Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Dạy đọc hiểu văn bản vợ nhặt của kim lân theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.96 KB, 68 trang )


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=======***=======






TRỊNH THỊ HƯƠNG GIANG






DẠY ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN “VỢ NHẶT”
CỦA KIM LÂN THEO ĐẶC TRƯNG
THỂ LOẠI



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn




HÀ NỘI - 2014




TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN
=======***=======







TRỊNH THỊ HƯƠNG GIANG





DẠY ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN “VỢ NHẶT”
CỦA KIM LÂN THEO ĐẶC TRƯNG
THỂ LOẠI



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Ngữ văn


Người hướng dẫn khoa học:
Th.S TRẦN HẠNH PHƯƠNG




HÀ NỘI - 2014

LỜI CẢM ƠN


Tác giả xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành sâu sắc tới Th.S Trần Hạnh
Phương, người đã luôn quan tâm, động viên và tận tình hướng dẫn tác giả
trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Tác giả cũng xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong Tổ
Phương pháp dạy học Ngữ văn cùng tất cả các thầy cô trong khoa Ngữ văn đã
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tác giả học tập và nghiên cứu.

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả


Trịnh Thị Hương Giang
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp “Dạy đọc – hiểu văn bản
“Vợ nhặt” của Kim Lân theo đặc trưng thể loại” là kết quả nghiên cứu của
riêng tác giả dưới sự hướng dẫn của Th.S Trần Hạnh Phương. Các kết quả
nghiên cứu trong khóa luận là trung thực và chưa được công bố trong bất cứ
công trình nào.

Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả



Trịnh Thị Hương Giang



KÝ HIỆU VIẾT TẮT


GV : Giáo viên
HS : Học sinh
CH : Câu hỏi
DKTL Dự kiến trả lời
SGK: Sách giáo khoa
SGV: Sách giáo viên
THPT: Trung học phổ thông
Nxb: Nhà xuất bản
GS: Giáo sư
Th.S: Thạc sĩ
KL: Kết luận



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG 7
1.1. Tiếp nhận văn học 7
1.1.1. Khái niệm 7
1.1.2. Bản chất của tiếp nhận văn học 8

1.1.3. Quá trình tiếp nhận văn học 9
1.1.4. Bạn đọc với vấn đề tiếp nhận văn học 10
1.2. Thể loại văn học và vấn đề tiếp nhận văn học 11
1.2.1. Vấn đề thể loại 11
1.2.2. Mối quan hệ giữa thể loại văn học và tiếp nhận văn học 13
1.3. Vấn đề đọc – hiểu 13
1.3.1. Khái niệm đọc hiểu 13
1.3.2. Chức năng của đọc - hiểu 14
Chương 2. HƯỚNG DẪN HỌC SINH ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
“VỢ NHẶT ” (KIM LÂN) THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI 17
2.1. Kim Lân và vị trí của Kim Lân trong đời sống văn học và trong nhà
trường THPT 17
2.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Kim Lân 17
2.1.2. Vị trí của Kim Lân trong đời sống văn học và trong nhà trường. . 18
2.2. Đặc trưng thể loại tự sự trong “Vợ nhặt ” (Kim Lâm) 19
2.2.1. Cốt truyện 19
2.2.2. Nhân vật 24
2.2.3. Ngôn ngữ 31
2.3. Hướng dẫn đọc - hiểu văn bản “Vợ nhặt” theo đặc trưng thể loại. 35
2.3.1. Hướng dẫn đọc – hiểu cốt truyện 35
2.3.2. Hướng dẫn học sinh đọc - hiểu nhân vật 38
2.3.3. Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu ngôn ngữ truyện. 44
Chương 3. GIÁO ÁN THỰC NGHIỆM 46
KẾT LUẬN 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO






1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Văn chương hình thành, tồn tại và phát triển như một dòng chảy, trong
một dòng chảy. Nó là sự kết tinh, kế thừa giữa truyền thống và hiện đại. Văn
chương nghệ thuật không bao giờ ngưng đọng. Có khi nó phải trải qua những
thác ghềnh, những con sóng lớn dữ dội, nhưng có khi nó lại trôi đi một cách
phẳng lặng, bình yên. Trong nhà trường THPT, môn Ngữ văn là một môn học
quan trọng. Văn học luôn hướng cho con người đến cái chân - thiện - mĩ để
tâm hồn mỗi chúng ta cảm thấy yêu cuộc sống, nhân loại. Không những thế,
văn học còn cho chúng ta thấy rõ từng bước đi, từng nhịp đập, hơi thở của
lịch sử xuyên suốt qua từng chặng đường, từng thời kì, từng giai đoạn với
những nấc thăng trầm khác nhau. Công việc dạy học văn là một công việc
quan trọng. Giáo viên Ngữ văn cần dạy và tập cho học sinh tiếp nhận văn
chương một cách sáng tạo, bồi dưỡng năng lực tư duy văn học, tư duy thẩm
mĩ để mỗi em có thói quen tiếp nhận chủ động những giá trị văn minh văn
hóa tinh thần của dân tộc và nhân loại.
Tuy nhiên, hiện nay việc dạy học môn Ngữ văn trong nhà trường đang
gặp nhiều vấn đề khó khăn. Nhiều ý kiến phê bình về công việc dạy - học văn
trong nhà trường làm cho học sinh ngày càng chán học văn, sợ học văn, hay
học văn theo mẫu. Học sinh có quá nhiều lỗi sai về dùng từ, diễn đạt hoặc
chưa cảm nhận được cái hay, cái đẹp của tác phẩm văn chương… Học sinh
học văn chỉ học theo sự áp đặt của giáo viên. Có thể thấy nguyên nhân chủ
yếu xuất phát từ cách dạy của giáo viên. Giáo viên chưa thực hiện tốt chức
năng nhiệm vụ của môn văn. Thứ hai, người giáo viên dạy theo phương pháp
thuyết giảng là chính. Lên lớp, giáo viên chỉ giảng dạy theo bài soạn, nói thay,
làm thay, cảm thụ thay những cái hay, cái đẹp của các tác phẩm văn chương.
Học sinh chỉ có nhiệm vụ ghi chép lại, học thuộc rồi trả bài một cách máy
2


