3). (6) Quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp
ước vốn (Basel II) được hoàn thiện. (7) Tháng 1/2007, Basel II có hiệu lực. (8) Năm
2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi.
1
Nội dung cơ bản của Basel I và Basel II:
• Hiệp ước Basel I:
Basel I chủ yếu tập trung vào các rủi ro tín dụng và nhấn mạnh tầm quan trọng của tỷ lệ
vốn an toàn trong hoạt động ngân hàng. Khái niệm vốn trong Basel I được chia thành 2
loại:
Vốn cơ bản (core capital) bao gồm: vốn cổ phần thường, lợi nhuận bổ sung hằng năm,
quỹ dự trữ.
Vốn bổ sung gồm: vốn cổ phần ưu đãi với thời hạn > 20 năm, dự phòng rủi ro, các trái
phiếu với thời hạn không dưới 7 năm và công cụ tài chính lưỡng tính khác.
Theo yêu cầu tỷ lệ vốn cơ bản trên tổng tài sản có quy đổi rủi ro ít nhất là 4% và tỷ lệ này
cho tổng vốn không dưới 8%. Ngoài ra hiệp ước Basel I còn xác định các hệ số rủi ro
trong các loại rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động.
Các tiêu chuẩn của Basel I:
(1) Tỉ lệ vốn dựa trên rủi ro - “Tỉ lệ Cook”: tỉ lệ này được phát triển bởi BCBS với mục
đích củng cố hệ thống ngân hàng quốc tế, đối tượng ban đầu là những ngân hàng hoạt
động quốc tế, nhưng sau này đã được thực thi trên hơn 100 quốc gia. Theo tiêu chuẩn
này, ngân hàng phải giữ lại lượng vốn bằng ít nhất 8% của rổ tài sản, được tính toán theo
nhiều phương pháp khác nhau và phụ thuộc vào độ rủi ro của chúng.
1 Tham khảo />i-va-ii&catid=43:ao-to&Itemid=90.
4
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc/Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền

(RWA)
Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp
khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn
trầm trọng khi CAR < 2%.
(2) Vốn cấp 1, cấp 2 và cấp 3: Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa
mang tính quốc tế chung nhất về vốn của ngân hàng và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn
của ngân hàng. Tiêu chuẩn này quy định: Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3
Vốn cấp 1 là lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản
dự phòng cho các khoản vay, bao gồm: Vốn chủ sở hữu vĩnh viễn; Dự trữ công bố (Lợi
nhuận giữ lại); Lợi ích thiểu số (minority interest) tại các công ty con, có hợp nhất báo
cáo tài chính; Lợi thế kinh doanh (goodwill).
Vốn cấp 2 (Vốn bổ sung) gồm: Lợi nhuận giữ lại không công bố; Dự phòng đánh giá lại
tài sản; Dự phòng chung/dự phòng thất thu nợ chung; Công cụ vốn hỗn hợp; Vay với thời
hạn ưu đãi; Đầu tư vào các công ty con tài chính và các tổ chức tài chính khác.
Vốn Cấp 3 (Dành cho rủi ro thị trường) = Vay ngắn hạn
Tổng vốn cấp 1 và cáp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của 1 tổ chức tín dụng. vốn tự
có phải đảm bảo những giới hạn sau:
Tổng vốn cấp 2 chỉ được tối đa bằng 100% vốn cấp 1
Nợ thứ cấp phải nhỏ hơn hoặc bằng 50% vốn cấp 1
Trong trường hợp các khoản dự phòng chung hay dự phfong tổn thất tín dụng bao gồm
giá trị giảm của việc đánh giá lại tài sản chung những chưa thể hiện trên bảng cân đối kế
toán, phần dự phòng cho những khoản này sẽ được giới hạn tối đa là 1.25% hoặc trong
một số trường hợp đặc biệt có thể lên tói 2% của tài sản có rủi ro.
Giá trị tăng thêm của việc đánh giá lại tài sản đối với các khoản giá trị ước tính ngầm dựa
trên những chứng khoán ảo sẽ chịu mức chiết khấu 55%.
(3) Vốn tính theo rủi ro gia quyền:
RWA = Tổng (Tài sản x Mức rủi ro phân định cho từng tài sản trong bảng cân đối kế
toán) + Tổng (Nợ tương đương x Mức rủi ro ngoại bảng)
Hiệp ước Basel I ra đời đã giúp hệ thống tài chính các quốc gia có khả năng kiểm roát rủi
ro tín dụng tốt hơn. Tuy nhiên, Basel I gặp phải một số hạn chế sau

Thứ nhất, việc phân laoij rủi ro chưa chi tiết cho các khoản cho vay. Hệ số rủi ro chưa chi
tiết cho rủi ro theo đối tác hoặc theo đặc điểm của khoản tín dụng.
5
Thứ hai, Basel I chưa tính đến lợi ích của đa dạng hóa hoạt động.
Thứ bai, Basel I chưa tính đến các rủi ro khác như rủi ro quốc gia, rủi ro hoạt động, rủi ro
ngoại hối.
Thứ tư, một số các quiy tắc do Basel I đưa ra chỉ có thể vận dụng trong trường hợp ngân
hàng hoạt động theo kiểu ngân hàng đơn, khong dựa trên một sự sáp nhập hay hoạt động
theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng – chi nhánh… Chính vì thế, một
số quy định trong Basel I đã không còn phù hợp khi các ngân hàng dần đàn sắt nhập với
nhau để tạo thành những tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh cao và có tiềm lực mạnh về
tài chính, công nghệ, các ngân hàng không còn chỉ hoạt động trong phạm vi lãnh thổ
quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế.
Trước các hạn chế và sự đòi hỏi của xu hướng phát triển mới, Basel II ra đời với nhiều
thay đổi phù hợp hơn.
• Hiệp ước Basel II:
So với Basel I thì đây là hiệp ước quốc tế về tiêu chuẩn an toàn vốn, tăng cường quản trị
toàn cầu hóa tài chính cũng như việc khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận và hạn chế rủi
ro. Nó được xem là giải pháp nâng cao các chuẩn mực hoạt động ngân hàng nói chung
với những yêu cầu về quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. Basel
II cũng được xem là thể hiện một sự linh động hơn đối với việc xử lý các tình huống khác
nhau nhằm xác định nhu cầu vốn tối thiểu cho từng khoản mục tài sản có rủi ro của các
NHTM, đồng thời những tiêu chuẩn do Basel II đưa ra cũng có mức độ nhạy cảm hơn với
rủi ro thông qua xử lý các biến xác suất kỳ vọng.
Basel II đưa ra một loạt các phương án lựa chọn, cho phép quyền tự quyết rất lớn trong
giám sát hoạt động ngân hàng. Basel II bao gồm một loạt các chuẩn mực giám sát nhằm
hoàn thienejc ác kỹ thuật quản lý rủi ro và được cấu trúc theo 3 mức:
Cấp độ I (pillar I): Quy định yêu cầu tỷ lệ vốn tối thiểu đối với rủi ro tín dụng và rủi ro
hoạt động
Cấp độ II (Pillar II): Đưa ra các hướng dẫn liên quan đến quá trình giám sát,

Cấp độ III (Pillar III): Yêu cầu các ngân hàng cung cấp thông tin cơ bản liên quan đến
vốn, rủi ro để đảm bảo khuyến khích các nguyên tắc của thị trường.
Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”:
(1) Trụ cột thứ I: liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối
thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được tính
toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành
(hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối với
rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng hoàn
6
toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel II bao gồm nhiều
mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
(2) Trụ cột thứ II: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel II cung cấp
cho các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I. Trụ cột này
cũng cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ
thống, rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp
ước tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát: Thứ nhất, các ngân hàng
cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn nội bộ theo danh mục rủi ro
và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. Thứ hai, các giám
sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và chiến lược của ngân
hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối thiểu; giám sát viên
nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của
quy trình này. Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn
mức tối thiểu theo quy định. Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm
bảo mức vốn của ngân hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu
cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
(3) Trụ cột thứ III: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo
nguyên tắc thị trường. Basel II đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng
phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến
những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro

thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi ro
này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các
ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn,
đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được
rủi ro.
Đối với việc kiểm soát rủi ro tín dụng, nếu Basel I đưa ra một phương pháp chung thì
Basel II lại đưa ra các lựa chọn. Hai phương pháp được đề xuất là phương pháp chuẩn và
phương pháp phân hạng nội bộ.
Phương pháp chuẩn: Phương pháp tiếp cận này đo lường rủi ro tín dụng tương tự như
Basel I, nhưng ở mức độ nhạy cảm với rủi ro hơn vì theo phương pháp này, sẽ sử dụng
phân hạng tài chính do các tổ chức phân hạng độc lập cung cấp làm hệ số khi tính toán tài
sản điều chỉnh theo rủi ro.
Phương pháp phân hạng nội bộ: Phương pháp này chủ yếu dựa vào đánh giá nội bộ của
ngân hàng về hệ số rủi ro để xác định tỷ lệ vốn cần thiết mà vẫn dựa vào hướng dẫn của
Ủy ban Basel để xác định rủi ro cho từng loại tài sản, bao gồm:
7
Yếu tố cấu thành rủi ro: Công thức để tính toán tài sản điều chỉnh theo rủi ro (xác suất rủi
ro, tổng số tiền của món vay, số tiền cho vay có khả năng thất thoát, thời hạn cho vay
hiệu quả) do ngân hàng tự tính toán.
Mức yêu cầu vốn tối thiểu: Tiêu chuẩn tối thiểu cho một ngân hàng sử dụng phương pháp
phân hạng nội bộ cho từng loại tài sản.
Hiệp ước Basel II còn đề cập tới các vấn đề chính gồm những quy định liên quan tới tỷ lệ
vốn an toàn tối thiểu, quá trình xem xét giám sát của cơ quan quản lý và cuối cùng là các
quy tắc thị trường.
Về tỷ lệ vốn an toàn tối thiểu, Basel II đề cập tới vấn đề vốn tự có của tổ chức tín dụng,
các tài sản được điều chỉnh theo mức độ rủi ro trong đó có nhấn mạnh tới các phương
pháp để tính mức độ rủi ro tín dụng như phương pháp chuẩn hóa, phương pháp dựa trên
hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ, hệ số CAR (capital adequacy ratio) tối thiểu là 8% vẫn
chưa được duy trì. Tuy vậy, về cách tính và biện pháp quản lý, theo dõi giám sát, báo cáo

sẽ có hướng thay đổi quan trọng.
Về quá trình xem xét giám sát của cơ quan quản lý, Hiệp ước Basel II quy định các quy
tắc giám sát, quản trị và hướng dẫn quản lý rủi ro đối với các ngân hàng. Quá trình giám
sát và quản trị này không những nhằm mục đích khẳng định việc các ngân hàng duy trì
một mức vốn phù hợp đối với toàn bộ những rủi ro trong hoạt động kinh doanh mà còn
khuyến khích các ngân hàng phát triển và sử dụng các kỹ thuật để quản lý rủi ro tốt hơn.
Ủy ban Basel đã đưa ra 4 quy tắc cơ bản giám sát và quản trị ngân hàng gồm:
Các ngân hàng phải có một quy trình đánh giá mức vốn an toàn tương ứng với cơ cấu rủi
ro của ngân hàng và một chiến lược để duy trì mức vốn của mình.
Các cơ quan quản lý phải liên tục xem xét và đánh giá hệ thống xác định vốn an toàn của
nội bộ các ngân cũng như khả năng giám sát và tuân thủ của họ đối với quy định về tỷ lệ
vốn tối thiểu đồng thời các cơ quan quản lý cũng phải có biện pháp can thiệp thích đáng
nếu họ không hài lòng về kết quả đánh giá.
Các cơ quan quản lý phải yêu cầu các ngân hàng hoạt động với mức vốn cao hơn mức
vốn an toàn tối thiểu và phải có khả năng bắt các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn
mức tối thiểu.
Các cơ quan quản lý phải sớm can thiệp nhằm ngăn chặn vốn của ngân hàng tụt xuống
thấp hơn mức yêu cầu và phải yêu cầu ngân hàng có biện pháp sửa chữa kịp thời nếu mức
vốn an toàn không được khôi phục và duy trì.
Trong các quy tắc thị trường, Basel II cũng đưa ra khuyến cáo không bắt buộc và các yêu
cầu mang tính bắt buộc đối với ngân hàng. Ủy ban Basel đề nghị các ngân hàng tuân thủ
nguyên tắc: “Ngân hàng phải có chính sách về tính minh bạch và công khai được hội
8
đồng quản trị thông qua. Chính sách này phải thể hiện rõ các mục tiêu và chiến lược dành
cho việc công khai hóa các thông tin về thực trạng tài chính và hoạt động ngân hàng”.
2. Thực trạng
2.1. Một số khái niệm
Rủi ro tín dụng: Theo định nghĩa của Ủy ban Basel đó là rủi ro hoặc sự mất mát do người
đi vay hoặc đối tác gây ra. Để đo lường và tính toán hệ số rủi ro đối với các khoản mục
tài sản có khi xem xét rủi ro tín dụng, theo Basel II ba phương pháp có thể lựa chọn để sử

dụng đó là: phương pháp chuẩn, phương pháp dựa trên xếp hạng nội bộ cơ bản và
phương pháp dựa trên xếp hạng nội bộ nâng cao.
Rủi ro hoạt động: được hiểu là rủi ro từ sự mất mát trực tiếp hoặc gián tiếp do quy trình
xử lý nội bộ không được tuân thủ đầy đủ, do hoạt động của con người hoặc do hệ thống
hay là những sự kiện khách quan bên ngoài.
Rủi ro thị trường: theo Ủy ban Basel đó là rủi ro xảy ra sự mất mát trong trạng thái giao
dịch khi giá cả biến động thất thường. Thông thường, rủi ro thị trường sẽ gắn liền với bốn
loại rủi ro cơ bản trên các giao dịch sổ sách đó là rủi ro lãi suất, trạng thái vốn, rủi ro tỷ
giá và rủi ro hàng hóa.
2.2. Thực trạng công tác quản trị rủi ro tín dụng
2.2.1. Đo lường rủi ro tín dụng đối với một khách hàng
Mô hình định tính rủi ro tín dụng
- Mô hình 5C:
1. Character (Tư cách người đi vay): Là ấn tượng chung khách hàng để lại đối
với ngân hàng. Ấn tượng này có thể là khá chủ quan. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp,
đối với nhiều ngân hàng, thái độ của khách hàng quyết định liệu một khoản vay nhỏ có
được phê duyệt hay không. Các vấn đề chủ yếu liên quan đến thái độ đáng ngờ bao gồm:
sự kém hợp tác với ngân hàng, lừa dối, các vụ kiện tụng và thua lỗ. Thời gian, chi phí
kiện tụng và chi phí cơ hội có thể phát sinh do khoản vay gặp vấn đề có thể lớn hơn nhiều
so với thu nhập dự tính (Vấn đề này, tuy nhiên, trở nên kém quan trọng hơn đối với các
khoản vay cho công ty lớn được điều hành bởi một nhóm cá nhân). Ngoài ra, một số yếu
tố định tính khác như trình độ học vấn, kinh nghiệm điều hành kinh doanh, phẩm chất cá
nhân của khách hàng cũng được xem xét. Cụ thể:
• Quan hệ vay trả đã qua
• Kinh nghiệm của các Ngân hàng khác đối với khách hàng này
• Mục đích khoản vay
9
• Khả năng phân tích, dự báo về hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp
• Phân loại tín dụng, mức độ tín chấp của khoản vay
• Có người bảo lãnh cho khoản vay hay không

