1
MỞ ĐẦU
Trong xã hội ngày nay, khi mà sự phát triển của một nền kinh tế thì
phải là nền kinh tế tri thức với nguồn nhân lực chất lượng cao được đảm bảo
bởi yếu tố giáo dục và đào tạo. Trong khi đó, thực trạng hiện nay cho thấy,
chất lượng giáo dục đang là bài toán nan giải đầy thách thức không những đối
với ngành giáo dục mà còn đối với toàn xã hội, bài toán về giáo dục cũng
được Quốc hội nhiều lần bàn bạc và đưa ra nhiều giải pháp thiết thực. Chính
vì xác định được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục nên Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã có Chỉ thị số 40/CT-TW về xây dựng, nâng cao chất
lượng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý ở các cấp, bậc học trong hệ thống giáo
dục và đào tạo.
Hoạt động dạy và học ở trường tiểu học là hoạt động chính, bởi vì nó
chiếm hầu hết thời gian và khối lượng công việc của thầy và trò trong một
năm học. Nó chi phối các hoạt động giáo dục khác. Đồng thời cũng quyết
định kết quả đào tạo của nhà trường, được quy định bởi tính đặc thù lao động
sư phạm của người giáo viên. Vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy học cho
đội ngũ giáo viên là một việc làm thường xuyên và không thể thiếu đối với
nhà quản lý.
Muốn như vậy, thì cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, một
đội ngũ vừa hồng vừa chuyên, về chất lượng phải đạt chuẩn và càng có tay
nghề cao phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Đó cũng là tinh thần tại
Đại hội X của Đảng Cộng sản Việt Nam khi nhận định về giáo dục Việt Nam
và đã đưa bài học thành công đó “Ưu tiên đầu tư phát triển con người, tăng
cường diện rộng, bảo đảm công bằng, tự do hóa từng bước, đa dạng hóa thị
trường”. Đối với nhà trường là nơi trực tiếp quản lý và sử dụng đội ngũ giáo
viên, thì công tác đào tạo, bồi dưỡng phải có nhận thức sâu sắc và có kế hoạch
dài hạn và ngắn hạn, lựa chọn hình thức phù hợp để công tác này đạt hiệu quả
cao.
Người cán bộ quản lý phải nhận thức đúng đắn vị trí quan trọng và tính
đặc thù của hoạt động dạy và học. Thường xuyên kiểm tra để đưa ra những
giải pháp tối ưu nhất, sáng tạo nhất nhằm nâng cao chất lượng dạy học cho
2
đội ngũ giáo viên. Người cán bộ quản lý phải dành nhiều thời gian và công
sức của mình cho công tác quản lý, kiểm tra hoạt động dạy và học có như vậy
chất lượng chuyên môn của nhà trường mới được nâng cao, đáp ứng với yêu
cầu ngày càng cao của xã hội.
Trong tình hình thực tế hiện nay, hoạt động dạy và học ở nhà trường bị
ảnh hưởng nhiều tác động như cơ sở vật chất còn thiếu thốn, sự phát triển
kinh tế - xã hội, nhận thức của một số bộ phận chưa thông suốt về giáo dục
thường khoán trắng cho nhà trường…. Vì thế đòi hỏi người cán bộ quản lý
phải vững vàng, phải theo dõi kiểm tra và đề ra những biện pháp chuyên môn
phù hợp với điều kiện của đơn vị nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
Xoay quanh việc nâng cao chất lượng dạy học ở trường tiểu học, Sở
Giáo dục và đào tạo An Giang đã có nhiều văn bản hướng dẫn và chỉ đạo
trong công tác nhằm nâng cao chất lượng dạy học cho đội ngũ giáo viên ở nhà
trường như công văn 1435/GDĐT-TH, ngày 19 tháng 09 năm 2006 về việc
hướng dẫn thực hiện chỉ thị 16 của UBND tỉnh An Giang, đặc biệt là kiểm tra
việc thực hiện hai không: “Không tiêu cực trong thi cử và không chạy theo
thành tích trong giáo dục”. Tuy nhiên qua thực tế không ít các trường tiểu học
hiện nay nhiều cán bộ quản lý vẫn còn lúng túng trong việc điều hành chỉ đạo
và kiểm tra chuyên môn hoặc có thực hiện nhưng lại thiếu kiểm tra các bộ
phận. Thậm chí Ban giám hiệu còn hạn chế việc kiểm tra dự giờ, thăm lớp, ít
tham gia sinh hoạt tổ chuyên môn để có sự chỉ đạo kịp thời những thiếu sót và
vướng mắc của giáo viên.
Bản thân mỗi người quản lý đều suy nghĩ: làm thế nào để đơn vị mình
trở thành một đơn vị tốt. Muốn thế trước hết phải có đội ngũ mạnh.
Với cương vị là một cán bộ quản lý, tôi hiểu được tầm quan trọng của
việc nâng cao chất lượng dạy học cho đội ngũ giáo viên, nên tôi đã không
ngần ngại chọn đề tài này với mong muốn qua nghiên cứu đề tài bằng khả
năng của mình sẽ giúp tôi học hỏi thêm kinh nghiệm để làm tốt hơn công tác
chỉ đạo chuyên môn trong nhà trường; bởi những lý do nên tôi chọn đề tài
“Nâng cao chất lượng dạy học cho đội ngũ giáo viên ở trường tiểu học A
Long Bình huyện An Phú hiện nay – Thực trạng và giải pháp” để làm tiểu
luận tốt nghiệp lớp TCLLCT-HC.
3
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC CHO ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Khái niệm giáo dục
Theo Tự điển Tiếng Việt được hiểu: “Giáo dục là lĩnh vực truyền bá,
cung cấp kiến thức đạo đức, khoa học, kỹ thuật nhằm phát triển trí tuệ, nâng
cao hiểu biết, hình thành nhân cách lối sống và kỹ năng lao động, thông qua
đó con người có thể vận dụng trí tuệ, kỹ năng hiểu biết vào thực tiễn”.
Giáo dục là sự tác động có hệ thống đến sự phát triển về thể chất và
tinh thần của con người, để họ có được những phẩm chất và năng lực như yêu
cầu đề ra, giáo dục là một thành tố của văn hoá.
Giáo dục còn là quá trình khơi gợi các tiềm năng sẵn có trong mỗi con
người, góp phần nâng cao năng lực và phẩm chất cá nhân của cả thầy và trò
theo hướng hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển của xã hội
loài người đương đại.
Do vậy, giáo dục chính là nhằm phát triển toàn diện phẩm chất nhân
cách con người, tạo cơ sở nền tảng cho con người tham gia vào cuộc sống xã
hội và lao động thực tiễn. Giáo dục - đào tạo là nhân tố quan trọng để phát
triển nguồn lực con người, tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao, có đạo đức,
có tri thức và kỹ năng lao động, mà tri thức liên quan mật thiết đến tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội, nó phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và quyết định sự phát triển bền vững.
1.1.2. Chất lượng dạy học
Theo tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO đã đưa ra định nghĩa chất
lượng được đông đảo các quốc gia chấp nhận: "Chất lượng là toàn bộ các đặc
tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn các nhu cầu đã
công bố hay còn tiềm ẩn".
Dạy là hoạt động của giáo viên, không chỉ là hoạt động truyền thụ cho
học sinh những nội dung đáp ứng được các mục tiêu đề ra, mà còn hơn nữa là
hoạt động giúp đỡ chỉ đạo và hướng dẫn học sinh trong quá trình lĩnh hội. Chỉ
4
khi nào nắm bắt được các điều kiện bên trong (hiểu biết, năng lực, hứng
thú…) của học sinh thì giáo viên mới đưa ra được những tác động sư phạm
phù hợp để hoạt động học đạt được kết quả mong muốn.
