Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Phối hợp phương pháp dạy học trực quan với phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trọng dạy học nội dung môn toán lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.17 KB, 60 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lí do chon đề tài
Dòng chảy thông tin mạnh cùng cơn lốc khoa học kĩ thuật đã và đang từng ngày, từng giờ
làm thay đổi da thịt những thành viên trong đại gia đình nhân loại chúng ta. Kết quả của sự thay đổi
tăng tốc ấy đòi hỏi sự thích ứng, phát triển của nhân tố con người. Dĩ nhiên khẳng định vai trò của
giáo dục là rất quan trọng cho sự phát triển của tương lai nhân loài. Đặc biệt là giáo dục Tiểu học -
bậc học nền tảng - nơi nuôi dưỡng những mầm xanh cho đất nước, sẽ là những điểm đặt đầu tiên
trong những vi mạch của sự phát triển và kết nối với các bậc học tiếp theo nhằm đào tạo nguồn
nhân lực có nhân cách toàn diện, đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày càng lớn ấy.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội thì giáo dục thường xuyên đổi mới. Song song
với đổi mới nội dung dạy học và mục tiêu dạy học tiểu học thì việc đổi mới phương pháp dạy học
là rất cần thiết, mang tính chất thời đại, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, các nhà
quản lí giáo dục cũng như các giáo viên trực tiếp đứng lớp. Đổi mới phương pháp dạy học tức là
phải biết kết họp hài hòa, vận dụng linh hoạt các ưu điểm của phương pháp dạy học trong từng tình
huống cụ thể nhất là việc kết hợp phương pháp dạy, phương pháp học truyền thống và hiện đại.
Điển hình cho sự phối họp giữa phươg pháp dạy học truyền thống với phương pháp dạy học
hiện đại có thể kể tới hai phương pháp là dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề với dạy học trực
quan. Sự kết hcrp của hai phương pháp này đã đáp ứng được phần nhiều xu thế đổi mới phương
pháp dạy học hiện nay là tập trung vào người học, phát triển tư duy sáng tạo của học sinh, hình
thành ở các em năng lực tự phát hiện các vấn đề trong học tập cũng như trong cuộc sống nhằm
thích ứng với xã hội hiện đại.
Môn Toán là một trong hai môn học chính ở Tiểu học giúp học sinh có những kiến thức cơ
bản ban đầu về số học, hình thành các kĩ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng
dụng thiết thực trong đời sống. Đặc biệt nó góp phần phát triển năng lực tư duy, khả năng diễn đạt,
ứng xử, giải quyết các tình huống có vấn đề; góp phần hình thảnh bước đầu phương pháp tự học và
làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo.
Lớp 3 được xem là cẩu nối giữa giai đoạn thứ nhất và giai đọn thứ hai của Tiểu học, lứa tuổi
có đặc điểm tâm sinh lí đang phát triển, các em có thể tự phát hiện, chủ động tiếp thu kiến thức.
Trên cơ sở nghiên cứu đặc điểm, bản chất của các phương pháp dạy học và đặc điểm nội dung môn
Toán lớp 3 tôi nhận thấy việc kết họp phương pháp dạy học trực quan với dạy học phát hiện và giải
quyết vấn đề vào dạy học nội dung môn Toán nói chung và môn Toán ở lớp 3 là rất phù họp và đem


lại hiệu quả giáo dục cao. Xuất phát từ tất cả những lí do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu “Phổi hợp
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 1
phương pháp dạy học trực quan với phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vẩn đề trong dạy
học nội dung môn Toán lớp 3
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn vận dụng các phương pháp dạy học để xây dựng
một số giáo án thể hiện sự phối họrp các phương pháp dạy học trên khi dạy học nội dung môn Toán
lớp 3.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về dạy học tự phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy học trực quan
trong dạy học nội dung môn Toán lớp 3.
3.2. Xây dựng một số giáo án thể hiện sự phối họp phương pháp dạy học trực quan với
phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạy học nội dung môn Toán lớp 3.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận.
4.2. Phương pháp điều tra quan sát.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Sự phối họp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề với dạy học trực quan ở nội dung
môn Toán lớp 3.
- Phạm vi: Nội dung môn Toán lớp 3 ở Tiểu học.