2. Capacity - Cash flow (Năng lực - Dòng tiền dự tính trả nợ): Yếu tố được coi
là quan trọng nhất trong số năm yếu tố. Năng lực đề cập đến khả năng điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh và hoàn trả khoản vay thành công của khách hàng. Ngân hàng
muốn biết chính xác khách hàng sẽ trả nợ bằng cách nào. Đánh giá năng lực được dựa
trên việc đánh giá các yếu tố: kinh nghiệm điều hành, báo cáo tài chính quá khứ, sản
phẩm, tình hình hoạt động trên thị trường và khả năng cạnh tranh. Từ đó, ngân hàng dự
tính được luồng tiền sẽ được sử dụng để trả nợ, thời gian trả nợ và xác suất trả nợ thành
công của khách hàng. Việc đánh giá lịch sử các khoản vay và thanh toán các khoản vay,
dù là của cá nhân hay các khoản vay thương mại cũng được coi là chỉ báo cho khả năng
chi trả trong tương lai. Bao gồm:
• Năng lực hành vi dân sự của chủ doanh nghiệp và của người bảo lãnh
• Những hồ sơ pháp lý chứng minh năng lực pháp lý của doanh nghiệp vay vốn
• Mô tả quá trình hoạt động của doanh nghiệp đến thời điểm hiện tại, cơ cấu sở
hữu, chủ sở hữu, tính chất hoạt động, sản phẩm, khách hàng chính, người cung cấp chính
của doanh nghiệp
3. Capital (Cấu trúc vốn): Là số vốn khách hàng đầu tư vào doanh nghiệp. Ngân
hàng sẽ yên tâm hơn nếu khách hàng có vốn chủ sở hữu đủ lớn. Vốn chủ sử hữu có thể
được huy động trong quá trình hoạt động, giúp đảm bảo cho trạng thái khoản vay của
ngân hàng. Ngân hàng cũng nhìn nhận vốn chủ sở hữu như là chỉ báo của mức độ cam
kết cũng như mức rủi ro của khách hàng đối với kinh doanh của mình và sẽ cảm thấy
thoải mái hơn nếu biết khách hàng sẽ mất rất nhiều nếu công việc kinh doanh của họ
không thành công. Sẽ tốt hơn nếu nguồn vốn này được lấy từ chính tài sản của cổ đông.
Bao gồm:
• Thu nhập đã qua, tình hình phân chia cổ tức, doanh thu bán hàng
• Dòng tiền hiện tại và dự kiến
• Tính thanh khoản của tài sản lưu động
• Vòng quay nợ phải thu, phải trả và tồn kho
• Cơ cấu nguồn vốn, tình trạng vay nợ
• Kiểm soát chi phí
• Các tỷ lệ về khả năng trả lãi

10
• Khả năng và chất lượng quản lý
• Những thay đổi gần đây trong phương pháp hạch toán kế toán
4. Collateral (Tài sản đảm bảo): Ngân hàng có thể xử lý tài sản thế chấp của
khách hàng khi khách hàng bị phá sản hoặc mất khả năng chi trả nợ. Ngân hàng được
đảm bảo quyền ưu tiên xử lý tài sản thế chấp của khách hàng trước các chủ nợ khác.
Ngân hàng cũng có thể yêu cầu khách hàng sử dụng các tài sản cá nhân khác ngoài công
ty làm tài sản thế chấp. Đối với ngân hàng, đây là sự đảm bảo và là nguồn trả nợ thay thế
ngoài dòng tiền trả nợ dự tính. Một số ngân hàng có thể yêu cầu có bảo lãnh cùng với tài
sản đảm bảo. Bảo lãnh là hình thức bên thứ ba ký bảo lãnh cam kết thanh toán nếu người
vay không trả được nợ. Bao gồm:
• Có các tài sản gì?
• Khả năng bị lỗi thời, mất giá của tài sản
• Giá trị tài sản
• Mức độ chuyên biệt của tài sản
• Tình trạng đã bị cầm cố, thế chấp của tài sản, các hạn chế khác
• Tình trạng bảo hiểm
• Đã được dùng để bảo lãnh cho người khác
• Vị thế của Ngân hàng đối với việc đòi cầm cố/thế chấp đối với tài sản
• Nhu cầu vay vốn trong tương lai
5. Conditions (Các điều kiện khác): Liệu khoản vay sẽ được sử dụng để đáp ứng
nhu cầu vốn lưu động, mua sắm máy móc hay dự trữ nguyên vật liệu, hàng tồn kho?
Ngân hàng sẽ đánh giá tình hình kinh tế trong và ngoài nước, phân tích ngành kinh doanh
doanh nghiệp đang hoạt động cũng như các ngành hoạt động liên quan có thể ảnh hưởng
đến doanh nghiệp. Bao gồm:
• Địa vị cạnh tranh hiện tại của khách hàng trong ngành công nghiệp và thị phần
dự kiến
• Kết quả hoạt động của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh khác trong
ngành
• Tình hình cạnh tranh của sản phẩm

• Mức độ nhạy cảm của khách hàng đổi với chu kỳ kinh doanh và những thay đổi
về công nghệ
11
• Điều kiện/tình trạng thị trường lao động trong ngành hay trong khu vực thị
trường mà khách hàng đang hoạt động
• Ảnh hưởng của lạm phát đối với bảng cân đối kế toán và với CF của khách hàng
• Tương lai của ngành
• Các yếu tố chính trị, pháp lý, xã hội, công nghệ, môi trường ảnh hưởng đến hoạt
động kinh doanh, ngành nghề của khách hàng.
- Mô hình 6C:
Bao gồm mô hình 5C và yếu tố 6. Control - Kiểm soát, bao gồm:
• Các luật, qui định, qui chế hiện hành liên quan đến khoản tín dụng đang được
xem xét
• Đủ hồ sơ giấy tờ phục vụ cho công việc kiểm soát
• Hồ sơ giấy tờ cho vay, giải ngân phải có đầy đủ và phải được ký bởi các bên
• Mức độ phù hợp của khoản vay đối với qui chế, qui định của Ngân hàng
• Ý kiến của các chuyên gia kinh tế, kỹ thuật về môi trường của ngành, về sản
phẩm, về các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến khoản vay
Mô hình định lượng rủi ro tín dụng
Mô hình Z-score (Mô hình điểm số Z)
Đây là mô hình do E.I.Altman dùng để cho điểm tín dụng đối với các doanh
nghiệp vay vốn. Đại lượng Z dùng làm thước đo tổng hợp để phân loại rủi ro tín dụng đối
với người vay và phụ thuộc vào:
• Trị số của các chỉ số tài chính của người vay.
• Tầm quan trọng của các chỉ số này trong việc xác định suất vỡ nợ của người vay
trong quá khứ. Từ đó Altman đã xây dựng mô hình điểm như sau:
Z = 1,2 X1 + 1,4 X2 + 3,3 X3 + 0.6 X4 + 1,0 X5
Trong đó,
• X1 = Hệ số vốn lưu động/ tổng tài sản
• X2 = Hệ số lợi nhuận giữ lại/ tổng tài sản

• X3 = Hệ số lợi nhuận trước thuế và lãi vay/ tổng tài sản
• X4 = Hệ số giá thị trường của tổng vốn sở hữu/ giá trị sổ sách của tổng nợ
12
• X5 = Hệ số doanh thu/ tổng tài sản
Trị số Z càng cao, thì người vay có xác suất vỡ nợ càng thấp. Vậy khi trị số Z thấp
hoặc là một số âm sẽ là căn cứ xếp khách hàng vào nhóm có nguy cơ vỡ nợ cao.
• Z < 1,81 : khách hàng có khả năng rủi ro cao, nguy cơ không trả được nợ
• 1,81 < Z <2,99 : Khách hàng nằm trong vùng cảnh báo
• Z > 2,99 : Khách hàng nằm trong vùng an toàn, có khả năng trả nợ
Theo mô hình cho điểm Z của Altman, bất cứ công ty nào có điểm số thấp hơn
1,81 phải được xếp vào nhóm có nguy cơ rủi ro tín dụng cao.
Mô hình điểm số Z có kỹ thuật đo lường tương đối đơn giản. Tuy nhiên mô hình
này chỉ cho phép phân loại nhóm khách hàng vay có rủi ro và không có rủi ro. Trong khi
đó, thực tế mức độ rủi ro tín dụng tiềm năng của mỗi khách hàng là khác nhau. Ngoài ra,
yếu tố thị trường cũng không được xét đến, đặc biệt là khi các điều kiện kinh doanh cũng
như điều kiện thị trường tài chính đang thay đổi liên tục như hiện nay. Và có các nhân tố
quan trọng nhưng cũng không được xét đến như: danh tiếng của khách hàng, mối quan hệ
lâu dài với ngân hàng,…sẽ làm cho mô hình điểm số Z có những hạn chế nhất định.
Mô hình xếp hạng tín dụng Standard & Poor's
Xếp hạng tín dụng (credit ratings) của S&P được công bố bắt đầu từ năm 1916
nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư và những người tham gia thị trường trên toàn thế giới
những phân tích độc lập về rủi ro tín dụng. Chỉ số xếp hạng tín dụng (credit ratings) thể
hiện quan điểm của tổ chức này về khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các điều kiện tài
chính một cách đầy đủ và đúng lúc của một doanh nghiệp hay một quốc gia. Thường chỉ
số được quy thành các xếp hạng bằng chữ, cao nhất là AAA và thấp nhất là D và được
đánh giá trong nhiều lĩnh vực, ví dụ như xếp hạng tín dụng đối với đồng nội tệ và đồng
ngoại tệ, trong ngắn hạn hay dài hạn.
Tại S&P, xếp hạng tín dụng là chỉ số thể hiện quan điểm về rủi ro tín dụng. Xếp
hạng này dựa trên những phân tích của các chuyên gia có kinh nghiệm, dựa trên thông tin
thu thập từ các tổ chức phát hành và từ các nguồn khác. Ngoài phương pháp chuyên gia,