Học, theo nghĩa rộng nhất, được hiểu là quá trình cơ bản của sự phát
triển nhân cách trong hoạt động của con người, là sự lãnh hội những “sức
mạnh bản chất người” đã được đối tượng hóa trong các sản phẩm của hoạt
động con người. Đó là hoạt động phản ánh những mặt nhất định của hiện thực
khách quan vào ý thức người học. Tuy nhiên nó chủ yếu hướng người học vào
lĩnh hội những chân lý đã được loài người phát hiện nhưng chúng lại là mới
đối với họ.
Chất lượng dạy học là sự trùng khớp với mục tiêu đề ra cho hoạt động
dạy học và nó gắn với giá trị gia tăng về tri thức, kỹ năng, thái độ và người
học có được khi tham gia hoạt động dạy học và giá trị gia tăng đó phát huy
tác dụng trong cuộc sống.
1.1.3. Đội ngũ giáo viên
Khái niệm đội ngũ được sử dụng rộng rãi và dùng để chỉ các tổ chức
trong xã hội như: đội ngũ trí thức, đội ngũ giáo viên, đội ngũ thanh niên, đội
ngũ tình nguyện viên… Đó là sự gắn kết những cá thể với nhau, hoạt động
qua sự phân công, hợp tác lao động, là những người có chung mục đích, lợi
ích và ràng buộc với nhau bằng trách nhiệm pháp lý.
Đội ngũ giáo viên là tập hợp những người làm nghề dạy học – giáo dục,
được tổ chức thành một lực lượng, cùng chung một nhiệm vụ, có đầy đủ các
tiêu chuẩn của một nhà giáo, cùng thực hiện các nhiệm vụ và được hưởng các
quyền lợi theo Luật giáo dục và các luật khác được nhà nước quy định.
Khái niệm đội ngũ giáo viên là khái niệm chung cho những người làm
nghề dạy học – giáo dục, ta còn có khái niệm riêng cho từng bậc học, cấp học
như: đội ngũ giáo viên mầm non, đội ngũ giáo viên tiểu học, đội ngũ giáo
viên trung học cơ sở, đội ngũ giáo viên trung học phổ thông, đội ngũ giáo
viên dạy nghề, đội ngũ giáo viên trung học chuyên nghiệp…
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Theo Hồ Chí Minh, giáo dục có vai trò hết sức to lớn trong việc cải tạo
con người cũ, xây dựng con người mới. Người nói: "Thiện, ác vốn chẳng phải
5
là bản tính cố hữu, phần lớn đều do giáo dục mà nên". Không những thế, giáo
dục còn góp phần đắc lực vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước. Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung cơ bản của giáo dục là phải đào tạo ra những
con người xây dựng chủ nghĩa xã hội "vừa hồng vừa chuyên", đặc biệt chú
trọng phương châm giáo dục thiết thực, cụ thể. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhắc nhở những người làm công tác giáo dục phải "nhận thức đúng tầm quan
trọng của giáo dục, coi giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn dân". Coi trọng phương pháp giáo dục con người toàn diện.
Tư tưởng về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra phương hướng cơ
bản cho chiến lược con người, chiến lược phát triển giáo dục ở nước ta trong
suốt mấy chục năm qua và cả thời gian sắp tới.
Người kêu gọi: "Quốc dân Việt Nam ! Muốn giữ vững nền độc lập,
Muốn làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người Việt Nam phải có kiến thức
mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải
biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ".
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác giáo dục
1.3.1. Quan điểm của Đảng ta về công tác giáo dục
Đảng ta luôn đặt công tác giáo dục ở vị trí cao. Nghị quyết Trung ương
2 khoá XIII ( nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo) đã xác định phát
triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định
“Đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục đào tạo”. Thực hiện đồng bộ các
giải pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới
chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra
theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi
trọng giáo dục lý tưởng, giáo dục truyền thống lý tưởng cách mạng, đạo đức,
lối sống năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức
trách nhiệm xã hội. Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu
cầu về chất lượng, đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội, phối hợp chặt
chẻ với gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ. Tiếp tục phát triển và nâng cấp
6
cơ sở vật chất – kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Đầu tư hợp lý có
hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục đào tạo đạt trình độ quốc tế”.
1.3.2. Một số văn bản pháp lý về công tác giáo dục
Nhà trường chính là nơi trực tiếp thực hiện những chủ trương, quan
điểm của Đảng, Nhà nước về công tác nâng cao chất lượng giáo dục. Từng cơ
sở giáo dục phải tiến hành dạy và học đúng chỉ đạo, hướng dẫn của ngành để
hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho. Ngành giáo dục chính là đối
tượng phải trực tiếp thực thi những chủ trương, quan điểm của Đảng, nhà
nước về công tác nâng cao chất lượng giáo dục. Trong hướng dẫn thực hiện
nhiệm vụ giáo dục tiểu học năm học 2012 – 2013 của Phòng Giáo dục - Đào
tạo huyện An phú phần lớn quan tâm đến nâng cao chất lượng dạy và học,
đúng theo các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Bộ, ngành. Đó là:
Quyết định 09/2005/QĐ-TTg phê duyệt Đề án "Xây dựng, nâng cao
chất lượng đôi ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục giai đoạn 2005 -
2010" do Thủ tướng Chính phủ ban hành.
Căn cứ Thông tư số: 43/2006/TT-BGDĐT ngày 20 tháng 10 năm 2006
về việc Hướng dẫn thanh tra toàn diện nhà trường, cơ sở giáo dục khác và
thanh tra hoạt động sư phạm của nhà giáo.
Căn cứ Điều lệ trường tiểu học Ban hành kèm theo Quyết định số 51/
2007/ QĐ-BGDĐT ngày 31 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
Căn cứ văn bản số 42/2009/QH12, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật giáo dục số 38/2005/QH11.
Trong giải pháp thứ hai của Dự thảo chiến lược phát triển giáo dục Việt
Nam năm 2009-2020 của Bộ giáo dục và đào tạo có nêu: "Tổ chức các
chương trình đào tạo đa dạng nhằm nâng cao chuẩn trình độ đào tạo cho đội
ngũ nhà giáo. Đến năm 2020 có 80% số giáo viên mầm non và 100% số giáo
viên tiểu học đạt trình độ từ cao đẳng trở lên; 100% số giáo viên trung học
phổ thông và trung học cơ sở đạt trình độ đại học trở lên;…”.
Chỉ thị số 19/2005/CT-UBND, ngày 21/7/2005 của Ủy ban nhân dân
tỉnh tỉnh: “Về việc hạn chế các quy định, hoạt động mang tính hình thức,
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong ngành giáo dục - đào tạo”.
7
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 02/NQ.TU ngày 01/8/2006 của BCH
Đảng bộ tỉnh An Giang về phát triển giáo dục đào tạo giai đoạn 2006-2010.
Sở Giáo dục - Đào tạo tỉnh An Giang tiếp tục triển khai thực hiện kế
hoạch số 04/2005/KH-UB, ngày 23/02/2005 của Ủy ban nhân dân tỉnh về
“Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý ngành
giáo dục theo tinh thần Chỉ thị 40- CT/TW Ban Bí thư Trung ương Đảng giai
đoạn 2005 - 2010”.
Công văn số 465/GDĐT-TH ngày 3/9/2008 của Sở GD&ĐT về nội
dung thi đua xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực cấp tiểu học.
1.4. Quản lý và kiểm tra trong trường tiểu học nhằm nâng cao chất
lượng dạy học cho đội ngũ giáo viên
Theo quy định của ngành giáo dục trong nhà trường phổ thông thì công
tác quản lý và kiểm tra là nhiệm vụ của người quản lý. Tất cả các hoạt động,
trong đó công tác quản lý hoạt động dạy và học là một hoạt động bao trùm tất
cả các hoạt động còn lại, vì nó quyết định sự đi lên của nhà trường. Do đó
người cán bộ quản lý trường tiểu học không thể xem nhẹ vấn đề này mà phải
đặt nó lên trọng tâm hàng đầu.