móc. Từ đó sẽ dẫn đến thói quen lười suy nghĩ, lười tư duy, thiếu sáng tạo…
Vì vậy vấn đề cấp thiết luôn được đặt ra là phải thường xuyên đổi mới
phương pháp dạy học. Trong đó dạy học Ngữ văn theo hướng đọc - hiểu được
xem là giải pháp hữu hiệu góp phần cải thiện và nâng cao chất lượng dạy và
học Ngữ văn ở trườngTHPT
Theo tinh thần đổi mới, cấu trúc chương trình và nội dung SGK được
sắp xếp theo trục thể loại là chính. Vì vậy hướng dẫn học sinh đọc - hiểu văn
bản Ngữ văn theo đặc trưng thể loại là một trong những hướng đi có nhiều ưu
thế. Nó không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến thức cụ thể của từng bài
mà còn là cơ sở giúp các em nắm được những kiến thức chung để có thể
đọc -hiểu bất cứ một văn bản nào khác cùng thể loại.
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học hiện đại
Việt Nam. Là một cây bút viết truyện ngắn tài năng, ông đã để lại những sáng
tác mang ý nghĩa to lớn về cả mặt nội dung và nghệ thuật. Nghiên cứu những
đặc điểm truyện ngắn của nhà văn Kim Lân, người viết mong muốn những
kiến thức này sẽ là cơ sở nền tảng góp phần quan trọng vào dạy đọc - hiểu văn
bản “Vợ nhặt” ở nhà trường THPT theo đặc trưng thể loại.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Các công trình nghiên cứu về đọc - hiểu
Nghiên cứu hoạt động đọc trong tài liệu dịch trước hết phải kể đến
những công trình “Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ thông”
của V.A.Nhikônski. Tác giả đã đưa ra những ý kiến cá nhân về thủ thuật và
phương pháp “đọc diễn cảm”, đọc bình giá của giáo viên cũng như tác dụng
của các phương pháp đó đối với việc tiếp nhận tác phẩm ở học sinh.
Tác giả cuốn giáo trình “Phương pháp luận dạy văn học” do Ia. Rez
(chủ biên) đã đặt phương pháp tập đọc sáng tạo ở vị trí hàng đầu như là
phương pháp đặc biệt nhất đối với văn học. Không đề xuất khái niệm khoa
3


học nhưng tác giả đã cụ thể hóa thành những biện pháp: đọc diễn cảm, dạy
học sinh đọc diễn cảm, giáo viên đọc văn bản nghệ thuật kèm theo lời bình,
GS. Phan Trọng Luận là một nhà khoa học đi vào vấn đề đọc văn bản
rất sớm. Đặt vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn, chuyên luận
“Cảm thụ văn học giảng dạy văn học” đã phân tích rõ tầm qua trọng của hoạt
động đọc và khẳng định quá trình đọc chính là quá trình từng bước thâm
nhập, tiếp cận tác phẩm. Tác giả cũng chỉ rõ vai trò của liên tưởng, tưởng
tượng đối với quá trình đọc sách.
GS. Nguyễn Khắc Phi viết trong lời mở đầu cuốn Sách giáo viên Ngữ
văn 6 (tập 1) (Nxb Giáo dục, 2000) đã nhấn mạnh “Đọc - hiểu văn bản là
hoạt động quan trọng và trực tiếp giúp học sinh đạt được kết quả đọc
văn”…[5; 3]
GS Trần Đình Sử trong bài viết “Đọc – hiểu văn bản một khâu đột phá
trong nội dung và phương pháp dạy hiện nay” đã thẳng thắn nhìn nhận về
phương pháp dạy cũ mà theo giáo sư “cách giảng, phương pháp giảng của
thày sao cho đúng, cho hay và cho học trò chỉ là người học cái hay, cái đẹp
do thầy mang lại”. Trong khi đó, bản thân văn học nói chung và các văn bản
là sáng tạo ra cho từng người đọc, và mỗi người phải tự đọc lấy thì hình tượng
cảm xúc và nội dung mới từ văn bản dấy lên trong lòng mình.
Như vậy, thông qua một số công trình nghiên cứu kể trên, chúng ta có
thể thấy rõ tầm quan trọng của việc đọc văn. Vì vậy, để hoạt động dạy Ngữ
văn ở nhà trường phổ thông đạt hiệu quả cao, giáo viên cần cho học sinh đọc
văn bản.
2.2. Các công trình nghiên cứu văn học theo thể loại
Các tác giả biên soạn tài liệu nghiên cứu về loại thể chia một cách quy
ước có ba loại thể văn học gồm: tự sự, trữ tình và kịch. Một số giáo trình, bài
viết vận dụng những kiến thức cơ bản về loại thể của Arixtot để phát triển
4