S&P cũng như các tổ chức xếp hạng khác còn kết hợp sử dụng mô hình toán học trong
việc xây dựng và phân tích chỉ số xếp hạng của mình.
Phương pháp xếp hạng đặc trưng của S&P là xếp hạng dựa trên phân tích. Một
quy trình xếp hạng chuẩn được S&P áp dụng cho xếp hạng tín dụng của doanh nghiệp
gồm các bước:
(1) Nhận đề nghị xếp hạng từ các tổ chức phát hành/khách hàng
(2) Đánh giá ban đầu
13
(3) Họp với ban quản trị của tổ chức phát hành/khách hàng
(4) Phân tích
(5) Đánh giá và bỏ phiếu của hội đồng đánh giá (của S&P)
(6) Thông báo tới tổ chức phát hành/khách hàng
(7) Công bố kết quả xếp hạng ra công chúng
Mô hình xếp hạng tín dụng Moody's
Moody's thiết lập 11 tỷ số chung nhất để sử dụng trong phân tích so sánh, các tỷ số
này được Moody's ứng dụng rộng rãi ở những quốc gia khác nhau, những ngành khác
nhau và cả ở các báo cáo xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong quy trình cụ
thể, Moody's có thể xem xét bớt hoặc thêm vào các chỉ tiêu cho phù hợp với từng ngành
riêng biệt.
2.2.2. Quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Thực hiện công cụ tác động trực tiếp
Một là, hạn mức tín dụng
Để thực hiện tăng trưởng tín dụng an toàn, NHTM ấn định một khối lượng tín dụng của
toàn bộ NHTM, của từng chi nhánh NHTM cung cho nền kinh tế trong một giai đoạn
nhất định, thường là một năm. Hạn mức tín dụng được tính toán trên cơ sở nhu cầu vốn
của nền kinh tế và khả năng nguồn vốn, khả năng kiểm soát tín dụng của NHTM, của chi
nhánh NHTM. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa NHTM, chi nhánh NHTM duy trì
trong kỳ kế hoạch, thường được xác định theo tỷ lệ phần trăm tăng trưởng dư nợ so với
kỳ gốc.
Ví dụ: dư nợ đến cuối năm 2007 của NHTM A, hay chi nhánh NHTM B là 4.000 tỷ đồng,

năm 2008, mức tăng trưởng tối đa kế hoạch của ngân hàng này là 25%; nhự vậy trong bất
kỳ thời điểm nào của năm 2008, NHTM A hay chi nhánh NHTM B cũng không được
vượt mức dư nợ tối đa là 4000 x (100% +25%) = 5000 tỷ đồng.
Để thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, NHTM còn duy trì hạn mức tín dụng
cho từng ngành kinh tế. Để đạt mục tiêu phát triển lành mạnh và an toàn, NHTM lựa cho
khách hàng và xác định hạn mức tín dụng đối với họ.
Hai là, tiêu chuẩn cấp tín dụng
NHTM quy định các điều kiện cấp tín dụng có tính bắt buộc đối với khách hàng vay vốn.
Tiêu chuẩn cấp tín dụng của NHTM phải phù hợp với các điều kiện cấp tín dụng do
NHNN qui định, nhằm duy trì sự an toàn và những trật tự ổn định trên thị trường tín
14
dụng. Để đảm bảo an toàn, NHTM thường đưa ra các tiêu chuẩn cấp tín dụng có tính chặt
chẽ hơn qui định chung của NHNN.
Ba là, mạng lưới và cơ cấu bộ máy quản lý tín dụng
Mạng lưới và cơ cấu bộ máy quản lý tín dụng vừa là công cụ vừa là chủ thể thực thi quản
trị tín dụng. Để thực hiện chính sách đầu tư tín dụng hướng về phát triển sản 36xuất của
nền kinh tế như nông nghiệp, nông thôn; hướng về phát triển công nghiệp hay thương
mại dịch vụ; hướng về lĩnh vực xuất nhập khẩu… NHTM sẽ thực hiện việc mở rộng
mạng lưới như chi nhánh, các phòng giao dịch, bàn tiết kiệm và tăng cường nhân sự cho
bộ phận quản lý tín dụng. Trong đó cũng tạo khả năng tăng cường huy động vốn, nhất là
những nơi có khả năng tích lũy tiết kiệm, tích lũy đầu tư cao như khu vực thành thị, các
trung tâm thương mại, cửa khẩu, nông trường… để tăng khả năng đầu tư cho nền kinh tế.
2. Thực hiện công cụ tác động gián tiếp
Một là, lãi suất
Đây là công cụ được các NHTM sử dụng phổ biến trong tổ chức thực hiện quản trị tín
dụng. Để thực hiện mục tiêu mở rộng đầu tư tín dụng cho một ngành, một khu vực kinh
tế nào đó, NHTM áp dụng mức lãi suất cho vay thấp hơn so với các ngành, khu vực kinh
tế khác và ngược lại.
Hai là, thực hiện quy định dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán
Đây là công cụ trong điều hành chính sách tiền tệ mà NHTW hay NHNN khống chế khả

năng tạo tiền của các TCTD, của các NHTM. Dự trữ bắt buộc là tỷ lệ nhất định trên số
vốn huy động được trong nền kinh tế mà các TCTD phải gửi vào tài khoản riêng của
NHNN. Nếu tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, khả năng cho vay của các TCTD càng bị thu
hẹp, khối lượng tín dụng chung cho nền kinh tế sẽ giảm. Ngược lại, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
giảm xuống, thì các TCTD sẽ cho vay được nhiều hơn với cùng số tiền huy động được,
khối lượng tín dụng cho nền kinh tế sẽ có xu hướng mở rộng.
Dự trữ thanh toán là khối lượng tiền mặt tối thiểu NHTM phải duy trì tại kho tiền của
mình để đảm bảo khả năng chi trả cho khách hàng. Cơ chế hoạt động của dự trữ thanh
toán tương tự như cơ chế hoạt động của dự trữ bắt buộc. Bản thân NHTM cũng sử dụng
công cụ dự trữ bắt buộc và dự trữ thanh toán để điều tiết tín dụng đối với các chi nhánh
trực thuộc của nó.
Ba là, một số tỷ lệ an toàn khác
Để quản trị tín dụng có hiệu quả, NHTM còn có thể quy định một số tỷ lệ khác, như:
+ Tỷ lệ số vốn được sử dụng trong số dư tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng.
15
+ Tỷ lệ vốn ngắn hạn huy động có thể sử dụng sang cho vay trung dài hạn. Tất nhiên tỷ lệ
này NHNN hay NHTW cũng quy định nhằm đảm bảo an toàn chung dưới góc độ quản lý
nhà nước, song NHTM cũng có thể quy định riêng phù hợp với tình hình chung của
NHTM mình.
2.2.3. Sự cần thiết của việc áp dụng hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro tín dụng tại các
ngân hàng
Năm 2010, Ủy ban đã đưa ra trong Basel III các hướng dẫn sửa đổi, bổ sung phiên bản
2006, tập trung vào giải quyết các vấn đề nổi cộm liên quan đến cơ chế phân bổ quyền
hạn và trách nhiệm, cách thức mà các hoạt động của NHTM được điều hành quản trị bởi
HÐQT và quản lý cấp cao, bao gồm việc làm thế nào HÐQT và quản lý cấp cao (i) thiết
lập được các chiến lược và mục tiêu hoạt động của ngân hàng; (ii) xác định được dung sai
rủi ro/ngưỡng chấp nhận rủi ro của ngân hàng; (iii) tổ chức hoạt động hàng ngày của
ngân hàng; và (iv) bảo vệ được lợi ích của người gửi tiền, đáp ứng các nghĩa vụ với cổ
đông, quan tâm tới quyền lợi của các nhóm lợi ích liên quan khác, gắn hoạt động quản trị
với kỳ vọng ngân hàng sẽ kinh doanh an toàn, hợp lý; nhất quán và tuân thủ quy định của