Quản lý hoạt động dạy và học ở nhà trường đạt kết quả hay không còn
phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và bản thân của người quản lý cùng với sự
nhận thức và nhiệt tình của từng thành viên trong đơn vị.
Quản lý hoạt động dạy học phải xuất phát từ đặc điểm lao động sư
phạm của giáo viên và đặc điểm tâm lí lứa tuổi học sinh. Nhân cách giáo viên
cũng ảnh hưởng rất lớn đến học sinh. Chỉ có thật tâm vì trò và thành thạo về
phương pháp thì lao động sư phạm của người giáo viên mới có hiệu quả.
Nhiệm vụ của người quản lý là tạo điều kiện cho giáo viên có trong tay công
cụ tốt để thực hiện hoạt động dạy học và giáo dục. Muốn nâng cao chất lượng,
trước tiên phải nâng cao trình độ tay nghề và năng lực của giáo viên vì đội
ngũ giáo viên có vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Đây là công việc không dễ đòi hỏi người quản lý phải có năng lực và bản lĩnh
đồng thời phải nhận thức đúng đắn về vấn đề này, kiểm tra là việc làm rất cần
thiết đối với người quản lý. Từ đó mới có biện pháp tác động tốt đến việc làm,
thúc đẩy được nhà trường tiến bộ, ngược lại nếu người cán bộ quản lý nhận
8
thức sai lầm về vai trò kiểm tra hoạt động dạy và học dẫn đến kết quả là nhà
trường không tiến bộ hay bị tụt hậu.
Người cán bộ quản lý phải nhận thức đúng vị trí quan trọng và tính đặc
thù của hoạt động dạy học để có những biện pháp quản lý khoa học, sáng tạo
nhằm nâng cao chất lượng dạy học cho đội ngũ giáo viên của nhà trường.
Công tác quản lý chất lượng dạy học cho đội ngũ giáo viên là nhiệm vụ
trọng tâm của người quản lý. Xuất phát từ vị trí, nhiệm vụ và yêu cầu của chất
lượng dạy học, người quản lý phải dành nhiều thời gian và công sức của mình
cho công tác quản lý, kiểm tra hoạt động dạy và học để chất lượng dạy học
ngày càng nâng cao đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội.
9
Chương 2
THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO
VIÊN TRƯỜNG TIỂU HỌC A LONG BÌNH HIỆN NAY
2.1. Đặc điểm tình hình chung về trường tiểu học A Long Bình
2.1.1. Đặc điểm tình hình của Trường
Trường tiểu học A Long Bình thuộc thị trấn Long Bình huyện An Phú,
có đường biên giới tiếp giáp Campuchia. Trước đây, Trường là trường tiểu
học A Khánh Bình. Trường được thành lập vào năm 1982 đến ngày 12/4/2005
Thủ tướng chính phủ ký Nghị định số 52/2005/NĐ-CP thành lập thị trấn Long
Bình từ 02 ấp của xã Khánh Bình và 01 ấp của xã Khánh An có diện tích 422
ha, số hộ là 1975 với 9845 nhân khẩu, trong đó có 217 hộ nghèo. Năm 2005,
Ủy ban nhân dân Huyện kí quyết định đổi tên trường tiểu học A Khánh Bình
thành trường tiểu học A Long Bình.
Trong suốt quá trình hình thành, nhà trường từng bước củng cố để
nâng cao hiệu quả giảng dạy nhằm hoàn thành nhiệm vụ mà Ngành và nhân
dân giao phó. Trường có 2 điểm trường: Điểm trường chính đóng tại khu dân
cư ấp Tân Khánh và điểm trường lẻ đóng tại ấp Tân Thạnh, hai điểm trường
cách nhau khoảng 1,5 km. Tất cả giáo viên đều qua trường lớp sư phạm, nhiệt
tình trong giảng dạy. Đa số học sinh ngoan, nổ lực trong học tập. Ngoài ra,
Trường còn được sự ủng hộ nhiệt tình của phụ huynh học sinh và sự quan tâm
của các Ngành, các cấp ở địa phương.
Do phần lớn dân địa phương sống bằng nghề nông và buôn bán nhỏ
không ổn định nên sự quan tâm, chăm sóc việc học hành của con em còn
nhiều hạn chế. Trường phải tiếp nhận học sinh từ Campuchia sang nên công
tác chủ nhiệm gặp nhiều khó khăn, nhất là việc học sinh bỏ học. Ngoài ra, học
sinh thường phải nghỉ học theo mùa hoặc theo gia đình chuyển đi nơi khác
nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng dạy học và duy trì sỉ số.
2.1.2. Tình hình đội ngũ cán bộ, giáo viên và phụ huynh học sinh
của Trường
Có thể nói, do nhận thức của một số cha mẹ học sinh còn thấp, chưa
thực sự quan tâm đến việc học tập của con em mình, chưa phối hợp với nhà
10
trường để dạy dỗ chúng mà thường khoán trắng cho nhà trường. Trình độ dân
trí của nhân dân trong địa bàn còn thấp nên họ chưa xem việc nâng cao trình
độ là quan trọng.
Ban Đại diện cha mẹ học sinh hoạt động tốt, thường xuyên phối hợp
với Nhà trường chăm lo cho các em học sinh nghèo, học sinh có hoàn cảnh
đặc biệt khó khăn, công tác xã hội hóa giáo dục được thực hiện rất tốt. Trong
Ban đại diện cha mẹ học sinh có rất nhiều người đóng góp cho Nhà trường
tiền của và công sức như: Góp công làm nhà xe, tráng nền trước cổng trường,
trồng cây sân trường, tặng tập vở, tiền
Đội ngũ cán bộ giáo viên, nhân viên của trường là 51 người ( Nữ 24),
trong đó: Ban giám hiệu: 3 (Nữ 1); Tổng phụ trách Đội: 1 (Nữ 0); Thư viện: 1
( Nữ 1); Quản lý thiết bị: 1 ( Nữ 1); Văn thư: 1 ( Nữ 0); Kế toán: 1 ( Nữ 0);
Nhân viên y tế: 1 ( Nữ 0); Bảo vệ: 3 (Nữ 1); Giáo viên dạy lớp: 32 ( Nữ 17);
Giáo viên chuyên: 7 ( Nữ 3).
Về trình độ chuyên môn: Đại học: 25 (Nữ 13); Cao đẳng: 20 (Nữ 10);
Trung học: 3 (Nữ 0); Lớp 9: 3 (Nữ 1).
Lực lượng đội ngũ cán bộ, giáo viên trường là như thế, tuy nhiên, trong
công tác lãnh đạo quản lý của Ban giám hiệu còn thiếu sự quan tâm đến việc
kiểm tra chất lượng dạy học của đơn vị, hạn chế kiểm tra hoạt động chuyên
môn, qui chế làm việc không rõ ràng, cụ thể. Các mối quan hệ phối hợp giữa
các cá nhân, các bộ phận, giữa lãnh đạo với các bộ phận, giáo viên chưa tích
cực, chưa chặt chẽ dẫn đến việc còn bị chồng chéo công việc, kém hiệu quả.
Chưa khuyến khích, động viên, cổ vũ những người tích cực và kiểm
điểm các cá nhân tiêu cực, nên để xảy ra hiện tượng “cá mè một lứa” trong
đội ngũ cán bộ, giáo viên. Chính vì thế mà đơn vị đã xảy ra các dấu hiệu cụ
thể là:
Một số thành viên lười làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật không cao, luôn
kích động lôi cuốn các thành viên tiêu cực khác để công việc được nhẹ nhàng.
Năng suất lao động và hiệu quả công việc kém. Thực hiện qui chế của Ngành
không nghiêm, tự do cá nhân xuất hiện bừa bãi làm cản trở công việc chung
của đơn vị. Bầu không khí sư phạm nặng nề thiếu sự kết dính.
11
Tay nghề giáo viên đạt ở mức trung bình do thiếu tinh thần cầu tiến.