6. Cấu trúc khóa luân
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khóa luận được chia thành các chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Xây dựng một số giáo án thể hiện sự phối họp dạy học
trực quan với dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạy học
nội dung môn Toán lớp 3.
NỘIDUNG Chương 1: Cơ sở lí luận
1.1. Dạy học trực quan và dạy học phát hiện giải quyết vấn đề
1.1.1. Dạy học trực quan

1.1.1.1. Khải niệm
Phương pháp dạy học trực quan trong dạy học toán ở tiểu học là phương pháp dạy học trong
đó giáo viên tổ chức, hướng dẫn cho học sinh trực tiếp hoạt động trên các phương tiện, đồ dùng dạy
học, từ đó giúp học sinh hình thành kiến thức và kĩ năng cần thiết của môn toán.
Ví dụ: Khi dạy bài “Bảng nhân 6” giáo viên đã tổ chức hướng dẫn cho học sinh thao tác trên
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 2
các tấm bìa để từ đó thành lập bảng nhân 6. Bước thứ nhất giáo viên sử dụng 1 tấm bìa có 6 chấm
tròn và hỏi học sinh lấy 1 lần như thế thì được mấy chấm tròn? Sau đó giáo viên lấy 2 tấm bìa, mỗi
tấm bìa có 6 chấm tròn và hỏi 6 chấm tròn được lấy mấy lần? Vừa làm giáo viên vừa tổ chức cho
học sinh thao tác trên các tấm bìa mà học sinh đã chuẩn bị ở nhà. Từ đó học sinh tìm cách lập bảng
nhân 6. Khi đó ta nói giáo viên đã sử dụng phương pháp dạy học trực quan để dạy các nội dung
toán học.
1.1.1.2. Phân nhóm các phương pháp dạy học trực quan
Phân nhóm này bao gồm phương pháp trinh bày trực quan và phương pháp quan sát.
1.1.1.2.1. Phương pháp trình bày trực quan
Là phương pháp sử dụng những phương tiện trực quan, phương tiện kỹ thuật dạy học trước,
trong và sau khi nắm tài liệu mới trong khi ôn tập, củng cố, hệ thống hoá và kiểm tra tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo.
Phương pháp trình bày trực quan thể hiện dưới hai hình thức minh hoạ và trình bày.
Minh hoạ thường trưng bày những đồ dùng trực quan có tính chất minh hoạ như bản mẫu,
biểu đồ, bức tranh, tranh chân dung, hình vẽ trên bảng
Trình bày thường gắn liền với việc trình bày những thí nghiệm, những thiết bị kỹ thuật, chiếu
phim đèn chiếu, phim điện ảnh, băng video.
Trình bày thí nghiệm là trinh bày mô hình đại diện cho hiện thực khách quan được lựa chọn
cẩn thận về mặt sư phạm. Nó là cơ sở, điểm xuất phát trong quá trình nhận thức - học tập của học
sinh, là cầu nối giữa lý thuyết và thực tiễn.
Thông qua sự trình bày bằng trực quan của giáo viên mà học sinh không chỉ lình hội dễ dàng
tri thức mà còn giúp họ học tập được những động tác mẫu mực của giáo viên, nhờ vậy, dễ dàng hình
thành kỹ năng, kĩ xảo cho học sinh.

1.1.1.2.2. Phương pháp quan sát
Quan sát là sự tri giác có chủ đích, có kế hoạch tạo khả năng theo dõi tiến trình và sự biến
đổi diễn ra trong đối tượng quan sát. Quan sát là hình thức cảm tính tích cực nhằm thu thập những
sự kiện ,hình thành những biểu tượng ban đầu về đối tượng của thế giới xung quanh. Quan sát gắn
chặt với tư duy.
Quan sát được học sinh sử dụng khi giáo viên trình bày phương tiện trực quan, phương tiện
dạy học.
Phân loại: Căn cứ vào cách thức quan sát có thể phân ra quan sát trực tiếp, quan sát gián tiếp.
- Căn cứ vào thời gian quan sát có thể phân ra quan sát ngắn hạn, quan sát dài hạn.
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 3
- Căn cứ vào phạm vi quan sát có thể phân ra quan sát toàn diện, quan sát khía cạnh.