pháp luật. Theo đó, 14 nguyên tắc quản trị NHTM đã được đưa ra cụ thể trong Basel III.
Quản trị NHTM tốt không thể thiếu một cơ chế quản trị rủi ro hiệu quả, đặc biệt là cơ chế
quản trị rủi ro hoạt động bởi nó liên quan đến mọi khía cạnh hoạt động của ngân hàng.
Quản trị rủi ro là nền tảng để duy trì hoạt động, bởi thế nó là phần cơ bản trong quản trị
doanh nghiệp. Trong khi rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường xuất phát từ bên ngoài như khả
năng vỡ nợ của người vay, các biến động giá cả thị trường, thì rủi ro hoạt động xuất phát
chủ yếu từ những hạn chế trong nội bộ ngân hàng liên quan đến con người, quy trình hoạt
động, hệ thống công nghệ… Rủi ro hoạt động có thể dẫn tới hệ quả tài chính như tổn thất
bằng tiền, bị phạt do không tuân thủ, trách nhiệm và nghĩa vụ pháp lý, tài sản bị mất hoặc
hủy hoại… và hệ quả phi tài chính (như ảnh hưởng đến uy tín, các vấn đề truyền thông
báo chí, gián đoạn hoạt động, mất khách hàng hoặc bị thanh tra kiểm tra, giám sát đặc
biệt…), xuất phát từ 7 nhóm sự kiện chính sau đây:
(i) Gian lận nội bộ: tổn thất do các sự kiện gian lận, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản, giả mạo
hồ sơ chứng từ, biển thủ tham ô tài sản ngân hàng, phá hoại tài sản ngân hàng, trộm cắp
tống tiền… do nhân viên ngân hàng gây ra hoặc tiếp tay cho tội phạm.
(ii) Gian lận bên ngoài: do đối tượng bên ngoài thực hiện, nhưng cũng có nguyên nhân từ
sự yếu kém trong quản trị nội bộ của ngân hàng, sơ hở hoặc trình độ năng lực kém của
nhân viên ngân hàng.
(iii) Chính sách lao động và môi trường làm việc: khả năng tổn thất do ngân hàng không
xử lý đúng quy định, không thỏa đáng các chính sách lương thưởng và nhân sự, không
đảm bảo quyền lợi cho người lao động - một trong các nhóm lợi ích liên quan được đề
cập ở trên trong quản trị doanh nghiệp.
16
(iv) Khách hàng, sản phẩm dịch vụ và thực tiễn môi trường kinh doanh: khả năng tổn thất
phát sinh từ các lỗi, sai sót không cố ý hoặc do sơ suất trong việc đáp ứng các trách
nhiệm nghề nghiệp đối với khách hàng, hoặc không tuân thủ đúng các thực tiễn, các tiêu
chuẩn thực hành của môi trường kinh doanh. Ðây là một mục tiêu chính của quản trị
doanh nghiệp.
(v) Tài sản cố định, công cụ, dụng cụ bị mất mát hoặc bị phá hoại do thiên tai hoặc các sự
kiện bên ngoài khác như khủng bố, chiến tranh, cháy nổ.

(vi) Gián đoạn hoạt động hoặc lỗi hệ thống công nghệ thông tin.
(vii) Quản lý hoạt động và quá trình thực hiện giao dịch hàng ngày, phân phối sản phẩm
dịch vụ, quan hệ với đối tác, nhà cung cấp… Ðây cũng là nhóm lợi ích quan trọng mà
quản trị doanh nghiệp cần lưu ý tới.
Các vụ việc rủi ro hoạt động nghiêm trọng nhất thường liên quan đến sự vi phạm, phá vỡ
hệ thống kiểm soát nội bộ và các nguyên tắc quản trị doanh nghiệp. Các vi phạm trên dẫn
đến tổn thất tài chính cho ngân hàng thông qua các lỗi sai sót, gian lận, hay thất bại trong
việc duy trì hoạt động một cách liên tục và kịp thời, hoặc khiến các lợi ích của ngân hàng
bị tổn thương theo cách nào đó, ví dụ, bởi các giao dịch viên, các cán bộ tín dụng hoặc
các nhân viên khác thực hiện những hành vi vượt thẩm quyền hoặc hoạt động tác nghiệp
theo một cách thức mạo hiểm, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Thất bại trong quản lý rủi
ro hoạt động và các hệ lụy của nó có thể thấy rất rõ nét từ các vụ việc của Barings (Anh
Quốc), Societe Generale (Pháp) cho tới cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007 xuất phát
từ khủng hoảng nợ dưới chuẩn vốn bắt nguồn từ những sai phạm trong cho vay. Ðã 5
năm trôi qua kể từ khi khủng hoảng tài chính bùng nổ dữ dội vào tháng 8/2007, nhưng có
vẻ như hệ thống ngân hàng toàn cầu vẫn đang ở trong tình trạng mất kiểm soát. Gần đây,
hàng loạt vụ bê bối lại liên tiếp xảy ra: Barclays thao túng lãi suất Libor, HSBC rửa tiền,
Nomura thực hiện giao dịch nội gián, JP Morgan sai sót trong quản lý rủi ro và làm tiêu
tan 5,8 tỷ USD của nhà đầu tư. Tất cả các vụ việc đình đám này, lại bắt nguồn từ nguyên
nhân chính là rủi ro hoạt động chứ không phải rủi ro thị trường hay rủi ro tín dụng - hai
loại rủi ro mà các NHTM đầu tư xây dựng mô hình và quản lý chặt chẽ.
Chính vì vậy, quản lý và giám sát rủi ro hoạt động đóng một vai trò quan trọng, là lá chắn
tin cậy của ngân hàng nhằm ngăn chặn những vi phạm các nguyên tắc quản trị công ty.
Về nguyên tắc, một hệ thống quản lý rủi ro hoạt động tốt sẽ phản ánh hiệu quả của
HÐQT và Ban điều hành trong việc quản lý danh mục các sản phẩm, dịch vụ và hoạt
động chung của ngân hàng. Thông qua việc duy trì một khung quản trị rủi ro hoạt động
và hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ, hiệu lực, hiệu quả, quản trị NHTM mới có thể đạt
được những mục tiêu chính như tính hiệu quả và hiệu năng của hoạt động ngân hàng, an
toàn tài sản ngân hàng, tuân thủ với các luật lệ địa phương, tính liên tục của hoạt động
kinh doanh, độ tin cậy của các kênh báo cáo, đảm bảo hành xử một cách hợp lý và có

trách nhiệm với các nhóm lợi ích liên quan như khách hàng, nhà cung cấp, nhân viên…
17
3. Ứng dụng hiệp ước Basel trong quản trị rủi ro tín dụng tại Việt Nam
3.1. Thuận lợi
Ngân hàng Nhà Nước ban hành một số văn bản liên quan đến công tác quản trị rủi ro tín
dụng nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi ro nhằm đảm bảo tăng trưởng tín dụng an toàn,
hiệu quả và bền vững, góp phần tăng trưởng kinh tế, phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp
ứng yêu cầu của Basel về quản trị rủi ro trong hoạt động ngân hàng.
Basel II đã có ảnh hưởng lớn trong việc nâng cao năng lực quản trị điều hành, nhất là
năng lực quản lý rủi ro. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các
TCTD cũng đang rất nỗ lực để hoàn thiện hơn nữa hệ thống quản trị rủi ro của ngân hàng
mình cho phù hợp với điều kiện hoạt động cụ thể của mỗi ngân hàng và từng bước tiếp
cận với các chuẩn mực của Basel II.
3.2. Khó khăn
• Về chi phí thực hiện:
Một trong những khó khăn ảnh hưởng đến việc quyết định áo dụng Basel II vào hệ thống
giám sát và quản trị rủi ro của các ngân hàng TM Việt nam đó chính là chi phí vận hành
theo toàn bô chuẩn mực của Basel II quá lớn. Théo ước tính, các NHTM có quy mô nhỏ
phải tốn khoảng 15% vốn điều lệ của các ngân hàng TMCP (khoảng 60 tỷ VNĐ). Trong
khi đó, nếu là ngân hàng có quy mô lớn thì chi phí vận hành hệ thống này có thể tương
đương với 3200 tỷ VNĐ (cao hơn mức vốn pháp định của các NHTM Nhà nước thêo
nghi định141 của Chính phủ).
• Điều kiện hỗ trợ thông tin chưa đầy đủ
 Để áp dụng theo các chuẩn mực của Basel II, các thông tin về thị trường chứng khoán
và thị trường vốn là hết sức quan trọng. Nhưng hiện tại thì số mã chứng khoán được
niêm yết và giao dịch trên thị trường là khá ít so với số lượng hàng hóa trên thị trường.
Như vậy rất khó cho các ngân hàng có sự hỗ trợ thông tin kịp thời từ thị trường chứng
khoán để áp dụng vào công tác quản trị rủi ro của mình.
 Các báo cáo, thông tin kinh tế vĩ mô và vi mô thường là dạng báo cáo năm và có độ trễ
tương đối lớn với thời gian xảy ra các sự kiện. Như vậy rất khó hỗ trợ cho các ngân