Thái độ học tập và tính chuyên cần của học sinh bị sa sút. Tỷ lệ học sinh yếu
và bỏ học hàng năm rất cao do sự giảng dạy thiếu nhiệt tình của giáo viên và
sự quản lí lỏng lẽo của Ban giám hiệu.
2.2. Thực trạng chất lượng dạy học của đội ngũ giáo viên trường
tiểu học A Long Bình hiện nay
2.2.1. Thành tích đạt được trong những năm qua
Trong những năm gần đây công tác dạy và học đã có chiều hướng tích
cực một số kết quả đạt được như sau:
*** Năm học 2011-2012: Tay nghề giáo viên đã được nâng lên có 1
giáo viên dạy giỏi cấp tỉnh, 11 giáo viên dạy giỏi cấp huyện, 16 giáo viên dạy
giỏi cấp trường. Trường có 5 cá nhân đạt danh hiệu chiến sĩ thi đua cấp Cơ
Sở, 35 cá nhân đạt Lao động tiên tiến.
*** Năm học 2012-2013:
- Có 32 cá nhân đạt Lao động tiên tiến.
- Trường được công nhận 9 SKKN giải B,C cấp huyện, 6 SKKN cấp
huyện được bảo lưu và được 6 qui đổi từ các chuyên đề cấp huyện.
- Có 1 giáo viên đạt giải xuất sắc nhất toàn huyện về thi viết chữ đẹp, 2
giáo viên đạt giải khuyến khích thi viết chữ đẹp huyện.
- Hội thi làm đồ dùng dạy học đạt 1 giải C và 1 giải khuyến khích
huyện.
- Có 9 học sinh đạt giải viết chữ đẹp cấp huyện.
- Có 3 học sinh giỏi tỉnh, 5 học sinh giỏi huyện.
- Đơn vị trường được công nhận cơ quan trường học văn hóa nhiều
năm liền.
- Được Đảng ủy thị trấn Long Bình tặng giấy khen Chi bộ trong sạch
vững mạnh.
Các hoạt động dạy và học diễn ra đồng bộ, tinh thần phối hợp trong dạy
học diễn ra đoàn kết, thân thiện. Nhờ đó mà tỷ lệ học sinh yếu hàng năm giảm
rõ rệt. Cụ thể biểu hiện ở bảng kết quả học lực của học sinh qua các năm học
như sau:
12
Bảng kết quả học lực của học sinh
Năm học
Kết quả cuối năm
Giỏi %
Khá %
TB %
Yếu %
2009-2010
4,6
32,8
57,5
5,1
2010-2011
17,66
31,31
46,42
4,61
2011-2012
27,91
33,08
36,37
2,63
2012-2013
32,0
34,7
32,3
2,0
*Nguyên nhân đạt được những kết quả trên
- Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước đề ra.
- Sự quản lý, chỉ đạo chặt chẽ của người Cán bộ quản lý chuyên môn.
- Giáo viên ứng dụng tốt các phương pháp dạy học theo hướng tích
cực, lấy học sinh làm trung tâm.
- Không chạy đua theo bệnh thành tích. Tận tụy với học sinh, hết lòng
vì sự nghiệp giáo dục. Luôn gần gũi, giản dị trong cuộc sống.
- Xây dựng tốt khối đoàn kết nội bộ.
- Duy trì danh hiệu “Cơ quan văn hoá”, “Công đoàn vững mạnh - xuất
sắc”, “Chi bộ trong sạch - vững mạnh” nhiều năm liền.
- Chất lượng học tập ngày một nâng dần.
- Không có giáo viên và học sinh vi phạm đạo đức.
- Ban giám hiệu luôn coi trọng vai trò người giáo viên, tổ chức tối ưu
hoạt động cộng tác của dạy và học, thực hiện tốt các chức năng của dạy cũng
như của học. Thực hiện công tác kiểm tra chỉ đạo cả năm học, từng học kỳ,
từng tháng và hàng tuần, mọi bộ phận, mọi người đều được kiểm tra thông
qua đó để kịp thời chỉ đạo điều chỉnh.
- Ban giám hiệu luôn luôn gương mẫu trong việc tuân theo những qui
định của tập thể, không định kiến, bảo thủ. Định hướng cho các thành viên
trong đơn vị với tinh thần phục vụ tất cả vì học sinh thân yêu. Quan tâm đến
việc chăm lo cải thiện điều kiện vật chất và tinh thần cho giáo viên, không vụ
lợi, đặt nặng quyền lợi cá nhân mình trên quyền lợi tập thể. Đó là nguyên
nhân mà mọi người hết lòng, hết sức phục vụ cho nhiệm vụ của nhà trường.
13
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó
- Cuối năm vẫn còn học sinh yếu cần bồi dưỡng trong hè.
- Ban giám hiệu chưa phát huy hết vai trò của đoàn thể trong nhà
trường để làm đòn bẩy trong các phong trào.
- Một số phụ huynh học sinh còn trông chờ vào sự hỗ trợ của Đảng,
Nhà nước và ngành giáo dục nên chưa mạnh dạn ủng hộ, đầu tư và quan tâm
đúng mức cho việc học tập của con em mình.
- Cơ sở vật chất còn thiếu thốn rất nhiều và không đạt chuẩn quy định
nên chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn của Ngành.
- Nhận thức về tinh thần đoàn kết nội bộ có chuyển biến và từng bước
nâng lên. Tuy nhiên chưa thật sự thể hiện đúng mức.
- Do phải đối phó với thiên tai, lũ lụt hàng năm, địa bàn đi lại không
thuận tiện, đời sống kinh tế người dân gặp khó khăn.
- Do nhận thức chưa đúng đắn của một bộ phận người dân nên tình
trạng học sinh bỏ học cứ diễn ra.
- Do trình độ chuyên môn, trình độ học vấn của một số cán bộ đảng
viên chưa đồng đều.
- Một số thành phần cốt cán của trường chưa phải là đảng viên nên
trong hoạt động đôi lúc chưa đồng bộ.
2.2.3. Bài học kinh nghiệm
*** Đối với Ban giám hiệu
- Phải xây dựng được tập thể sư phạm thành một khối đoàn kết thống
nhất cao, kích thích đúng chỗ và phát huy được năng lực sở trường của từng
thành viên, tôn trọng sự phối hợp giữa các thành viên.
- Người cán bộ quản lý phải có uy tín cao, có trình độ nghiệp vụ vững
vàng, gương mẫu trong công tác và trong cuộc sống. Có lòng say mê nghề
nghiệp, có mục tiêu, có lí tưởng rõ ràng, tận tụy với công việc và luôn học tập
rèn luyện suốt đời. Phải linh hoạt, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu
trách nhiệm (trong khuôn khổ chỉ đạo của Ngành) nắm bắt được các diễn biến
tâm lí của các thành viên. Tạo mối quan hệ giữa Ban giám hiệu và các thành
viên trong đơn vị luôn được cởi mở.
14
- Thực hiện tốt tính dân chủ, công khai và phân phối các nguồn quỹ
công bằng, hợp lý. Đối xử công bằng, khách quan, công khai hoá mọi hoạt
động của đơn vị để mọi người cùng biết, cùng làm và cùng kiểm tra lẫn nhau.
- Người quản lý phải thường xuyên theo dõi, đánh giá các hoạt động
của nhà trường theo những mục tiêu đã đặt ra. Có như thế thì tập thể sư phạm
mới hết lòng, hết sức gắn bó với nhà trường tận tâm, tận lực để hoàn thành tốt
các nhiệm vụ được giao.
*** Đối với giáo viên
- Lòng yêu thương con người, trước hết là thể hiện lòng yêu thương học
sinh và đồng nghiệp, chính điều đó giúp cho mỗi lời giảng dạy của người thầy là
mỗi lời xuất phát từ đáy lòng. Từ đó, mới thấm sâu vào trí nhớ của học sinh.