- Căn cứ vào mức độ tổ chức quan sát có thể phân ra quan sát tự nhiên và quan sát có bố trí, sắp xếp.
1.1.1.3. ưu, nhược điểm của dạy học trực quan:
1.1.1.3.1. Ưu điểm
Có thể thấy ưu điểm lớn nhất của việc sử dụng các hình ảnh trực quan là nó tạo tâm thế tốt
cho học sinh trong giờ học. Qua thực tế giảng dạy trong đợt thực tâp sư phạm tôi thấy học sinh phần
lớn đều rất thích thú và hào hứng với phương pháp này. Nhất là khi những hình ảnh này được sử
dụng trong các giáo án điện tó với chương trình trinh chiếu Power point. Hiệu quả của giờ học tăng
lên rõ rệt, sự chú ý của học sinh vào bài giảng được nâng cao.
Với phương pháp dạy học trực quan sẽ giúp học sinh huy động sự tham gia của nhiều giác
quan kết họp với lời nói sẽ tạo điều kiện dễ hiểu, dễ nhớ và nhớ lâu, làm phát triển năng lực chú ý,
năng lực quan sát, óc tò mò khoa học của họ.
Mặt khác, hiện nay công nghệ thông tin đã khá phát triển và phổ biến. Vì vậy, giáo viên có
thể khai thác các hình ảnh trên mạng Internet. Đây là một nguồn khai thác thông tin rất hiệu quả và
sẽ giúp ích nhiều cho giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh tiếp thu kiến thức.
1.1.1.3.2. Nhược điểm
Phương pháp này có một hạn chế là giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian vào việc sưu tầm
và sắp xếp các hình ảnh một cách khoa học, phù hcrp với nội dung từng bài giảng. Trong những giờ
không sử dụng máy chiếu việc đưa hình ảnh trực quan thông qua hệ thống tranh ảnh cũng rất hiệu

quả nhưng phần lớn các hình ảnh thường có kích thước nhỏ, do đó học sinh sẽ khó theo dõi.
Nếu không ý thức rõ phương tiện trực quan chỉ là một phương tiện nhận thức mà lạm dụng
chúng thì dễ làm cho học sinh phân tán chú ý, thiếu tập trung vào những dấu hiệu bản chất, thậm
chí còn làm hạn chế sự phát triển năng lực tư duy trừu tượng của trẻ.
Tuy vậy phương pháp trực quan sinh động vẫn phát huy hiệu quả tốt, nhất là đối với bậc tiểu
học, nó góp phần phát huy tính tích cực nhận thức của học sinh. Vì vậy trong giảng dạy giáo viên
nên đầu tư nhiều hơn vào phương pháp dạy học này để tiến tới hình thành được một cơ sở lí luận
đầy đủ hom.
1.1.1.4. Vai trò, chức năng và phạm vỉ sử dụng của phương pháp dạy học trực quan trong dạy học
toán
1.1.1.4.1 .Vai trò và tác dụng của phương pháp dạy học trực quan
Do đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học (có tính trực giác, cụ thể) và do tính chất đặc
thù của các đối tượng Toán học (tính trừu tượng và khái quát cao) mà phương pháp trực quan có vai
trò quan trọng trong dạy học Toán ở Tiểu học.
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 4
Yới những hình ảnh trực quan (do các đồ dùng biểu diễn mang lại) và lời giảng của giáo
viên học sinh sẽ dễ dàng hơn trong việc tiếp cận và lĩnh hội kiến thức toán học trừu tượng. Bản chất
của phương pháp dạy học này là giáo viên đã tác động vào tư duy học sinh tiểu học theo đúng quy
luật nhận thức “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực
tiễn”.
Nhìn chung, trong quá trình dạy học, các phương tiện dạy học giảm nhẹ công việc của giáo
viên và giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách thuận lợi. Có được đồ dùng thích họp, người
giáo viên sẽ phát huy hết năng lực sáng tạo của mình trong công tác giảng dạy, làm cho hoạt động
nhận thức của học sinh trở nên nhẹ nhàng và hấp dẫn hom, tạo ra cho học sinh những tình cảm tốt
đẹp với môn học. Do đặc điểm của quá trình nhận thức, mức độ tiếp thu kiến thức mới của học sinh
tăng dần theo các cấp độ của tri giác: nghe
- thấy - làm được, nên khi đưa các phương tiện dạy học vào quá trình dạy học, giáo viên có điều kiện
để nâng cao tính tích cực, độc lập của học sinh và từ đó nâng cao hiệu quả của quá trình tiếp thu,
lĩnh hội kiến thức và hình thành kĩ năng, kĩ xảo của các em.