hàng trong việc dự báo, đánh giá và phòng ngừa rủi ro.
• Thiếu những tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp:
18
 Thực tế là mỗi ngân hàng Việt nam đều đang từng bước xây dựng một hệ thống xếp
hạng tín nhiệm cho từng nhóm đối tượng khách hàng. Tuy nhiên việc xếp hạng này
chủ yếu nhằm phục vụ quá trình thẩm định, ra quyết định cho vay của ngân hàng, rất ít
được chia se thông tin hay phổ biến rộng rãi bên ngoài. Ngoài ra nó còn dẫn đến những
kết luận thiếu chính xác chỉ vì lí do thông tin không đầy đủ.
 Đặc biệt ở Việt Nam, hầu hết các doanh nghiệp không được xếp hạng, điều này dẫn tới
bất lợi cho các ngân hàng Việt Nam vì tất cả các khoản vay của khách hàng không
được xếp hạng sẽ bị áp dụng mức độ rủi ro là 100%. Thêm vào đó, Basel cho rằng
những công ty không xếp hạng ít rủi ro hơn những công ty được xếp hạng là không
hoàn toàn chính xác.
• Hạn chế về năng lực giám sát
Chẳn hạn, khi được sử dụng hệ thống đánh giá rủi ro nội bộ, nhiều tổ chức tín dụng có
thế quá lạc quan về triển vọng khách hàng của mình và không có các biện pháp đối phó
cũng như phòng ngừa thích hợp, đẫn đến khả năng vỡ nợ của khách hàng có thể kéo theo
sự vỡ nợ của ngân hàng nói riêng và toàn hệ thống ngân hàng nói chung.
• Vấn đề nguồn nhân lực:
Thông qua tìm hiểu những chuẩn mực Basel, có thể thấy rằng để nắm vững và vận dụng
được các chuẩn mực này đòi hỏi các chuyên gia trong lĩnh vực quản trị, giám sát ngân
hàng và nhân viên phụ trách phải có một tầm hiểu biết nhất định. Nhưng với tốc độ phát
triển mạnh mẽ như hiện nay của hệ thống ngân hàng thì số lượng chuyên gia giỏi vẫn
chưa đủ và cần một sự đào tạo, bổ sung rất lớn.
• Cơ sở pháp lý nền tảng:
Hiện nay, các ngần hàng Việt Nam đang bối rối trong việc thực hiện theo các chuẩn mực
kế toán của Việt Nam và các chuẩn mực kế toán quốc tế. Khi thực hiện báo cá theo hai
chuẩn mực này hoặc thuê các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập trong nước và ngoài
nước đanh giá thì kết quả là rất khác biệt.
• Vấn đề rủi ro thị trường trong giá trị số sách của các NHTM

Thông thường, khi các ngân hàng phân tích hoạt động trong một thời giạn, sẽ sử dụng các
dự liệu trên bảng cân đối kế toán và các báo cáo tài chính khác. Có một vần đề cần quan
tâm ở đây là giá trị các khoản mục trên bảng cân đối nên thể hiện như thế nào để có thể
tính đến những yếu tố biện động trên thị trường tác động đến giá trị sổ sách của những
khoản mục này bao gồm biến động về lãi suất, tỷ giá, biến động giá các loại chứng khoán
và các sản phẩm phái sinh theo thời gian đáo hạn còn lại. Tuy nhiên có thể thấy rằng hầu
hết các ngân hàng chưa tính đến yếu tố rủi ro thị trường vào giá trị các khoản đầu tư trên
sổ sách của các NHTM
19
4. Giải pháp nâng cao công tác quản trị rủi ro
4.1. Sự cần thiết ứng dụng Hiệp ước Basel II trong quản trị rủi ro tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam
Theo phân tích tình hình ứng dụng hiệp ước Basel trên thế giới, xu hướng ứng dụng rộng
rãi những chuẩn mực của Basel, đặc biệt là Basel II trong công tác quản trị rủi ro và giám
sát hoạt động ngân hàng không chỉ có ở các nước phát triển, hay các nước thuộc khối
OECD nữa mà đã trở thành xu hướng chung của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Đối
với Việt Nam, xu hướng này cũng không phải ngoại lệ. Những lý do để hệ thống NHTM
Việt Nam xem xét ứng dụng Basel trong quản trị rủi ro và giám sát hoạt động ngân hàng
có thể kể đến như là:
Thứ nhất, hoạt động của ngân hàng không còn bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà trải
rộng ra rất nhiều quốc gia, nhiều khu vực với những danh mục sản phẩm dịch vụ đa dạng.
Trên thực tế, một số ngân hàng thương mại Nhà nước Việt Nam đã và đang tìm cách mở
chi nhánh của mình ở nước ngoài nhằm tăng tính chủ động trong hoạt động đồng thời tận
dụng tốt thị trường tiềm năng trên thế giới. Khi đã lựa chọn phương án mở chi nhánh
ngân hàng tại quốc gia khác thì phải tuân theo pháp luật hiện hành của họ, không thể chỉ
giữ riêng theo luật pháp của Việt Nam.
Thứ hai, trong thời gian tới, hoạt động ngân hàng nước ngoài dự báo sẽ phát triển mạnh
trên lãnh thổ Việt Nam, việc kiểm soát để hạn chế đến mức tối đa rủi ro cho hệ thống
ngân hàng Việt Nam cũng như bảo vệ quyền lợi của những người gửi tiền là hết sức cần
thiết. Nếu không có quy định luật pháp đi trước một bước thì khi chậm chân hơn, hệ

thống ngân hàng chúng ta sẽ phải nhận những hậu quả có thể rất nặng nề.
Thứ ba, tự nhìn lại và chấn chỉnh mình theo các chuẩn mực quốc tệ sẽ giúp chúng ta có
thể so sánh và đánh giá một cách chính xác, khách quan nhất về những điểm yếu, điểm
mạnh của mình, từ đó có những biện pháp kịp thời nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ
thống, giảm thiểu những điểm yếu và bất lợi. Điều này sẽ giúp hệ thống ngân hàng Việt
Nam có thể phát triển bền vững và an toàn hơn. Trong công cuộc cơ cấu các ngân hàng
theo chuẩn mực quốc tế, chúng ta cần chấp nhận cắt bỏ những bộ phận yếu, bộ phần thừa
để tập trung phát triển thế mạnh của mình.
Tóm lại, thực hiện hiệp ước an toàn vốn Basel được xác định là một trong những mục
tiêu quản trị rủi ro đối với các tổ chức tín dụng Việt Nam. Hiệp ước này sẽ tạo nên một
bước tiến mới trong quá trình cải tiến chất lượng quản lý các định chế tài chính, ổn định
hệ thống ngân hàng và trên hết là tăng tính hiệu quả của hoạt động tài trợ nền kinh tế.
Việc nắm vững nội dung của Hiệp ước Basel II và tác động của việc thực thi Hiệp ước
này lên hệ thống tài chính ngân hàng Việt Nam trở thành nhu cầu hết sức thiết thực của
cán bộ làm việc trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
20
4.2. Lựa chọn phương pháp và lộ trình phù hợp
Hiện tại, hầu hết các quốc gia trong khu vực Châu Á đều đã lựa chọn một lộ trình áp dụng
phù hợp với hệ thống ngân hàng thương mại của mình trên cơ sở xem xét khả năng và các
yếu tố nền tảng như hệ thống cơ sở dữ liệu, hệ thống công nghệ thông tin, sự phát triển của
các thị trường nền tảng và tính chuyên nghiệp trong việc thực hiện các hoạt động ngân
hàng… Nếu lựa chọn một phương pháp quá hiện đại trong khi nền tảng về cơ sở hạ tầng
chưa đủ sẽ tạo ra một hiệu ứng ngược, làm tăng rủi ro trong hoạt động của cả hệ thống
ngân hàng thương mại trong khi các rủi ro khác vẫn còn tiềm ẩn. Trong điều kiện của Việt
Nam hiện nay, hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ cho quá trình phân tích và đánh giá rủi ro là
một trong những khó khăn lớn, bên cạnh đó còn thiếu các văn bản hướng dẫn, thiếu các
điều kiện tiên quyết về tính chủ động trong mỗi ngân hàng cũng như khó khăn về mặt chi
phí, cho nên cần thận trọng xem xét việc ứng dụng những chuẩn mực theo tiêu chuẩn Basel
II.
Xét riêng về rủi ro tín dụng, hiện tại đã được các Ngân hàng thương mại Việt Nam quan