- Người thầy cần phải có kiến thức vững vàng, sâu rộng về chuyên môn, về
xã hội và con người, các ngành khoa học khác để giúp học sinh dễ tiếp thu kiến
thức, như Bác Hồ đã từng dùng lời dạy của Khổng Tử nhắc nhở chúng ta “ Học
không biết chán, dạy không biết mỏi ”.
- Phương pháp sư phạm là vấn đề cần thiết và quan trọng đối với giáo viên
đứng lớp, bởi nếu người thầy có phương pháp sư phạm không tốt thì hiệu quả
giảng dạy sẽ kém đi nhiều, ngược lại, nếu người giáo viên có phương pháp sư
phạm tốt sẽ khơi dậy ở học sinh sự say mê học tập, sự khác khao cải thiện hứng
thú khám phá cái đẹp, cái mới như lời Bác Hồ thường căn dặn: “Các thầy, các cô
phải tìm cách dạy, dạy cái gì, dạy thế nào để trò hiểu chóng, nhớ lâu, tiến bộ
nhanh. Thầy dạy tốt, trò học tốt là nhiệm vụ vẻ vang của thầy cô giáo”.
- Với truyền thống cần cù, thông minh hiếu học của dân tộc ta và bằng sự
quyết tâm nổ lực phấn đấu không ngừng học tập của mỗi thầy cô giáo nhằm đáp
ứng phát triển chiến lược giáo dục – đào tạo trong giai đoạn hiện nay.
- Người đang trực tiếp làm công tác giáo dục, hơn ai hết phải tự quyết
tâm hoàn thành nhiệm vụ cao cả được Đảng, Nhà nước và xã hội giao cho, bởi
dù có nhiều chính sách, nhiều biện pháp tốt đến đâu cũng sẽ trở thành hình thức
nếu bản thân của mỗi thầy cô giáo không có ý thức tự vươn lên, làm tròn trách
nhiệm của mình.
15
Chương 3
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC
CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN TRƯỜNG TIỂU HỌC A LONG BÌNH
HUYỆN AN PHÚ HIỆN NAY
3.1. Mục tiêu
3.1.1. Mục tiêu chung
Thực hiện nhiệm vụ chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước là vấn đề cấp bách đặt ra cho
ngành giáo dục. Cần phải xây dựng hoàn chỉnh và phát triển bậc học tiểu học
bởi đây là nền tảng vững chắc cho các bậc học tiếp theo. Nâng cao chất lượng
giáo viên ngang tầm, để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra. Đảm
bảo triển khai tốt nhiệm vụ của từng năm học ở tất cả các điểm trường thông
qua thực hiện chức năng: lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Tạo điều
kiện nâng cao trình độ, hiểu biết của giáo viên về giáo dục nói chung; Hỗ trợ
tăng cường kiến thức chuyên môn, nâng cao tay nghề.
Mục tiêu của giáo dục tiểu học là giúp các em phát triển về thể chất,
tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách,
hình thành và phát triển ở các em những chức năng tâm sinh lý, năng lực và
phẩm chất mang tính nền tảng, những kỹ năng sống cần thiết phù hợp với lứa
tuổi, khơi dậy và phát triển tối đa những khả năng tiềm ẩn, đặt nền tảng cho
việc học ở các cấp học tiếp theo và cho việc học tập suốt đời.
Phấn đấu xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia trong năm 2013-2014.
Trên cơ sở đó Trường tiến hành đề ra mục tiêu chung như sau:
- Thực hiện tốt qui chế chuyên môn, nâng cao chất lượng giáo dục đạt
chuẩn kiến thức kỹ năng và phát triển chất lượng cao hơn chuẩn.
- Nâng cao năng lực quản lý và ứng dụng công nghệ thông tin trong
quản lý và giảng dạy,
- Thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục trong nhà trường, tuyên
truyền ý thức của nhân dân về giáo dục.
16
3.1.2. Mục tiêu cụ thể
- Tăng cường công tác kiểm tra hoạt động dạy và học để nâng cao chất
lượng chuyên môn trong từng khối lớp.
- Phát triển giáo viên dạy giỏi cấp trường đạt 50%, cấp huyện, tỉnh 30%
không có giáo viên yếu kém về chuyên môn.
- Kiểm tra việc giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học trong tiết dạy,
không đọc chép truyền thụ một chiều.
- Huy động học sinh đầu năm phải đạt 100%, không để cho học sinh
nghỉ học quá 01% và đảm bảo tỷ lệ hiệu quả đào tạo đạt 90%.
- Thực hiện nghiêm túc trong việc thi cử. Không để tình trạng học sinh
ngồi nhầm lớp, học sinh lên lớp non. Giúp học sinh được học và học được
nhằm để nâng cao chất lượng văn hoá. Không để cho giáo viên vi phạm đạo
đức của người thầy giáo.
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học cho đội ngũ giáo
viên trường tiểu học A Long Bình huyện An Phú hiện nay
3.2.1. Thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ
giáo viên
a. Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên thông qua dự giờ
Kế hoạch đầu năm Hiệu trưởng chỉ đạo: Phó hiệu trưởng và Tổ trưởng
xây dựng kế hoạch dự giờ cho từng giáo viên trong năm học. Tổ trưởng - Tổ
phó dự giờ giáo viên hàng tháng, mỗi giáo viên dự giờ chéo để học hỏi kinh
nghiệm, có thể dự giờ khác khối. Chỉ tiêu dự giờ của mỗi giáo viên là một chỉ
tiêu xét thi đua cuối năm. Trong các hoạt động dự giờ có đưa ra yêu cầu cụ
thể, trước khi dự giờ giáo viên phải nghiên cứu về bài dạy và khi dự giờ xong
phải có nhận xét góp ý cho tiết dạy và thực hiện sổ dự giờ đúng quy định.
Nhận xét rút kinh nghiện cho tiết dạy phải thật nghiêm túc, đảm bảo tính
chính xác, khoa học, có đổi mới phương pháp giảng dạy theo yêu cầu của
chương trình mới hay không, học sinh đã đạt được những kiến thức gì qua tiết
học. Và giáo viên được dự giờ học hỏi được những kinh nghiệm gì qua tiết
dạy khi có đồng nghiệp dự giờ và góp ý. Sau đó tổng kết, đánh giá xếp loại
tiết dạy và Ban giám hiệu sẽ kiểm tra sổ vào cuối tháng. Ban giám hiệu dự giờ
4 tiết/ tuần và có thể nhiều hơn nên tất cả giáo viên trong trường đều được
17
Ban giám hiệu nhận biết được chất lượng dạy học của giáo viên và từ đó có
thể uốn nắn, chỉnh sửa kịp thời những sai sót của từng giáo viên, giúp giáo
viên nâng cao tay nghề của mình hơn.
b. Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên thông qua thao
giảng, chuyên đề
Để đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao tay nghề trình độ
chuyên môn cho giáo viên. Ban giám hiệu luôn tạo điều kiện cho giáo viên
học Đại học Từ xa do Đại học Huế tổ chức. Ngoài ra, hàng năm đều lên kế
hoạch tổ chức thao giảng cấp trường vào mỗi tháng. Trong tiết thao giảng Ban
giám hiệu yêu cầu giáo viên dạy phải cố gắng đầu tư cho tiết dạy về nội dung,
hình thức, phương pháp và cả những phương tiện đồ dùng phục vụ tiết dạy
phải phong phú, đa dạng nhằm giúp cho tiết dạy đạt hiệu quả cao. Bên cạnh
đó, thì Hiệu phó còn xây dựng và mở các buổi chuyên đề về những tiết dạy
mà giáo viên còn vướng mắc hay gặp khó khăn trong quá trình truyền thụ
kiến thức cho học sinh hoặc chưa thống nhất cách dạy. Thông qua những buổi
thao giảng, chuyên đề này, tất cả giáo viên vừa tìm ra được biện pháp dạy tốt
nhất, vừa học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau thông qua đồng nghiệp. Ban giám
hiệu còn tạo điều kiện cho giáo viên tham gia các buổi chuyên đề do Phòng
Giáo dục tổ chức. Đây là việc làm thiết thực và vô cùng cần thiết giúp cho
giáo viên nâng cao tay nghề.
c. Bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên thông qua sinh hoạt tổ
chuyên môn
Đầu năm học Ban giám hiệu chỉ đạo một số nhiệm vụ của tổ chuyên
môn về việc bồi dưỡng giáo viên thông qua sinh hoạt tổ chuyên môn để từng
bước nâng cao chất lượng trong công tác giảng dạy. Tổ chuyên môn sinh hoạt
ít nhất hai lần/tháng vào ngày thứ bảy đối với Tổ 3,4,5 và chiều thứ năm đối
với Tổ 1,2. Phó hiệu trưởng - Tổ trưởng lập kế hoạch hoạt động của tổ vào
đầu năm học, có kế hoạch hoạt động của tổ hàng tháng và hàng tuần. Sinh
hoạt tổ chuyên môn phải nghiêm túc, phải có nội dung bàn về chuyên môn.