1.1.2.4.2. Phạm vi sử dụng
Trong quá trình giáo viên hình thành kiến thức mới cho học sinh, đặc biệt là những nội dung
có tính trừu tượng phổ biến trong các tiết toán ở tiểu học (bài tâp + ôn tập + thực hành). Ngoài ra, ở
một số chi tiết hình thành kiến thức mới nếu giáo viên khéo vận dụng thì vẫn có thể sử dụng
phương pháp này. Nhìn chung phương pháp dạy học này được sử dụng chủ yếu khi hình thành kiến
thức mới cho học sinh, đặc biệt là những nội dung có tính chất trừu tượng.
1.1.1.5. Yêu cầu cơ bản khi sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học toán ở Tiểu học
Phương pháp trực quan cũng như các phương pháp khác không thể sử dụng tùy tiện mà khi
sử dụng cần thỏa mãn một số yêu cầu cơ bản sau:
Một ỉà: Sử dụng phương pháp trực quan trong dạy học toán ở tiểu học không thể thiếu
phương tiện (đồ dùng) dạy học.
+ Các phương tiện (đồ dùng) dạy học phải phù họp với từng giai đoạn nhận thức của trẻ. Ở
giai đoạn 1, các phương tiện chủ yếu là các đồ vật thật hoặc hình ảnh của đồ vật thật, gần gũi với
cuộc sống của trẻ. Ở giai đoạn 2, các phương tiện trực quan thường ở dạng sơ đồ, mô hình có tính
chất tượng trưng, trừu tượng và khái quát hơn.
+ Các đồ dùng trực quan với mục đích chủ yếu là tạo chỗ dựa ban đầu cho hoạt động nhận
thức của trẻ, vì vậy phương tiện (đồ dùng) cần phải tập trung bộc lộ rõ những dấu hiệu bản chất của
các mối quan hệ toán học, giúp học sinh dễ thấy, dễ cảm nhận được các nội dung kiến thức đó.
+ Các đồ dùng (phương tiện) phù họp với nội dung yêu cầu của các bài học, dễ làm, dễ kiếm,
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 5
phù hợp với điều kiện cụ thể ở địa phương, phù họp với điều kiện kinh tế của giáo viên và phụ
huynh học sinh. Tránh dùng các phương tiện quá máy móc.
+ Đồ dùng (phương tiện) cần đảm bảo tính thẩm mĩ nhưng không quá cầu kì về hình thức và
không quá lòe loẹt về màu sắc, gây phân tán sự chú ý của học sinh vào những dấu hiệu không bản
chất.
Hai là: cần sử dụng đúng lúc, đúng mức độ phương tiện trực quan. Khi cần tạo điểm tựa trực
quan để hình thành kiến thức mới thì dùng các phương tiện, khi học sinh đã hình thành được kiến
thức thì phải hạn chế bớt việc dùng các phương tiện, thậm chí cấm sử dụng phương tiện trực quan,
giúp học sinh tư duy trừu tượng.

Ví dụ: Khi hình thành bảng nhân 6 ở lớp 3 nên hướng dẫn học sinh sử dụng các tấm bìa để
tìm ra kết quả phép nhân. Nhưng khi học sinh đã thuộc bảng nhân thì cố gắng không dùng các tấm
bìa nữa mà tập cho học sinh cách nói ngay, viết ngay kết quả phép tính.
Ba là: Các phương tiện trực quan phải tăng dần mức độ trừu tượng. Mức độ trừu tượng của
phương tiện phụ thuộc vào khả năng nhận thức của trẻ. Đối với trẻ nhỏ (Ở giai đoạn các lớp 1, 2, 3)
thì các phương tiện mang tính cụ thể hơn.