tâm nhiều, đồng thời ngân hàng Nhà nước cũng có các công văn hướng dẫn liên quan đến
phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống ngân hàng thương mại
Việt Nam thực hiện đánh giá rủi ro tín dụng theo các chuẩn mực của Basel I với hệ số rủi
ro chỉ căn cứ vào khoản mục tài sản, chưa căn cứ vào đối tượng khách hàng. Điều này có
thể dẫn đến sự đánh giá không thực sự là chính xác. Ví dụ như cùng là khoản cho vay
không đảm bảo bằng tài sản với một doanh nghiệp được xếp hạng rất uy tín trên thị trường
và với một doanh nghiệp được đánh giá rất rủi ro, theo QĐ 457/2005, hệ số rủi ro tính là
như nhau đều là 100%. Đây cũng là một trong những nhược điểm của Basel I. Ngoài ra,
hiện nay, việc phân loại nợ, trích lập và dự phòng rủi ro thông thường được xác định chủ
yếu trên các khoản nợ có vấn đề khi đã quá thời gian đáo hạn, việc trích lập và dự phòng
như thế này chỉ giải quyết cho những thiệt hại đã có khả năng nhận biết được, còn đối với
các thiệt hại không nhận biết được thì đồng thời chưa có quy định về việc dự báo và phòng
ngừa.
Trong thời gian tới có thể khắc phục những vấn đề khó khăn trên thông qua việc bổ sung
các quy định về hệ số rủi ro có liên quan cụ thể đến phần xếp hạng tín nhiệm của từng
nhóm đối tượng khách hàng. Bước đầu, kết quả xếp hạng tín nhiệm của các khách hàng
là cá nhân, doanh nghiệp có thể do chính bản thân các ngân hàng đưa ra căn cứ vào sổ tay
xếp hạng tín nhiệm của mỗi ngân hàng nhằm tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động
trong tính toán và cũng không tốn kém nhiều chi phí. Đối với khoản phải đòi liên quan
các tổ chức thuộc chính phủ hoặc, các ngân hàng thương mại khác thì tạm thời có thể sử
dụng các quy định hiện tại về hệ số rủi ro theo quyết định 457/2005 và quyết định
03/2007/QĐ-NHNN. Giải pháp này được xem như là lựa chọn áp dụng song song cả
Basel I và phương pháp chuẩn trong đánh giá rủi ro tín dụng của Basel II. Có thể thực
hiện được. Sauk hi ngân hàng Nhà nước có văn bản hướng dẫn cụ thể về thành lập và
hoạt động của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam cũng như khuyến khích các
21
ngân hàng thương mại sử dụng kết quả xếp hạng tín nhiệm của tổ chức bên ngoài, các
ngân hàng thương mại Việt Nam có thể áp dụng theo phương pháp chuẩn đánh giá rủi ro
tín dụng của Basel II.
Riêng phương pháp IRB cơ bản và IRB nâng cao, thời điểm hiện nay các ngân hàng

thương mại chưa cần thiết áp dụng. Có thể tiếp cận để tìm hiểu và học hỏi kinh nghiệm từ
các quốc gia trong khu vực cũng như chờ đợi sự chuyển giao công nghệ từ các tập đoàn
tài chính – ngân hàng nước ngoài khi đầu tư vào nhóm ngân hàng thương mại cổ phẩn
Việt Nam. Điều này sẽ giúp tiết kiệm chi phí ban đầu cũng như tránh được những rủi ro
khi áp dụng các phương pháp hiện đại.
Đồng thời, để tạo điều kiện cho khả năng ứng dụng các phương pháp IRB cơ bản cũng
như IRB nâng cao trong tương lai, ngay tại thời điểm này, mỗi ngân hàng thương mại cần
tích cực chủ động xây dựng một cơ sở dữ liệu về thông tin khách hàng cũng như thống kê
các xác suất, mức độ thiệt hại và giá trị hoạt động tại mỗi mức rủi ro có liên quản. Bởi vì
không thể nào quyết định áp dụng được phương pháp IRB nếu khả năng phân tích và ước
lượng xác suất xảy ra tổn thất của các ngân hàng còn yếu, cũng như ngân hàng không thu
thập đầy đủ số liệu lịch sử về mỗi khách hàng đến giao dịch với ngân hàng.
4.3. Nhóm giải pháp phối hợp
4.3.1. Xây dựng cơ chế giám sát phối hợp
Nhằm đáp ứng được những chuẩn mực khắt khe liên quan đến quy trình quản trị rủi ro
theo Hiệp ước Basel, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa Chính phủ, ngân hàng Nhà
nước Việt Nam, Bộ Tài chính, tổ chức bảo hiểm tiền gửi DIV và Ủy ban chứng khoán
nhà nước. Điều này được thực hiện thông qua việc xây dựng những cơ chế giám sát phối
hợp cũng như cơ chế trao đổi thông tin liên tục. Bởi vì theo kinh nghiệm từ các quốc gia
phát triển, đối với những rủi ro cộng với cấu trúc tổ chức phức tạp của các tổ chức tài
chính, một cơ chế giám sát phối hợp từ nhiều đơn vị luôn hiệu quả hơn là sự giám sát rải
rác và đơn lẻ. Đồng thời, cơ chế này cũng hỗ trợ việc gắn kết trong hoạt động của các tổ
chức tài chính nói chung và các ngân hàng thương mại nói riêng.
Khi có được sự phối hợp đồng bộ, thông tin được tiếp cận nhanh hơn và những rủi ro có
thể xảy ra cũng dễ dàng được nhận biết. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xử lý
hỗ trợ kịp thời, tránh để dẫn đến những cuộc khủng hoảng quy mô lớn xuất phát từ hệ
thống ngân hàng. Ngoài ra, chính sách phối hợp này cũng giúp các ngân hàng thương mại
giảm thiểu thời gian xử lý rủi ro.
4.3.2. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Vấn đề thường gặp không phải riêng đối với Việt Nam, mà với hầu hết các nền kinh tế

mới nổi nói chung đó là không có đội ngũ chuyên viên có chất lượng cao để phục vụ
trong cả khu vực công và khu vực tư. Những chuyên viên này cần có một sự am hiểu sâu
rộng về các vấn đề kinh tế vĩ mô, kế toán, tài chính cũng như có khả năng phân tích cả
22
định tính lẫn định lượng, khả năng kiểm tra định lượng, dự báo, đánh giá và quản trị rủi
ro. Trong thời gian sắp tới, vấn đề này cần được cải thiện cấp bách để tạo nên sự ổn định
an toàn cần thiết cho hoạt động của khu vực tài chính.
Nhằm đáp ứng kịp thời cho những nhu cầu về nhân lực trước mắt, cần có sự phối hợp
liên thông giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng thương mại trong hệ
thống cùng với các chuyên gia nhiều kinh nghiệm từ ngân hàng BIS khu vực Châu Á.
Các tổ chức này có thể phối hợp với các đơn vị liên quan thường xuyên tổ chức các khóa
đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cập nhật để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân
tích, kiểm soát rủi ro tính dụng cho cán bộ nhân viên. Theo lời khuyên của các chuyên
gia về quản trị rủi ro tín dụng thì sẽ không có phương pháp phân tích phức tạp nào có thể
thay thế được kinh nghiệm và đánh giá chuyên môn của những người phụ trách trong lĩnh
vực quản trị rủi ro.
Ngoài ra, cần xây dựng chiến lược đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực trung và dài hạn
có đủ khả năng đón đầu phát triển hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời
gian tới. Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức Tài chính – Tiền tệ quốc tế để tận dụng
nguồn vốn, kỹ thuật cũng như kỹ năng và kiến thức xử lý.
Chế độ ưu đãi cần thiết đối với những chuyên viên, cán bộ trong lĩnh vực ngân hàng cũng
cần được quan tâm. Tránh để xảy ra tình trạng “ chảy máu chất xám” trong điều kiện Việt
Nam hiện nay. Đồng thời nâng cao đạo đức nghề nghiệp và trách nhiệm của cán bộ Ngân
hàng.
Đối với các ngân hàng cần có trung tâm đào tạo được trang bị hiện đại, nâng cao hiệu quả
hoạt động của các cơ sở đào tạo trong ngành Ngân hàng. Chương trình đào tạo phải thiết
thực cụ thể nhằm trau dồi nâng cao kỹ năng nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại. Tiêu
chuẩn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ trực tiếp
tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và
cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công