thành phương pháp luận giảng dạy văn học theo loại thể, phân tích ứng dụng

các tác phẩm được dạy nhà trường phổ thông. Những công trình này có ý
nghĩa quan trọng trong việc hệ thống, liên kết các vấn đề lí luận với thực tiễn
dạy học văn theo loại thể.
Trong “Vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể”, Trần Thanh Đạm đã
giới thiệu nhiều kiến thức cơ bản về các loại, các thể văn học có liên quan đến
chương trình cấp III. Từ đó giới thiệu phương pháp vận dụng đặc trưng các
loại thể vào việc giảng dạy các tác phẩm văn chương trong chương trình phổ
thông.
Các công trình “Phương pháp dạy học văn” do Phan Trọng Luận
(chủ biên), “Phân tích các tác phẩm văn học trong nhà trường” của Phan
Trọng Luận, “Đổi mới phương pháp dạy học Văn - Tiếng Việt ở trường phổ
thông” của Nguyễn Trí - Nguyễn Trọng Hoàn đã cung cấp cho giáo viên
những kiến thức lí luận và phương pháp dạy học văn cơ bản.
Với cuốn “Những ngả đường vào văn học”, Hoàng Ngọc Hiến đi từ
những khái luận đến việc đọc tác phẩm và phân tích tác phẩm. Trong đó có
những bài viết hữu ích cho việc dạy tác phẩm văn chương theo loại thể trong
nhà trường như: “Bàn góp về phương pháp giảng văn”, “Một ít lí thuyết về
trào phúng”, “Mấy vấn đề của tiểu thuyết và đặc trưng của thể loại này”,
“Đặc điểm của truyện ngắn hiện đại”.
Như vậy, có thể nói những công trình nghiên cứu trên đã có những
đóng góp quan trọng vào việc dạy - học Ngữ văn ở nhà trường THPT theo đặc
trưng thể loại.
2.3. Các công trình nghiên cứu về Kim Lân
- Nguyễn Đăng Mạnh trong “Tổng tập văn học Việt Nam” đã có những
trang viết đặc sắc về tài năng nghệ thuật của Kim Lân
- Sau đó trong “Tuyển tập Kim Lân” - 1996 nhà nghiên cứu Lữ Huy
5

Nguyên đã đưa ra nhận xét rất chính đáng về toàn bộ truyện ngắn Kim Lân.
- Ngoài ra cũng đã có một số luận văn thạc sĩ đã bàn về phong cách nghệ

thuật của Kim Lân như: luận văn “Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần
thuật trong truyện ngắn Kim Lân” của Nguyễn Quốc Thanh - Trường ĐHSP
TP Hồ Chí Minh; luận văn “Phong cách văn xuôi nghệ thuật Kim Lân” của
Nguyễn Thị Nha Trang - Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các bài viết dừng lại ở việc nghiên cứu những vấn đề chung
của truyện ngắn Kim Lân. Tiếp thu gợi ý của những nhà nghiên cứu, người viết
đi vào tìm hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân với những đặc trưng cơ
bản. Qua đó, vừa làm nổi bật những đóng góp của Kim Lân vừa phục vụ cho
việc dạy đọc - hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” theo đặc trưng thể loại.
3. Mục đích nghiên cứu
- Củng cố, nâng cao hiểu biết về phương pháp dạy học Ngữ văn theo
hướng đổi mới.
- Phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của học sinh trong giờ học
Ngữ văn.
- Nắm vững lí thuyết về đặc trưng thể loại cũng như phương pháp
đọc - hiểu theo đặc trưng thể loại để từ đó đưa ra những phương hướng dạy
học phù hợp, giúp học sinh tiếp nhận tác phẩm hiệu quả hơn.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu lí thuyết tiếp nhận, lí thuyết đọc - hiểu, lí thuyết thể loại
- Vận dụng lí thuyết vào đọc - hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
- Tiến hành thực nghiệm, xây dựng giáo án hướng dẫn học sinh đọc hiểu
văn bản “Vợ nhặt” của Kim Lân theo đặc trưng thể loại.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đặc trưng thể loại tự sự trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.
6

5.2. Phạm vi nghiên cứu
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân trong chương trình SGK Ngữ văn
12 (tập 2).

6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp thống kê, tổng hợp
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp thực nghiệm
7. Dự kiến đóng góp của khóa luận
- Làm rõ những đặc điểm truyện ngắn văn bản “Vợ nhặt” của Kim Lân
- Giúp cho người giáo viên thuận lợi hơn trong việc thiết kế bài học theo
hướng tổ chức cho học sinh để học sinh tích cực, chủ động. Từ đó, góp phần
vào việc nâng cao chất lượng đọc - hiểu các văn bản văn chương trong nhà
trường phổ thông nói chung và văn bản “Vợ nhặt” nói riêng.
8. Cấu trúc của khóa luận
Gồm 3 phần:
Mở đầu
Nội dung: Gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung
Chương 2: Hướng dẫn học sinh đọc – hiểu văn bản
“Vợ nhặt” của Kim Lân theo đặc trưng thể loại.
Chương 3: Giáo án thực nghiệm
Kết luận