Yí dụ: Khi giới thiệu về số lượng của số 3, lúc đầu giáo viên có thể cho học sinh lấy 2 bông
hoa rồi lấy 1 bông hoa nữa để dược 3 bông hoa, sau đó có thể cho học sinh lấy 2 que tính rồi lấy 1
que tính nữa để được 3 que tính, tiếp đến lấy 2 chấm tròn rồi lấy 1 chấm tròn nữa để được 3 chấm
tròn. Từ 3 bông hoa đến 3 que tính rồi đến 3 chấm tròn đã có sự chuyển dần từ vật cụ thể sang vật
có tính tượng trưng hơn và điều quan trọng là học sinh nhận được “cái chung” của các nhóm vật đó
là “ba” (số lượng đều là 3).
Bổn là: Không quá đề cao và tuyệt đối hóa phương pháp trực quan. Phương pháp trực quan
có nhiều ưu điểm và có vai trò quan trọng trong dạy học toán ở tiểu học, tuy nhiên nếu tuyệt đối
hóa phương pháp trực quan, dùng quá mức cần thiết sẽ gây phản tác dụng, làm cho học sinh lệ
thuộc vào phương tiện trực quan, tư duy máy móc, kém phát triển tư duy trừu tượng, vì vậy cần sử
dụng linh hoạt, đúng mức phương pháp dạy học trực quan, trên cơ sở phối họp một cách hợp lí các
phương pháp dạy học khác.
Ví dụ: Khi dạy học sinh giải một bài mới, dạng bài toán có lời văn chẳng hạn dạng bài toán
nói về nhiều hơn một số đơn vị, giáo viên có thể sử dụng hoặc hướng dẫn học sinh sử dụng các
minh họa trực quan thích hợp. Những học sinh đã nắm được cách giải và đã có kĩ năng giải các bài
toán dạng đó rồi mà vẫn yêu cầu học sinh phải “vẽ sơ đồ” rồi mới giải bài toán thì việc làm đó
không hỗ trợ cho sự phát triển tư duy của học sinh và là việc làm máy móc.
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 6
1.1.2. Dạy học phát hiện và giải quyết vẩn đề
1.1.2.1. Khái niệm
1.1.2.1.1. Tình huống gợi vấn đề
Tình huống gợi vấn đề là những tình huống gợi cho học sinh khó khăn về mặt lí luận hoặc
thực tiễn mà họ thấy cần thiết và có khả năng vượt qua, nhưng không phải ngay tức khắc nhờ một

thuật giải mà phải trải qua một quá trình tích cực suy nghĩ, hoạt động để biến đổi đối tượng hoạt
động hoặc điều chỉnh kiến thức sẵn có.
Một tình huống được gọi là gợi vấn đề nếu thỏa mãn các điều kiện sau: + Tồn tại một vấn
đề: Tình huống phải bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa thực tế với trình độ nhận thức mà vốn hiểu biết sẵn
có của chủ thể chưa đủ điều kiện vượt qua.
+ Gợi nhu cầu nhận thức: Nêu tình huống gợi vấn đề nhưng học sinh không có nhu cầu tìm
hiểu, giải quyết thì chưa phải là tình huống gợi vấn đề. Điều quan trọng là giáo viên phải gợi ở học
sinh làm bộc lộ khiếm khuyết về kiến thức và kĩ năng của các em để các em thấy cần phải bổ sung,
hoàn thiện kiến thức, kĩ năng bằng cách tham gia giải quyết vấn đề nảy sinh.
+ Khơi dậy niềm tin ở khả năng của bản thân: Khơi gợi ở học sinh niềm tin và khả năng học
tập có thể giải quyết vấn đề đó.
1.1.2.1.2. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
“Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học mà ở đó giáo
viên là người tạo ra tình huống gợi vấn đề, tổ chức, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, học sinh
tích cực, chủ động, tự giác giải quyết vấn đề thông qua đó mà lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo nhằm
đạt được mục tiêu dạy học”
1.1.2.2. Cơ sở ỉỉ luận của dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề
Mâu thuẫn giữa yêu cầu nhiệm vụ nhận thức với tri thức và kinh nghiệm sẵn có là động lực
thúc đẩy học sinh hoạt động học tập, thúc đẩy quá trình phát triển tư duy của học sinh.
về mặt tâm lí học, học sinh tích cực tư duy do nảy sinh nhu cầu tư duy, do đứng trước khó
khăn về nhận thức; học sinh tự kiến tạo hoặc tham gia vào việc kiến tạo tri thức cho mình dựa vào
tri thức đã có, bổ sung và làm cho những tri cũ được hoàn chỉnh hơn.