nghệ mới.
Ngoài ra, một giải pháp cũng tương đối khả thi trong việc tạo điều kiện tiếp cận kiến thức
mới cho các chuyên gia ngân hàng đó chính là Ngân hàng Nhà nước sẽ chủ động trong
việc đặt hàng nhiều đề tài nghiên cứu với sự tham gia phối hợp của những người có kinh
nghiệm thực tế và những người am hiểu lý thuyết. Sự phối hợp này sẽ tạo ra một sản
phẩm có chất lượng, có ý nghĩa tham khảo cho hầu hết các ngân hàng.
4.3.3. Tăng tính chủ động và sức mạnh tài chính cho các Ngân hàng thương mại
Phương án then chốt trong việc tăng sức mạnh tài chính cho các ngân hàng thương mại là
giảm bớt số lượng những tổ chức tài chính nhỏ, không đáp ứng nhu cầu vốn tổi thiểu,
tăng cường số lượng các ngân hàng có quy mô vốn lớn, hoạt động hiệu quả thông qua đề
23
án tái cơ cấu các ngân hàng thương mại Việt Nam. Có thể thực hiện được điều này thông
qua một số giải pháp như:
Trước hết, thực hiện tăng vốn tự có của các ngân hàng bằng lợi nhuận giữ lại, cho phép
và khuyến khích các ngân hàng phát hành cổ phiếu, trái phiếu huy động vốn dài hạn trên
thị trường chứng khoán sơ cấp. Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang thực hiện khá tốt
công việc này. Đồng thời tạo tính thanh khoản cho các công cụ tài chính trung và dài hạn
trên thị trường chứng khoán thức cấp thông qua việc thành lập hoặc tham gia chợ đầu
mối chứng khoán thứ cấp.
Thứ hai, nhanh chóng xử lý dứt điểm nợ tồn động và làm sạch bảng cân đối. Xây dựng cơ
chế ngăn chặn sự gia tăng của nợ xấu mới. Chính phủ cần có biện pháp đồng bộ giữa quá
trình tái cơ cấu ngân hàng với cải cách các doanh nghiệp thông qua cơ chế đủ minh bạch
để xác định quyền chủ nợ và nghĩa vụ đích danh của người đi vay là các doanh nghiệp
nhà nước trước khi cổ phần hóa hoặc thay đổi quan hệ sở hữu.
Thứ ba, củng cố và phát triển hệ thống Ngân hàng thương mại cổ phần theo hướng tăng
cường năng lực tài chính và quản lý, đồng thời giải thể, sáp nhập, hợp nhất hoặc bán lại
các Ngân hàng cổ phần yếu kém về hiệu quả kinh doanh.
Thứ tư, mở của thị trường trong nước trên cơ sở xóa bỏ dần các giới hạn về số lượng, loại hình
tổ chức, phạm vi hoạt động, tỷ lệ góp vốn của nước ngoài, đảm bảo quyền kinh doanh của các
ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết đa phương và song phương.

Ngoài ra, song song với việc tăng sức mạnh tài chính cho hệ thống Ngân hàng thương
mại Việt Nam, cần tạo tính chủ động trong hoạt động cho các ngân hàng. Các ngân hàng
phải thấy được ý nghĩa của việc xây dựng các hệ thống quản trị rủi ro và tự mình sẽ lựa
chọn những phương pháp phù hợp nhất dựa trên năng lực hiện có. Ngân hàng Nhà nước
cũng như các cơ quan giám sát không can thiệp quá sâu vào hoạt động của ngân hàng khi
có các biến cố đặc biệt xảy ra. Đặc biệt, đối với Ngân hàng thương mại Nhà nước trong
thời gian tới, khi đã được cổ phần hóa thành công, tỷ lệ vốn nắm giữ bởi Nhà nước ở một
số ngân hàng có thể giảm xuống, giảm sự giám sát không cần thiết của Nhà nước trong
hoạt động tại những ngân hàng này.
4.3.4. Nâng cao cơ sở hạ tầng tài chính
Các thị trường tài chính đóng vai trò quan trọng giúp hệ thống ngân hàng thương mại bổ
sung nguồn thông tin xác định mức độ rủi ro, hỗ trợ cho việc sử dụng các mô hình lượng
phân tích và dự báo rủi ro. Vì vậy, trong thời gian tới Chính phủ và các Bộ ban ngành cần
phối phát triển thị trường vốn theo hướng tạo điều kiện đa dạng hóa các chủ thể tham gia,
các công cụ và phương thức giao dịch trên thị trường, đặc biệt là các sản phẩm phái sinh,
công cụ phòng ngừa rủi ro. Đồng thời hỗ trợ tổ chức tín dụng phát hành các giấy tờ có giá
có độ an toàn cao, bao gồm các loại trái phiếu niêm yết trên thị trường tập trung.
24
Riêng đối với ngân hàng Nhà nước, tiếp tục hoàn thiện các chính sách, quy định về tổ
chức, hoạt động và quản lý, điều hành thị trường tiền tệ theo hướng mở rộng quyền tiếp
cận thị trường và khả năng phát hành các công cụ tài chính có mức độ rủi ro thấp, trong
đó khuyến khích một số ngân hàng thương mại lớn có đủ điều kiện năng lực trở thành
thành viên chủ đạo, có vai trò kiến tạo trên các thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường
tiền tệ phái sinh.
Phát triển thị trường chứng khoán theo hướng tăng số lượng, chủng lại hàng hóa tham gia
trên thị trường. Thực hiện tốt yêu cầu minh bạch và công khai hóa thông tin đối với mọi
nhà đầu tư. Có những quy định chặt chẽ và xử lý nghiêm những tổ chức cá nhân thực
hiện đầu cơ và tạo giá trên thị trường.
Xu hướng tự do hóa tài chính và các giao dịch tài chính là một trong những yếu tố quan
trọng góp phần nâng cấp cơ cở hạ tầng tại Việt Nam hiện tại. Xem xét và bãi bỏ những

rào cản pháp luật, những quy định không cần thiết gây cản trở quá trình đầu tư của các
nhà đầu tư nước ngoài.
4.4. Nhóm giải pháp đối với các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại cần đánh giá được mức độ ảnh hưởng của Hiệp ước Basel đến
quy mô vốn yêu cầu của họ và tập trung vào việc xây dựng mới cả hệ thống cơ sở dữ
liệu, hệ thống công nghệ thông tin, quy trình quản trị rủi ro và chuẩn bị kỹ lưỡng về
nguồn nhân lực. Theo quy định của Basel, các ngân hàng toàn quyền tự do trong việc lựa
chọn phương pháp phù hợp với mình nhất, phù hợp với luật pháp quốc gia của nước sở
tại và sự chấp thuận của cơ quan giám sát ngân hàng.
4.4.1. Hoàn thiện hệ thống thông tin
Đối với rủi ro tín dụng, các ngân hàng cần có hệ thống thông tin và kỹ thuật phân tích có
khả năng đo lường được rủi ro trong tất cả các hoạt động nội bảng và ngoại bảng cân đối
tài sản. Hiệu quả của quy trình đo lường rủi ro tín dụng phụ thuộc nhiều vào chất lượng
của hệ thống thông tin quản lý. Việc đo lường rủi ro tín dụng cần xét tới các yếu tố như:
tính chất của khoản tín dụng, các điều kiện tài chính và hợp đồng như thời hạn, lãi suất
tham chiếu, rủi ro thất thoát có thể xảy ra cho tới khi đến hạn khoản vay do những biến
động của thị trường; tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh, xếp hạng tín dụng nội bộ…Việc xếp
hạng tín dụng đối với khách hàng nhằm đánh giá xác suất không trả được nợ, tính mức
tổn thất dự kiến, từ đó, xác định mức giá khác nhau đối với từng loại khác hàng. Để bù
đắp rủi ro về tín dụng , ngân hàng thu lãi tiền vay theo lãi suất đủ để trang trải các chi phí
đầu vào và cộng thêm phần lãi của ngân hàng. Mức lãi suất các ngân hàng áp dụng cho
thấy mức độ rủi ro mà ngân hàng phải chịu. Trong điều kiện cạnh tranh hiện nay thì mức
lãi giảm xuống, vì vậy, các ngân hàng cần phải đảm bảo rằng đầu tư của họ có chất lượng
cao.
25

×