7

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG

1.1. Tiếp nhận văn học
1.1.1. Khái niệm
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” tiếp nhận văn học là “Hoạt động
chiếm lĩnh giá trị tư tưởng thẩm mĩ của tác phẩm văn học. Bắt đầu từ sự cảm
thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng cảm hứng, quan niệm

nghệ thuật, tài năng tác giả cho đến tác phẩm sau khi đọc.”[3; 325]
GS. Nguyễn Thanh Hùng trong cuốn “Đọc và tiếp nhận tác phẩm văn
chương” lại quan niệm “Tiếp nhận tác phẩm văn học là quá trình đem đến
cho người đọc sự hưởng thụ và hứng thú trí tuệ, hướng vào hoạt động để
củng cố và phát triển một cách phong phú những khả năng thuộc thế giới tinh
thần và năng lực cảm xúc của con người trước đời sống” [4; 9]
Trong cuốn giáo trình “Lí luận văn học” do Phương Lựu (chủ biên) thì
“Tiếp nhận văn học là giai đoạn hoàn tất quá trình sáng tác của văn học”
[9; 215]
Như vậy, tiếp nhận văn học thực chất là quá trình mà người đọc bằng
vốn văn hóa cùng trí tưởng phong phú của mình thâm nhập vào thế giới nghệ
thuật của tác phẩm để khám phá, phát hiện, chiếm lĩnh giá trị tư tưởng thẩm
mĩ mà nhà văn gửi gắm qua lớp ngôn từ, hình ảnh. Ở đó diễn ra một cuộc đối
thoại tự do giữa người đọc với nhà văn thông qua tác phẩm. Văn bản mà nhà
văn viết ra chỉ có một nhưng ở mỗi người đọc lại bồi đắp thêm cho nó những
tầng ý nghĩa mới, có khi vượt khỏi ý đồ của tác giả, góp phần bổ sung, hoàn
thiện những giá trị thẩm mĩ của tác phẩm. Qúa trình đồng sáng tạo ấy đem lại
cho văn bản một cách hiểu mới làm cho tác phẩm không đứng yên mà luôn
vận động, phong phú thêm trong quá trình phát triển của lịch sử văn học.
Việc dạy học Ngữ văn trong nhà trường thực chất là dạy cho học sinh
8

cách tiếp nhận văn học dưới sự giúp đỡ của giáo viên. Người giáo viên phải
giúp học sinh nắm được những phương thức biểu đạt riêng của từng tác phẩm
để hoạt động dạy học đạt hiệu quả cao.
1.1.2. Bản chất của tiếp nhận văn học
Về bản chất có thể xem tiếp nhận văn học là quá trình tác động thẩm
mĩ, người đọc tiếp nối và tham gia vào mục đích sáng tạo của nhà văn, hiện
thực hóa ý đồ của nhà văn qua sự đồng điệu và nhân lên cảm xúc qua sự lay
động tâm hồn và mở ra những hiểu biết mới mẻ về cuộc đời. Dưới sự ảnh

hưởng tích cực của hình tượng văn học, quá trình tiếp nhận hướng con người
vào quy luật vân động của cái đẹp và kiến tạo thế giới tinh thần phong phú và
đa dạng.
Nếu đặc thù của quá trình sáng tạo văn học là các giai đoạn tồn tại
hình tượng nghệ thuật thì đặc thù của quá trình tiếp nhận văn học là quá trình
đi ngược lại quá trình sáng tác. Ở đó, người đọc phải bắt đầu từ việc đọc tác
phẩm, từ những yếu tố nhỏ nhất trong văn bản như âm vị, câu, thu nhận ý
nghĩa của toàn bộ văn bản, chuyển nội dung văn bản thành ý nghĩa tinh thần
của mỗi người. Trong quá trình này người đọc chia sẻ, tìm ra những tính chất
thẩm mĩ quan trọng như tính chân thực và chói sáng của ngôn ngữ nghệ thuật,
sự thống nhất nội tại trong kết cấu, tính độc đáo của những phát hiện chân lí
của sự phản ánh, trọng lượng của xung đột, đặc trưng thi pháp thể loại, quan
niệm nghệ thuật về con người của tác giả.
Sự tiếp nhận văn học là một vấn đề phức tạp. Không phải mọi sự sử
dụng tác phẩm đều được coi là “tiếp nhận văn học”. Bởi văn học là một sản
phẩm tinh thần, kết tinh những kinh nghiệm, tư tưởng, tình cảm của con
người trước một cuộc sống nhất định. Nó trở thành một thế giới tinh thần
phong phú. Chỉ khi nào sử dụng đến thế giới tinh thần đó thì mới coi là tiếp
nhận văn học toàn vẹn.
9

Quy luật của tiếp nhận văn học là phải cảm thụ tác phẩm trên tính tổng
thể. Tiếp nhận đòi hỏi người đọc trước hết phải biết tri giác, cảm thụ tác
phẩm, phải hiểu ngôn ngữ, tình tiết, cốt truyện, thể loại để có thể cảm nhận
được hình tượng trong toàn vẹn các chi tiết, các liên hệ. Cấp độ thứ hai, người
đọc tiếp xúc với ý đồ sáng tạo của nghệ sĩ, thâm nhập vào hệ thống hình
tượng như là sự kết tinh sâu sắc của tư tưởng và tình cảm tác giả. Cấp độ thứ
ba, đưa hình tượng vào văn cảnh đời sống và bằng kinh nghiệm sống của
mình để thể nghiệm, đồng cảm. Cuối cùng, nâng cấp, lí giải tác phẩm lên cấp
quan niệm và tính hệ thống, hiểu được vị trí tác phẩm trong lịch sử văn học và