Học sinh học tập tự giác, tích cực vừa kiến tạo được tri thức vừa học được cách giải quyết
vấn đề, lại vừa rèn luyện được những đức tính quý báu như: kiên trì, vượt khó,
1.1.2.3. Đặc điểm của dạy học phát hiện và giải quyết vẩn đề
Những tình huống gợi vấn đề chính là những cư hội, điều kiện để học sinh tham gia vào quá
trinh phát hiện, giải quyết và chiếm lĩnh tri thức chứ không phải thông báo tri thức ở dạng có sẵn.
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 7
Học sinh tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo, tận lực huy động kiến thức và kĩ năng của

mình để phát hiện và giải quyết vấn đề tức là đặt học sinh vào trạng thái chủ động chứ không phải
thụ động tiếp thu tri thức từ thầy.
Mục đích dạy học không chỉ là làm cho học sinh lĩnh hội được kết quả của quá trình phát
hiện và giải quyết vấn đề mà còn làm cho học sinh học được bản thân của việc học tức là học sinh
học được cách thức mà loài người tìm ra tri thức: Từ mò mẫm đến phát hiện đến kiểm chứng,
chứng minh và khẳng định tính chân lí của vấn đề ấy.
1.1.2.4. Các hình thức phát hiện và giải quyết vẩn đề
1.1.2.4.1. Tự phát hiện và giải quyết vấn đề
1.1.2.4.2. Vấn đáp, phát hiện và giải quyết vẩn đề
1.1.2.4.3. Thuyết trình, phát hiện và giải quyết vẩn đề
Do đặc điểm của học sinh tiểu học nên các vấn đề được hướng tới là những vấn đề đơn giản.
Phần lớn các vấn đề được giải quyết trên cơ sở dựa vào trực quan (quan sát các số, hình ảnh, rút
ra kết luận khái quát) nên hình thức vấn đáp, phát hiện và giải quyết vấn đề được sử dụng nhiều
nhất, phù hợp nhất với học sinh tiểu học.
1.1.2.5. Quy trình phát hiện và giải quyết vấn đề Gồm 4 bước:
*Bước 1: Thâm nhập, phát hiện vẩn đề
Học sinh phát hiện ra vấn đề từ tình huống gợi vấn đề giáo viên đưa ra. Có nhiều cách để gợi
vấn đề cho học sinh:
+ Cách 1 :Tạo tình huống gợi vấn đề từ các kiến thức học thường ngày Ví dụ:Khi học bài: “Phép
cộng các số trong phạm vi 10000”, để hướng dẫn học sinh thực hiện phép cộng 3526 + 2759 giáo
viên nêu bài toán: Phân xưởng một làm được 3526 sản phẩm, phân xưởng hai làm được 2759 sản
phẩm. Hỏi cả hai phân xưởng làm được bao nhiêu sản phẩm?
Giáo viên đưa ra câu hỏi: “Muốn biết cả hai phân xưởng làm được bao nhiêu sản phẩm ta
làm thế nào?”
Học sinh phải vận dụng kiến thức đã học để trả lời câu hỏi: “Muốn biết cả hai phân xưởng
làm được bao nhiêu sản phẩm ta phải tính tổng 3526 + 2759.
Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào cách tính tổng các số có 3 chữ số để thực hiện tính tổng
3526 + 2759.
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu cách đặt tính khi thực hiện 3526 + 2759.
Học sinh nêu: “Viết 3526 rồi viết 2759 xuống dưới sao cho các chữ số ở

cùng một hàng thẳng cột với nhau: Hàng đơn vị thẳnghàng đơn vị, hàng chục
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 8
thẳng hàng chục, hàng trăm thẳng hàng trăm, hàng nghìn thẳng hàng nghìn.
Giáo viên hỏi: Bắt đầu cộng từ đâu tới đâu?