Phải có Sổ nghị quyết họp tổ chuyên môn, sau mỗi buổi họp thư ký thông qua
biên bản trước tổ, có chữ ký của thư ký và tổ trưởng. Sau đó, nộp sổ nghị
quyết cho Ban giám hiệu. Trong kế hoạch của tổ phải có kế hoạch sinh hoạt
18
chuyên đề về chuyên môn, mỗi chuyên đề phải cụ thể về nội dung, thời gian
thực hiện, phân công giáo viên phụ trách. Trong mỗi buổi sinh hoạt tổ, Tổ
trưởng phải rà soát lại việc thực hiện kế hoạch của từng giáo viên, kiểm điểm
lại công tác của tổ, thảo luận về chuyên môn như nội dung thực hiện chương
trình, đổi mới hình thức kiểm tra. Tổ trưởng ký duyệt giáo án của giáo viên
hàng tuần, giáo án phải được duyệt trước khi lên lớp. Phó hiệu trưởng duyệt
giáo án vào cuối tháng. Phó hiệu trưởng - Tổ trưởng tuyên dương kịp thời
thành tích nổi bật trong tuần, trong tháng qua để giáo viên càng hăng say phấn
đấu hơn, đồng thời động viên nhắc nhở nhẹ nhàng đối với những giáo viên
chưa đạt kết quả cao để họ phấn đấu hơn. Bên cạnh đó tổ phải vận động, động
viên giáo viên tham gia đăng ký viết sáng kiến kinh nghiệm, làm đồ dùng dạy
học dự thi, thi giáo viên viết chữ đẹp, thi giáo viên dạy giỏi Đây là tiêu
chuẩn để xét công nhận lao động tiên tiến và chiến sĩ thi đua cơ sở.
3.2.2. Xây dựng và kiểm tra kế hoạch chuyên môn
Kế hoạch chuyên môn là một bộ phận của kế hoạch năm học bao gồm
các mục tiêu có liên quan chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau bởi mục tiêu
chung và hệ thống các biện pháp được xây dựng trước một giai đoạn nhất
định nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục đã được xác định. Kế hoạch chuyên
môn là chương trình hành động của tập thể giáo viên được xây dựng trên cơ
sở những nhiệm vụ chung của nhà trường.
Quy trình xây dựng và kiểm tra kế hoạch chuyên môn gồm 5 bước:
Bước 1: Điều tra cơ bản, xác định tình hình chung đầu năm
Bước 2: Phân tích tình hình và vạch ra phương hướng phấn đấu cho
năm học tới
Bước 4: Thảo luận dự thảo kế hoạch
Bước 5: Hoàn chỉnh kế hoạch – Hiệu trưởng duyệt kế hoạch
Để tổ chức kiểm tra việc thực hiện kế hoạch dạy học cả năm của từng
bộ phận, Hiệu trưởng cần hướng dẫn và kiểm tra các bộ phận xây dựng
chương trình hoạt động hàng tháng theo bảng sau :
Thời
gian
Nội
dung
các
Yêu
cầu
cần
Người
phụ
trách
Chuẩn
bị các
điều
Thời
gian và
người
Nhận
xét
đánh
Ghi chú
( Sửa đổi
hoặc điều
19
hoạt
động
đạt
kiện
kiểm tra
giá
chỉnh )
3.2.3. Kiểm tra thời khóa biểu giảng dạy
Một trong những hình thức quan trọng nhất và có hiệu lực của việc lập
kế hoạch công tác dạy học là lập thời khóa biểu. Thời khoá biểu cố định của
nhà trường đảm bảo tổ chức hoạt động của học sinh trong suốt tuần lễ và
trong mỗi ngày học một cách nhịp nhàng, đúng đắn về mặt sư phạm. Chất
lượng của thời khoá biểu chi phối mạnh mẽ toàn bộ quá trình giảng dạy giáo
dục của nhà trường bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến nhịp độ hoạt động của
nhà trường. Hiệu trưởng cần kiểm tra việc xếp thời khoá biểu của phó hiệu
trưởng chuyên môn. Kiểm tra khi xếp thời khoá biểu, Phó hiệu trưởng phải
căn cứ vào các tài liệu sau đây: Kế hoạch chuyên môn của trường; Bảng phân
phối chương trình các môn học; Danh sách phân công giáo viên; Số lượng
phòng học, thiết bị dạy học. Phải sắp xếp giờ học phù hợp với đặc điểm lứa
tuổi học sinh, đặc biệt chú ý đến tính ổn định của thời khóa biểu, chính điều
này làm cho nhịp độ công tác trong nhà trường được đảm bảo, vì nếu thời
khoá biểu không ổn định sẽ gây rối loạn đến công việc của giáo viên và trong
học tập của học sinh.
Đối với trường có giáo viên chuyên các môn hát nhạc, mĩ thuật, thể
dục, ngoại ngữ, tin học thì phải sắp xếp thời khóa biểu chéo giờ để giáo viên
dạy các bài song song.
Cách sắp xếp thời khóa biểu thể hiện mối quan tâm đến quỹ thời gian
của giáo viên, tạo điều kiện cho họ làm việc hợp lý và có năng suất cao mà
không bị mệt mõi quá sức.
Công bố thời khóa biểu cho giáo viên, học sinh, các cán bộ có liên quan
và cha mẹ học sinh biết để thực hiện.
3.2.4. Thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện kế hoạch
a. Qui định nề nếp, chế độ, hồ sơ sổ sách, qui chế chuyên môn
Ban giám hiệu cần hiểu rõ vai trò của giờ lên lớp ở trường tiểu học. Giờ
học là yếu tố quan trọng cơ bản có tính chất quyết định kết quả đào tạo giáo
dục của nhà trường. Trước hết giờ học mang tính bắt buộc đối với mọi học
20
sinh, trên cơ sở chương trình do Bộ Giáo dục và đào tạo ban hành, giờ học
chiếm phần lớn thời gian của quá trình đào tạo.
Hoạt động dạy và học được thể hiện chủ yếu bằng hình thức dạy và học
trên lớp. Trong giờ dạy, mỗi công việc, mỗi thái độ biểu thị trước học sinh
của giáo viên đều là những chi tiết thể hiện phương pháp dạy học, thể hiện ở
sự hài hoà giữa công việc của thầy và trò; ở sự cân đối giữa các khâu công
việc của thầy (giảng kiến thức mới và luyện tập kỹ năng, truyền thụ và kiểm
tra); ở sự đúng lúc, đúng mức độ của thái độ động viên khuyến khích hoặc
chê trách học sinh.