truyền thống nghệ thuật.
1.1.3. Quá trình tiếp nhận văn học
1.1.3.1. Đọc tác phẩm
Tác phẩm văn học là hệ thống các kí hiệu ngôn ngữ được nhà văn tổ
chức sắp xếp theo một kiểu nào đó tùy thuộc vào chức năng nó thực hiện và
theo chủ ý của nhà văn. Trước một tác phẩm văn học, bước đầu tiên để tiếp
cận tác phẩm là đọc hiểu để giải mã hệ thống kí hiệu ngôn ngữ nào đó. Ở mỗi
thể loại có cách đọc riêng do sự chi phối của đặc trưng thể loại.
Với những môn khoa học thực nghiệm, để khai thác thông tin, người
ta có thể tiến hành thí nghiệm thì với tiếp nhận văn học, đọc là bước đầu tiên
không thể thiếu. Vì vậy hoạt động đọc luôn được chú trọng.
1.1.3.2. Hoạt động phân tích
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể thống nhất giữa nội dung và hình
thức nghệ thuật. Phân tích tác phẩm văn học là hoạt động chia nhỏ đối tượng
để có cái nhìn cụ thể những yếu tố những yếu tố làm nên chỉnh thể một cách
sâu sắc hơn. Hoạt động này giúp người đọc có cái nhìn cụ thể hơn về đối
tượng. Song, sau khi chia tách đối tượng người đọc phải tiến hành lắp ghép
tổng hợp để có thể nhìn nhận chúng ở tầm khái quát. Bởi vậy, trên nền tảng
10

những hiểu biết cụ thể về tác phẩm, học sinh phải tiến hành thao tác tổng hợp,
khái quát hóa để nhận định chủ đề, tư tưởng của tác phẩm và cũng là thông
điệp nghệ thuật mà nhà văn muốn chuyển đến mỗi người đọc.
1.1.3.3. Hoạt động cắt nghĩa
Cắt nghĩa là hoạt động quan trọng trong cơ chế tiếp nhận văn chương.
Cắt nghĩa để làm rõ ý nghĩa tác phẩm, bắt đầu từ việc lí giải những chi tiết,
hình ảnh tiến tới cắt nghĩa các hình tượng trong tác phẩm. Thông qua hoạt
động cắt nghĩa, người đọc sẽ có cái nhìn đa chiều đối với tác phẩm, tìm ra nội
dung, ý nghĩa và dụng ý nghệ thuật mà nhà văn gửi gắm. Cắt nghĩa là cơ sở
đánh giá mức độ hiểu của mỗi người, đem lại sự nhận thức chắc chắn làm cơ

sở để tìm hiểu tác phẩm văn học.
1.1.3.4. Hoạt động bình giá
Đây là bước cuối cùng của tiếp nhận văn học, dựa vào các kết quả thu
được từ hoạt động đọc, hoạt động phân tích, hoạt động cắt nghĩa trước đó. Đó
là hoạt động mang tính chủ quan, thể hiện thái độ đánh giá của người đọc,
người đọc có thể tự do bày tỏ ý kiến, những nhận xét, đánh giá chủ quan
mang đậm màu sắc cá nhân về tác phẩm. Hoạt động bình giá hướng tới việc
đi tìm cái mới về nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm. Tuy nhiên khi bình
giá cần tránh lối nói phiến diện, xuyên tạc. Việc bình giá phải đảm bảo khoa
học và có trách nhiệm.
Như vậy, có thể thấy quá trình tiếp nhận được tiến hành theo bốn bước:
đọc, phân tích, cắt nghĩa và bình giá. Đây được coi là một quy trình từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Nhờ có quy trình này mà quá trình tiếp
nhận được diễn ra một cách đầy đủ và trọn vẹn.
1.1.4. Bạn đọc với vấn đề tiếp nhận văn học
Hoạt động văn học từ xưa đến nay luôn vận hành qua các khâu hiện
thực - nhà văn - tác phẩm - bạn đọc. Cũng như các mối quan hệ giữa tác phẩm
11

với hiện thực, tác phẩm với nhà văn… thì mối quan hệ giữa tác phẩm và bạn
đọc (sự tiếp nhận văn học của bạn đọc) cũng đã được chú ý. Có thể nói vai trò
của bạn đọc cũng như sự tiếp nhận tác phẩm của họ là rất quan trọng. Trong
cuốn “Lí luận văn học” (tập 1), GS. Phương Lựu đã dẫn ra ý kiến của
Arixtot: “Khi thưởng thức tác phẩm người đọc cảm thấy thú vị, là vì họ vừa
xem, họ vừa đoán định tác phẩm nói đến người và việc nào đó ở ngoại đời…”
[9; 326]. Và đến nửa sau thế kỉ XX, khi nền Mỹ học tiếp nhận hình thành đã
khẳng định một cách thuyết phục vai trò tiếp nhận của bạn đọc đối với tác
phẩm văn học.
Vai trò của người đọc không chỉ là một khâu tất yếu tiếp theo mà còn là
một phương diện hữu cơ trong suốt quá trình sáng tạo nghệ thuật. Nghĩa là

không phải xuất hiện sau văn bản của tác phẩm mà ngay trong quá trình nhà
văn sáng tác nhà văn đã đối thoại với bạn đọc trong tưởng tượng. Đối với nhà
văn, bạn đọc luôn là hiện thân của nhu cầu xã hội để tác phẩm hướng tới đáp
ứng, lí giải, tuyên truyền hay thuyết phục. Sự phong phú trong nội dung tác
phẩm hay tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật cũng tạo nên những cách
hiểu không giống nhau ở bạn đọc.
Quá trình đồng sáng tạo là rất cần thiết nhưng để tiếp nhận một tác
phẩm trước hết đòi hỏi người đọc phải có khả năng cảm thụ, những hiểu biết
nhất định về văn học, tiếp xúc và thấu hiểu ý đồ sáng tạo của nhà văn để lắng
nghe những thông điệp của họ, thưởng thức cái hay cái đẹp mà tác phẩm đó
mang lại.
1.2. Thể loại văn học và vấn đề tiếp nhận văn học
1.2.1. Vấn đề thể loại
1.2.1.1. Khái niệm thể loại
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: “Thể loại là dạng thức tồn tại của
tác phẩm văn học được hình thành và tồn tại tương đối ổn định trong quá
12