Học sinh: Bắt đầu cộng từ phải sang trái (từ hàng đom vị đến hàng chục,hàng trămMng
nghìn).
Giáo viên yêu cầu học sinh nêu từng cách tính cộng 3526 + 2759
+ 6 cộng 9 bằng 15,viết 5 nhớ 1.
+ 2 cộng5 bằng 7,thêm 1 bằng8,viết 8.
+ 5 cộng 7 bằng 12,viết 2 nhớ 1.
+ 3 cộng 2 bằng 5,thêm 1 bằng 6,viết 6.
Vậy 3526 + 2759 = 6285
Tiếp theo giáo viên hỏi: “Muốn thực hiện cộng các số có 4 chữ số ta làm thế nào?”
Học sinh dựa vào các bước vừa làm để trả lời câu hỏi:Muốn cộng các số có 4 chữ số ta làm
như sau:
+ Đặt tính: Viết các số hạng sao cho các chữ số ở cùng một hàng đơn vị thẳng cột với nhau:
Hàng nghìn thẳng hàng nghìn, hàng trăm thẳng hàng trăm, hàng chục thẳng hàng chục, hàng đơn vị
thẳng hàng đơn vị. Viết dấu cộng và kẻ vạch ngang dưới các số.
+ Thực hiện tính từ phải sang trái (thực hiện tính từ hàng đơn vị).
Như vậy, ở đây giáo viên đã đưa ra một tình huống là bài toán giải toán có lời văn để hướng
dẫn học sinh cách thực hiện phép cộng các số hạng trong phạm vi 10000.
+ Cách 2: Xem xét tương tự để xây dựng kiến thức mới Ví dụ: Ở các lớp 1, 2 khi học sinh
học phép cộng trong phạm vi 10; 100; 1000 các em đã biết quy tắc cộng các số: “cộng từ phải
sang trái, viết các số hạng sao cho các chữ số ở cùng một hàng đơn vị thẳng cột với nhau. Viết dấu
+ và kẻ vạch ngang dưới các số.
Lên lớp 3, khi học các bài “cộng trừ các số có 3 chữ số”, phép cộng các số trong phạm vi
10000, phép cộng các số trong phạm vi 100000 học sinh có thể dựa vào kiến thức tương tự để
tính toán: “cộng từ phải sang trái, viết các số hạng sao cho các chữ số ở cùng một hàng đơn vị
thẳng cột với nhau. Viết dấu + và kẻ vạch ngang dưới các số”. Từ đó học sinh nêu quy tắc tính.

+ Cách 3 : Lật ngược một câu khẳng định đã biết Yí dụ: Khi học sinh học dấu hiệu chia hết
cho 9 “các số có tổng các chữ số chia hết cho 9 thì chia hết cho 9” ta có thể có các phát biểu: “Mọi
số chia hết cho 9 thì có tổng các chữ sô chia hết cho 9” được không?
Hay “Nếu các số không có tổng các chữ số chia hết cho 9 thì có chia hết cho 9” được hay
không?
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 9
Học sinh phải suy nghĩ và xét các trường họp số cụ thể để kiểm nghiệm câu phát biểu mới
đúng hay sai?
+ Cách 4: Khái quát hóa
luật của dãy số:Trong dãy số này,mỗi số đều bằng số đứng ngay trước nó cộng thêm 6,hoặc bằng
số đứng ngay sau nó trừ đi 6.
Các số cần điền là:
Học sinh phát hiện vấn đề và tìm giải pháp để giải quyết vấn đề.Thường được thực hiện
theo sơ đồ sau:
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 10
Ví dụ:Viết số thích họp vào ô trống
6 12 18 36 60
ỉọc sinh quan sát các

tron
g ô
trông,thử tìm môi quan hệ giữa các

trong dãy số và nhận xét: 6 + 6 = 12; 12 + 6 = 18, học sinh khái quát quy
6 12 18 24 30 36 42 48 54 60
*Buớc 2: Học sinh phát liên và giải quyêt vân đê
Giải thích sơ đồ:
Khi phân tích vấn đề cần làm rõ những mối liên hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm. Trong

môn toán, ta thường dựa vào những tri thức toán đã học, liên tưởng tới những định nghĩa và định lí
thích họp.