Do tầm quan trọng của giờ lên lớp nên cả Ban giám hiệu và giáo viên
đều tập trung sự chú ý, mọi cố gắng của mình vào giờ lên lớp nhưng mỗi
người có vai trò riêng. Trực tiếp quyết định kết quả giờ lên lớp là người giáo
viên. Quản lý kiểm tra thế nào để các giờ lên lớp có kết quả tốt là việc làm
của Ban giám hiệu.
b. Ban giám hiệu quy định nề nếp chuyên môn ngay từ đầu năm học
Do tính chất gián tiếp của việc quản lý giờ lên lớp, Ban giám hiệu cần
xây dựng một hệ thống những nề nếp về giảng dạy trong đó có nề nếp giờ lên
lớp, đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện nề nếp đó của giáo viên
như thế nào. Đó là cơ sở để đảm bảo chất lượng dạy học. Kiểm tra nề nếp giờ
lên lớp có thể là :
- Kiểm tra chuẩn bị tốt trước khi lên lớp.
- Kiểm tra ra vào lớp đúng giờ.
- Kiểm tra thực hiện đúng chương trình giảng dạy.
- Kiểm tra thực hiện tốt việc kiểm tra học sinh, ghi điểm, ghi sổ đầu
bài.
Kiểm tra những quy định trên phải được giáo viên nắm vững, Ban giám
hiệu chỉ đạo các tổ trưởng chuyên môn theo dõi nhắc nhở việc thực hiện của
giáo viên thường xuyên.
3.2.5. Kiểm tra theo dõi ngày công của giáo viên
- Ban giám hiệu chỉ đạo kiểm tra tổ chuyên môn trong việc phối hợp
với công đoàn theo dõi tình hình nghỉ dạy của giáo viên. Chỉ đạo và kiểm tra
các tổ trưởng chuyên môn chịu trách nhiệm bố trí giáo viên dạy thay, dạy bù
21
trong tổ mình quản lý. Nếu có khó khăn báo cáo với Ban giám hiệu để bàn
bạc tìm cách giải quyết.
- Tổ chức công tác dự giờ và phân tích sư phạm giờ dạy của giáo viên:
- Ban giám hiệu xây dựng kế hoạch dự giờ, thăm lớp và phân tích giờ
dạy của giáo viên trên cơ sở tổng hợp kế hoạch dự giờ của tất cả các bộ phận.
Quản lý kiểm tra hoạt động dạy học thông qua việc dự giờ và phân tích sư
phạm giờ dạy để trên cơ sở đó đề ra những quyết định quản lý hợp lý nhằm
thúc đẩy mọi hoạt động của nhà trường đó là chức năng trung tâm của Ban
giám hiệu, đây cũng là đặc thù của công tác quản lý trường học.
Không thể quản lý một đối tượng nếu kiểm tra phát hiện việc vận dụng
những phương pháp và quy tắc trái với bản chất của nó. Trong thực tiễn nếu
việc phân tích bài dạy một cách khoa học, sẽ tác động tích cực đến cả giáo
viên và học sinh.
3.2.6. Kiểm tra công tác chuẩn bị dự giờ
Phó hiệu trưởng lập kế hoạch tổng thể về việc dự giờ và phân tích sư
phạm bài học. Trên cơ sở đó xếp lịch dự giờ và phân tích giờ dạy trong từng
tuần.
Mẫu thiết kế sau:
Thời
gian
GV dạy
Tổ
CM
Người
dự giờ
Tiết
Tên bài
dạy
Nhận xét
đánh giá
Ghi
chú
Thống nhất với tổ trưởng chuyên môn về trọng tâm dự giờ, giáo viên
được dự trong từng thời điểm.
Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng phân công nhau tham gia dự giờ giáo
viên theo những chuyên môn mà mình am hiểu, xây dựng lực lượng cốt cán
chuyên môn cùng tham gia dự giờ.
- Xác định mục đích giờ dạy.
- Nắm được mục đích và nội dung của bài giảng và những dự kiến thực
hiện bài giảng của giáo viên.
- Nghiên cứu nắm vững tình hình học tập của học sinh.
Phương pháp làm việc của thầy và hoạt động của trò: Thầy kiểm tra,
cho điểm đánh giá học sinh; Giảng bài mới; Rèn kỹ năng, củng cố kiến thức
22
cho học sinh; Phát huy tính tích cực tự giác của học sinh, động viên tham gia
vào quá trình dạy học (Chú ý đến mọi học sinh trong lớp giúp các em đều
nắm được bài); Sử dụng đồ dùng dạy học trên lớp có hiệu quả; Tổ chức nề
nếp tự học, công việc tự làm của học sinh trên lớp; Hệ thống câu hỏi và bài
tập rèn kỹ năng, đánh giá số lượng và chất lượng câu hỏi và bài tập; Yêu cầu
sư phạm và kĩ thuật trong tiết học, tổ chức công việc của thầy và trò trong giờ
học, kỷ luật trật tự, không khí học tập của học sinh trong lớp; Vấn đề vệ sinh
sức khoẻ; giờ giấc ra vào lớp, tư thế ngồi học của học sinh trong lớp; Đánh
giá chất lượng của tiết học và kết quả học tập của học sinh.
3.2.7. Công tác xây dựng đội ngũ giáo viên
Phân công giảng dạy cho giáo viên thực chất là công tác tổ chức và
công tác cán bộ, Ban giám hiệu cần thấu đáo chỗ mạnh, chỗ yếu, sở trường,
hoàn cảnh của từng giáo viên để sử dụng họ, tạo cho họ niềm tin trong nghề
nghiệp. Mỗi giáo viên sẽ cố gắng để khẳng định mình trong tập thể sư phạm.
Trong tình hình đội ngũ giáo viên hiện nay chất lượng về chuyên môn nghiệp
vụ không đồng đều (do nhiều nguồn đào tạo trước đây chưa đủ chuẩn SP 9+3;
12 + 2 …) với bản thân một giáo viên phải dạy tất cả các môn nhưng trình độ
còn hạn chế. Vì vậy, Ban giám hiệu phải cân nhắc kĩ càng khi phân công
giảng dạy cho giáo viên.
Phân công giảng dạy cho giáo viên là một việc quan trọng thu hút cả sự
chú ý của Ban giám hiệu và giáo viên. Phân công sử dụng đúng sẽ mang lại
kết quả to lớn, ngược lại sẽ phát sinh nhiều vấn đề phức tạp về tư tưởng tình
cảm và sẽ ảnh hưởng không tốt đến các mặt hoạt động của nhà trường.
Ở trường tiểu học hình thức phân công giảng dạy chủ yếu là theo khối
(chuyên dạy một khối), hình thức này có ưu điểm là giáo viên nắm vững
chương trình dạy học của khối mình dạy, nhưng nếu dạy lâu năm thì không
nắm vững chương trình toàn cấp sẽ ảnh hưởng đến tính toàn diện của chương
trình.
Mỗi hình thức đều có mặt mạnh, mặt yếu Hiệu trưởng nên xem xét cụ
thể lực lượng đội ngũ (số lượng và trình độ tay nghề) mà lựa chọn hình thức
nào, hoặc kết hợp nhiều hình thức phân công giảng dạy trong nhà trường, trên
cơ sở:
23
Năng lực và sở trường: Xét về năng lực, mỗi giáo viên trước hết phải
thể hiện năng lực của chính mình, nếu giáo viên nào không có năng lực giảng
dạy thì nên kiên quyết chuyển sang công việc khác. Năng lực đã đạt ở trình độ
cao, kỹ năng tinh thông, nếu giao đúng việc thì sẽ đạt kết quả tốt.
Thâm niên nghề nghiệp: Đối với nghề dạy học thâm niên có một ý
nghĩa đặc biệt. Thâm niên nghề nghiệp thông báo cho người quản lý biết vốn
liếng nghề nghiệp mà người giáo viên đã tích luỹ được. Tuy nhiên, điều đó
chỉ đúng với những người thực sự yêu nghề và tận tuỵ với nghề.
Hoàn cảnh gia đình và nguyện vọng cá nhân: Đây là nội dung cuối
cùng mà Ban giám hiệu cần lưu ý. Tuy chuẩn này không lấn át chuẩn trước,
nhưng cần xem xét từng trường hợp cụ thể để giải quyết hợp lý sao cho tình
nghĩa càng thêm ấm áp, từ đó bản thân người giáo viên được quan tâm sẽ cố
gắng nhiều hơn đối với công việc chung.