trình lịch sử của văn học thể hiện sự giống nhau về cách thức tổ chức tác
phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng được miêu tả về tính chất của mối
quan hệ nhà văn với các hiện tượng đời sống” [3; 299]
- Từ xa xưa Aritxtot đã chia văn chương ra làm 3 loại: Tự sự, trữ tình,
kịch tương ứng với 3 phương thức phản ánh đặc trưng. Nếu hình tượng thiên
nhiên về mặt thể hiện tư tưởng, tình cảm của tác giả ta có tác phẩm trữ tình.
Nếu hình tượng thiên về mặt phản ánh con người, sự việc trong cuộc sống ta
có tác phẩm tự sự. Tác phẩm tập trung sự cô đọng đến mức bản thân nhân vật,
sự việc, câu chuyện có thể bộc lộ mình một cách độc lập trên trang sách
hoặc trên sân khấu không cần lời dẫn chuyện của tác giả như thế ta có
tác phẩm kịch.
- Từ 3 loại trên ta có thể chia nhỏ như sau:

Tự sự: Tự sự dân gian (thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ
ngôn, truyện cười); Tự sự trung đại (truyện và kí); Tự sự hiện đại.
Trữ tình: Trữ tình dân gian (ca dao, câu đố); Trữ tình trung đại và hiện đại
(theo cổ thể truyền thống và thơ tự do).
Kịch: Kịch dân gian (chèo, múa rối); Kịch trung đại (tuồng); Kịch hiện đại (bi
kịch, hài kịch).
1.2.1.2. Thể loại tự sự
Theo “Từ điển tiếng Việt”: “Tự sự là thể loại văn học phản ánh hiện
thực bằng cách kể lại sự việc, miêu tả tính cách thông qua cốt truyện tương
đối hoàn chỉnh” [5; 385]
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: “Tự sự là phương thức tái hiện đời
sống bên cạnh hai phương diện trữ tình và kịch, được dùng làm cơ sở để phân
loại tác phẩm văn học” [3; 385]
Theo SGK “Ngữ văn 10” (tập 1): “Tự sự (kể chuyện) là phương thức
trình bày một chuỗi các sự việc, sự việc này dẫn đến sự việc kia, cuối cùng
dẫn đến một kết luận, thể hiện một ý nghĩa” [14; 61]
13

Như vậy tự sự là loại tác phẩm văn học tái hiện trực tiếp hiện thực
khách quan như một cái gì tách biệt ở bên ngoài đối với tác giả thành một câu
chuyện có sự diễn biến của sự việc, của hoàn cảnh, có sự phát triển của tâm
trạng, tính cách hành động của con người.
1.2.2. Mối quan hệ giữa thể loại văn học và tiếp nhận văn học
Trước hết việc phân chia thể loại tác phẩm văn học thành loại thể
không phải chỉ do nhu cầu tư duy. Con người ta bao giờ cũng muốn phân chia
sự vật thành thể loại cho dễ nhận thức, mà trước tiên do nhu cầu tất yếu của
việc cảm thụ và lĩnh hội tác phẩm văn học và từ đó hình thành mục đích của
việc phê bình nghiên cứu giảng dạy các tác phẩm văn học. Việc phân chia văn
học ra thành loại thể, như trên đã nói là kết quả của sự trừu tượng hóa, khái
quát hóa thực tế các tác phẩm sinh động, ngược lại kết quả đó lại giúp sự phân

tích, nhận thức và cảm thụ từng tác phẩm cụ thể, riêng lẻ. Đó là ý nghĩa thực
tiễn chủ yếu nhất của việc phân chia thể loại văn học. Khi chúng ta hiểu được
thế nào là thể loại tự sự, loại trữ tình, loại kịch, thế nào là thể truyện, thể kí,
thể thơ… sẽ giúp chúng ta tìm hiểu và cảm thụ tác phẩm cụ thể được sâu sắc
hơn, tinh tế hơn và do đó phân tích giảng dạy có kết quả hơn.
Thể loại (mà chủ yếu là loại) là phương thức nhà văn sử dụng để xây
dựng, sáng tạo hình tượng, mà hình tượng lại chứa đựng thông tin thẩm mĩ
người đọc cần chiếm lĩnh, giúp cho việc tiếp nhận dễ dàng và bền vững, có hệ
thống. Vì thế, mọi sự phân chia thể loại đều nên xuất phát từ đó, tức là từ sự
cấu tạo bên trong của tác phẩm văn học và hình tượng văn học.
1.3. Vấn đề đọc - hiểu
1.3.1. Khái niệm đọc hiểu
Theo “Từ điển tiếng Việt”: “Đọc là tiếp nhận nội dung của một tập hợp
kí hiệu” [5; 431]
Đọc là khâu đầu tiên, là tiền đề trong việc tiếp nhận tác phẩm văn học.
14

Đọc không chỉ để lĩnh hội thông tin mà làm giàu hiểu biết, làm phong phú tâm
hồn và góp phần hoàn thiện nhân cách con người. Đọc là một hoạt động đặc
trưng của con người, một hoạt động mang tính văn hóa nhằm thỏa mãn một nhu
cầu của đời sống. Đồng thời nó cũng phản ánh những năng lực, tầm văn hóa của
người tiếp nhận. Đọc gắn liền với hiểu vì mục đích cuối cùng của đọc là hiểu.
Theo “Từ điển tiếng Việt”: “Hiểu là nhận ra ý nghĩa, bản chất, lí lẽ của
cái gì bằng sự vận dụng trí tuệ”[5; 567].
Như vậy đọc và hiểu là hai phạm trù khác nhau nhưng chúng luôn có
mối quan hệ gắn bó chặt chẽ.
Vậy đọc hiểu là gì?
Theo GS.Nguyễn Thanh Hùng: “Đọc - hiểu là một hoạt động của con
người. Nó không chỉ là hình thức nhận biết nội dung tư tưởng từ văn bản mà
còn là một hoạt động tâm lí giàu cảm xúc và có tính trực giác. Đọc - hiểu

mang tính chất đối diện một mình, đối diện với văn bản. Nó có cái hay là ở
tập trung tích đọng và lắng kết năng lực cá nhân. Đây là hoạt động thu nạp,
tỏa sáng âm thầm với sức mạnh nội hóa kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lịch
sử, kinh nghiệm nghệ thuật và kinh nghiệm văn hóa trong cấu trúc tinh thần
cá thể” [4 ; 22].
Hiểu một cách ngắn gọn thì đọc hiểu là một quá trình mà người đọc
bằng hoạt động thực hiện mục đích của việc đọc.
Trong dạy học Ngữ văn hiện nay, đọc - hiểu được coi là một phương
pháp dạy học đặc thù. Tuy nhiên để hoạt động này diễn ra đúng ý nghĩa trong
quá trình dạy học, giáo viên phải tổ chức cho học sinh khám phá được nội
dung tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm để có thể vận dụng vào việc phân tích
tác phẩm và tự rút ra cho mình những bài học kinh nghiệm quý báu.
1.3.2. Chức năng của đọc - hiểu
Trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, con người có
15

rất nhiều cách để tiếp cận tác phẩm văn học. Trong đó đọc - hiểu là con đường
hữu hiệu giúp bạn đọc chiếm lĩnh tác phẩm bởi văn chương là loại hình nghệ
thuật ngôn từ nên chỉ đọc mới có thể giúp bạn đọc chiếm lĩnh những giá trị và
ý nghĩa của tác phẩm. Ở đó, người đọc sẽ tìm thấy những vấn đề cuộc sống
mà tác phẩm đề cập đến, có thể là những kiểu người, những cái nhìn, những
cách đánh giá, giải thích vấn đề được đặt ra trong tác phẩm. Nó giúp người
đọc có thể mở rộng tầm hiểu biết, nâng cao vốn tri thức.
Người đọc bằng những hiểu biết của mình sẽ chuyển hóa các kí hiệu
ngôn ngữ trong văn bản thành những thông tin thẩm mĩ. Tùy theo các cấp độ
đọc khác nhau mà mỗi người thu về cho mình những lượng thông tin không
giống nhau. Thông qua việc đọc - hiểu tác phẩm văn chương, người đọc sẽ tự
rút ra cho bản thân những kinh nghiệm quý báu về cuộc đời, về con người.
Đọc - hiểu giúp cho quá trình khám phá nội dung tư tưởng nghệ thuật
của tác phẩm trở nên dễ dàng. Từ đó, có thể vận dụng phương pháp dạy học

đọc - hiểu vào việc đọc và tạo lập văn bản tương đương.
Đọc - hiểu không chỉ là hoạt động thông thường mà đã trở thành
hoạt động văn hóa thể hiện tầm đón nhận của mỗi bạn đọc. Đọc - hiểu
trở thành hoạt động văn hóa thể hiện tầm đón nhận của mỗi bạn đọc.
Đọc - hiểu trở thành một phương pháp, một con đường đặc trưng để tiếp
nhận tác phẩm văn học.
Đọc - hiểu còn là một phương tiện để hình thành và phát triển tính tích
cực, chủ động, sáng tạo, đồng thời phát triển năng lực văn học cho người đọc.
Đọc - hiểu là công việc đòi hỏi tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học
sinh, nghĩa là đứng trước một tác phẩm văn học, bạn đọc phải đưa ra được sự
lựa chọn của mình để tìm hiểu được những giá trị của tác phẩm đồng thời lí
giải được vì sao lại có sự lựa chọn đó. Như vậy, đọc - hiểu đòi hỏi người đọc
phải huy động tất cả những hiểu biết và tình cảm của mình để có thể cảm
16

nhận được tác phẩm. Không chỉ thế, đọc - hiểu còn hình thành cho học sinh
năng lực tiếp nhận văn học và năng lực sáng tạo văn học để khi đứng trước
bất kì một tác phẩm văn học nào, học sinh cũng có thể tiếp nhận nó theo đặc
trưng thể loại và có thể tự biểu hiện, bộc lộ năng lực sáng tạo.
Đọc - hiểu là một hoạt động dạy học có tính chất phổ quát. Nó nằm
trong mục tiêu giáo dục, đào tạo nói chung, nghĩa là nó được xem như một
phương tiện giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ cho người đọc, người học.
Học sinh trong quá trình đọc sẽ nhận thức đầy đủ hơn, cảm thụ giàu cảm xúc
hơn về nội dung tác phẩm. Giáo dục là để hình thành và hoàn thiện nhân cách
cho người học. Mỗi môn học, mỗi hoạt động giáo dục trong nhà trường đều
có nhiệm vụ góp phần hình thành và phát triển nhân cách cho học sinh. Môn
Ngữ văn có một lợi thế riêng là có một khối lượng lớn các văn bản Ngữ văn là
văn bản nghệ thuật, do đó qua giờ học đọc - hiểu các văn bản nghệ thuật này
sẽ giúp cho bạn đọc tích lũy cho mình cách nhìn người, nhìn đời và nhìn lại
bản thân mình. Qua đó tác động vào tình cảm, từ tình cảm tác động làm thay

đổi về mặt ý thức, tác động toàn diện đến nhân cách học sinh.
Dạy học đọc - hiểu văn bản Ngữ văn thực chất là hoạt động giáo
dục -lĩnh hội tri thức và rèn luyện kĩ năng thông qua việc đọc các văn bản.