Bên cạnh việc phân công phụ trách các lớp cần kết hợp phân công các
mặt hoạt động khác để biết rõ khối lượng công việc của từng người.
Sau một tháng đầu tiên của năm học Ban giám hiệu cần kiểm tra và
xem xét lại để kịp thời điều chỉnh cho hợp lý hơn (đây chỉ là việc làm bất đắc
dĩ mà thôi). Hiệu trưởng ra quyết định về việc phân công và ghi vào sổ phân
công (sổ phân công giảng dạy là công cụ để Hiệu trưởng theo dõi việc sắp xếp
bố trí giáo viên trong nhiều năm. Từ đó, có thể biết sự phấn đấu trong chuyên
môn của từng người như thế nào để sử dụng tốt nhất năng lực của họ và tạo
điều kiện cho họ vươn lên).
3.2.8. Tổ chức kiểm tra việc thực hiện các mặt công tác chuyên môn
a. Công tác soạn giảng
Căn cứ vào kế hoạch của tổ chuyên môn, Ban giám hiệu chỉ đạo và
kiểm tra các tổ trưởng chuyên môn trong việc tổ chức cho giáo viên xây dựng
kế hoạch giảng dạy của cá nhân cụ thể kiểm tra nội dung như sau: Giáo viên
có căn cứ vào nhiệm vụ dạy học được phân công: Lớp dạy, môn dạy, phân
tích tình hình học tập của học sinh, yêu cầu của chương trình dạy học các môn
phải dạy, điều kiện của nhà trường hay không ( như sách hướng dẫn giảng
dạy, tài liệu tham khảo, đồ dùng dạy học…); Xác định chỉ tiêu phấn đấu của
bản thân; Thực hiện đúng phân phối chương trình dạy học của các môn; Chất
24
lượng học tập của học sinh; Thực hiện đầy đủ hồ sơ sổ sách; Công tác bồi
dưỡng chuyên môn nghiệp vụ: học tập cái gì? Cải tiến phương pháp dạy học
như thế nào? nâng cao tay nghề đến mức độ nào? Các biện pháp thực hiện để
đạt chỉ tiêu trên.
b. Chuẩn bị giờ lên lớp
Việc chuẩn bị giờ lên lớp quyết định đến tính chất giờ lên lớp và chất
lượng quá trình dạy học. Đó là việc quan trọng nhất trong qui trình lao động
sư phạm, nó là khâu lao động trí óc độc lập của giáo viên. Nếu người giáo
viên không có đầy đủ tinh thần trách nhiệm, không có chế độ làm việc trong
ngày rõ ràng, không chuẩn bị sớm cho các giờ lên lớp thì công việc sẽ hời hợt
và mang tính hình thức.
Ban giám hiệu quan tâm đến chất lượng giờ lên lớp bao nhiêu thì trước
tiên phải quan tâm đến việc kiểm tra chất lượng chuẩn bị giờ lên lớp của giáo
viên bấy nhiêu. Sự chuẩn bị của giáo viên càng chu đáo thì kết quả dạy học
càng ít sai sót. Quản lý kiểm tra việc chuẩn bị giờ lên lớp là một hoạt động
quản lý cần thiết để nâng cao hiệu quả của việc dạy và học. Do đặc điểm đặc
thù của lao động sư phạm nên công tác chuẩn bị giờ lên lớp do giáo viên thực
hiện ở nhà và gắn với thời gian rảnh rỗi của họ. Vì vậy đây là khâu khó kiểm
tra quản lý đối với Ban giám hiệu.
Cần kiểm tra và giúp đỡ giáo viên phải thường xuyên rèn luyện phong
cách làm việc có hệ thống trong khâu tự chuẩn bị cho các giờ lên lớp. Việc
chuẩn bị lên lớp của giáo viên bao gồm việc chuẩn bị dài hạn cho cả năm học
và việc chuẩn bị bộ phận cho từng tiết lên lớp cụ thể.
c. Kiểm tra sinh hoạt chuyên môn
Tổ chuyên môn là hình thức tổ chức nghề nghiệp đã có từ lâu trong nhà
trường, đây là đơn vị cơ sở trực tiếp nhất đối với các hoạt động của giáo viên.
Nó là một tổ chức trong nhà trường, tập hợp các giáo viên có cùng chuyên
môn giúp họ thành công theo mục tiêu thống nhất. Hoạt động của tổ chuyên
môn là tạo điều kiện cho giáo viên hoàn thành nhiệm vụ của mình trong quá
trình dạy học và giáo dục. Thông qua tổ chuyên môn, Ban giám hiệu sẽ nắm
được sâu sắc các hoạt động của giáo viên, phát huy cao độ sự thống nhất của
người cán bộ quản lý với các thành viên trong tập thể sư phạm. Vì vậy, tăng
25
cường chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của tổ chuyên môn là mối quan tâm thường
xuyên của Ban giám hiệu. Thường xuyên kiểm tra sổ nghị quyết của tổ
chuyên môn để nắm được nội dung cuộc họp. Từ đó có định hướng chỉ đạo
kịp thời và trả lời những đề nghị mà tổ đang vướng mắc.
3.2.9. Ban giám hiệu tổ chức theo dõi và kiểm tra các công tác khác
- Kiểm tra toàn bộ quá trình tuyển sinh và phân phối học sinh về các
lớp.
- Kiểm tra việc học tập nội quy đầu năm của học sinh, để tạo cho học
sinh thói quen học tập tốt ngay những ngày đầu bước chân vào nhà trường (có
thể phân công cho trực ban, đội cờ đỏ phối hợp theo dõi, kiểm tra).
- Tổng kết kết quả học tập của học sinh toàn trường hàng tháng.
- Thường xuyên theo dõi kiểm tra học sinh trên 2 mặt: chuyên cần và
điểm số hàng tháng bằng thống kê cụ thể ghi rõ tên học sinh vắng mặt nhiều
lần và điểm số kém (thông qua kiểm tra giáo viên chủ nhiệm lớp). Chú ý khi
dự giờ giáo viên, Hiệu trưởng hoặc Phó hiệu trưởng cũng cần kiểm tra trước
tình hình chuyên cần và điểm số ở lớp đó (điểm này rất ít Hiệu trưởng hoặc
Phó hiệu trưởng chú ý đến).
- Ban giám hiệu kiểm tra việc thực hiện chương trình qua các nội dung
sau: Dạy đủ các môn theo quy định; Dạy đúng theo phân phối chương trình;
Đảm bảo nội dung kiến thức truyền đạt đến học sinh; Phương pháp dạy học
phát huy tính tích cực chủ động của học sinh; Đảm bảo nhiều hình thức tổ
chức phong phú trong giờ dạy học. Hình thức kiểm tra: Kiểm tra biên bản
sinh hoạt tổ chuyên môn; Kiểm tra bài soạn và dự giờ; Kiểm tra tập vở học
sinh; Xem các bài làm kiểm tra của học sinh.
Tóm lại: Vai trò của Ban giám hiệu rất quan trọng. Năng lực của người
quản lý giữ một vị trí đặc biệt trong mọi hoạt động của nhà trường, hiệu quả
quản lý quyết định chất lượng dạy học. Việc nâng cao chất lượng cần đòi hỏi
bản thân người quản lý phải thể hiện vai trò “ đầu tàu ” của mình trong mọi
công tác, phải có phong cách làm việc nghiêm túc, năng nổ, bám trường, bám
lớp đầu tư tốt cho hoạt động chuyên môn, gương mẫu trong sinh hoạt, tranh
thủ được sự ủng hộ của các thành viên. Từ đó thấy được vai trò của tổ chuyên
môn và tổ trưởng chuyên môn trong việc nâng cao chất lượng dạy và học.