17

Chương 2. HƯỚNG DẪN HỌC SINH DỌC - HIỂU VĂN BẢN
“VỢ NHẶT ” (KIM LÂN) THEO DẶC TRƯNG THỂ LOẠI

2.1. Kim Lân và vị trí của Kim Lân trong đời sống văn học và trong nhà
trường THPT
2.1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn Kim Lân
Nhà văn Kim Lân - một cây bút viết truyện ngắn danh tiếng của văn
học Việt Nam hiện đại. Tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày 1
tháng 8 năm 1920 tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh.
Xuất thân từ một gia đình có hoàn cảnh khó khăn, Kim Lân chỉ học hết bậc
tiểu học rồi làm nhiều nghề kiếm sống trong đó có viết văn. Trước Cách mạng
tháng Tám, Kim Lân đã phải sống nhiều năm lăn lóc trong cảnh đói nghèo.
Năm 1944, Kim Lân tham gia vào Hội văn hóa cứu quốc, sau đó liên
tục tham gia hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ kháng chiến.
Từ sau năm 1960, hầu như Kim Lân gác bút trên văn đàn.Ở độ tuổi 40
với nghệ thuật viết truyện bậc thầy, cái sự gác bút của ông được coi là chuyện
lạ với mọi người. Thay vào việc viết văn, ông làm công việc biên tập sách và
đào tạo thế hệ nhà văn trẻ.
Ông mất ngày 20 tháng 7 năm 2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội.
Là một trong những cây bút xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam trước và sau Cách mạng, Kim Lân hướng ngòi bút của mình về nông
thôn và những người nông dân. Ông có những trang viết đặc sắc về làng quê
và đời sống làng quê. Kim Lân là nhà văn của những số phận thiệt thòi, của

những số phận cùng khổ của làng quê Việt Nam giữa thế kỉ XX. Đặc biệt
cảnh sắc và con người trong văn của Kim Lân thấm đậm hồn cốt của vùng
quê Kinh Bắc. Chính vì vậy, cùng viết về đề tài nông thôn nhưng Kim Lân
không hề giống với Nam Cao. Hai vùng quê khác nhau đã tạo nên hai nhà văn
kiệt xuất của văn học Việt Nam hiện đại.
18

Số lượng tác phẩm của Kim Lân không nhiều. Đó là những tác phẩm :
Nên vợ nên chồng (1955), Con chó xấu xí (1962), Hiệp sĩ gỗ, Ông Cả Ngũ
(1998), Có thể nói sự nghiệp văn học của Kim Lân không đồ sộ nhưng lại
rất đặc sắc và khó trộn lẫn. Một số truyện ngắn của ông được xếp vào hàng
“kinh điển ” trong văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX. Nhiều nhà nghiên cứu đã
nhận xét: Chỉ với ba truyện ngắn : “Vợ nhặt”, “Làng”, “Con chó xấu xí”, Kim
Lân đã có thể đàng hoàng ngồi vào chiếu trên trong làng văn học Việt
Nam. Năm 2001, Kim Lân được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật.
2.1.2. Vị trí của Kim Lân trong đời sống văn học và trong nhà trường.
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Kim Lân chính là minh chứng
sinh động cho quy luật muôn thuở của văn học “ quý hồ tinh, bất quý hồ đa ”.
Sự thành công của một nhà văn không hẳn đo bằng số lượng tác phẩm viết
được, in được mà quan trọng hơn là chất lượng nghệ thuật ở sự kết tinh tài
năng. Hơn 10 năm cầm bút, Kim Lân chỉ sáng tác vẻn vẹn hơn 30 tác phẩm
thế nhưng ông vẫn được xem là cây bút văn xuôi có tầm vóc. Nhiều tác phẩm
của ông đã vượt qua được nhiều thử thách của thời gian, sự sàng lọc của công
chúng góp phần làm nên thành công rực rỡ cho nền văn xuôi hiện đại Việt
Nam. Bằng thực tiễn sáng tác Kim Lân đã đóng góp một tiếng nói riêng,
phong cách riêng trên văn đàn dân tộc.
Trong nhà trường phổ thông, một số tác phẩm của Kim Lân đã được
lựa chọn và đưa vào giảng dạy.
Ở bậc THCS, các em đã được làm quen với nhà văn Kim Lân thông

qua truyện ngắn “ Làng ” (chương trình Ngữ văn lớp 9). Hiện lên trong tác
phẩm là nhân vật ông Hai - một người nông dân hiền lành chất phác với tình
yêu làng quê và lòng yêu nước, tinh thần kháng chiến.
Lên bậc THPT, chương trình Ngữ văn tiếp tục giới thiệu thêm một
sáng tác đặc sắc của Kim Lân là truyện ngắn “Vợ nhặt ” (SGK Ngữ văn 12,

×