Khi đề xuất và thực hiện hướng giải quyết vấn đề, cùng với việc thu thập, tổ chức dữ kiện,
huy động tri thức, thường hay sử dụng những phương pháp, kỹ thuật nhận thức, tìm đoán, suy luận
như hướng đích, quy lạ về quen, đặc biệt hóa, chuyển qua những trường họp suy biến, tương tự hóa,
khái quát hóa, xem xét những mối liên hệ và phụ thuộc, suy xuôi, suy ngược biến, suy ngược lùi,
Phương hướng được đề xuất không phải là bất biến, trái lại có thể phải điều chỉnh, thậm chí bác bỏ
và chuyển hướng khi cần thiết. Khâu này có thể làm nhiều lần cho đến khi tìm được hướng đi họp
lí.
Kết quả của việc là hình thành được một giải pháp.
Việc tiếp theo là kiểm tra giải pháp đó có đúng đắn hay không.
Nếu giải pháp đúng thì kết thúc ngay, nếu không đúng thì lặp lại từ khâu phân tích vấn đề
cho đến khi tìm được giải pháp đúng.
Sau khi tìm được giải pháp, có thể tiếp tục tìm thêm những giải pháp khác, so sánh chúng với
nhau để tìm giải pháp tốt nhất.
*Bước 3: Trình bày giải pháp
+ Học sinh trình bày kết quả trước lớp
+ Học sinh nhận xét,bổ sung
+ Giáo viên kết luận
*Bước 4: Nghiên cứu sâu hơn về giải pháp
+ Nghiên cứu khả năng ứng dụng của kết quả.
+ ứng dụng trong một số trường họp khác nhờ vào phép tương tự, khái quát hóa.
Ví dụ: “Bảng nhân 6”
*Bước 1: Giáo viên đưa ra bài toán: “Có một tấm bìa, trên tấm bìa có 6 chấm tròn. Hỏi có tất
cả bao nhiêu chấm tròn?”
- Học sinh phát hiện ra: phải thực hiện phép nhân 6x1=6.
Vậy trên tấm bìa có tất cả 6 chấm tròn
Tương tự khi ta lấy 2 tấm bìa, 3 tấm bìa,
- Giáo viên yêu cầu học sinh dựa vào các phép tính vừa nêu để dự đoán yêu cầu của bài học ngày
hôm nay.

*Bước 2: Học sinh phát hiện và giải quyết vấn đề
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 11
- Dựa vào gợi ý của giáo viên học sinh phát hiện yêu cầu của bài học là thành lập bảng nhân 6.
- Học sinh phát hiện: Khi ta thêm một tấm bìa có cùng 6 chấm tròn thì kết quả của phép tính liền sau
sẽ bằng kết quả của phép tính liền trước cộng thêm 6.
- Giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào cách xây dựngbảngnhân đã
học ở các lớp dưới để thành lập “Bảng nhân 6”.
- Giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét về thừa số thứ nhất, thừa số thứ
hai và tích của mỗi phép nhân vừa lập?
- Học sinh: Thừa số thứ nhất luôn bằng 6, thừa số thứ hai của phép tính liền sau hơn thừa số thứ hai
của phép tính liền trước là 1 đơn vị, tích sau hơn tích trước 6 đơn vị (tích sau bằng tích trước cộng
thêm 6 đơn vị).
Ví dụ: 6x8=6x7+6 6x9=6x8+6
*Bước 3: Trình bày giải pháp
- Học sinh trình bày kết quả phép tính
6x1 = 6 6x2 = 12 6x3
= 18
6x10 = 60
*Bước 4: Nghiên cứu sâu hơn về giải pháp
- Giáo viên yêu cầu học sinh có thể dựa vào bảng nhân 6 để xem xét cách thành lập bảng chia 6.
Đây là phương pháp phát huy vai trò tự giác, tích cực, chủ đông, sáng tạo của học sinh.
Thông qua đó đánh giá khả năng khám phá, tìm kiếm, xử lí tình huống của học sinh. Đồng thời
hình thành ở học sinh năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, khả năng linh hoạt trong suy nghĩ,
dám nghĩ, dám làm, tìm tòi chiếm lĩnh tri thức mới.
1.1.2.6. Tác dụng của phương pháp phát hiện và giải quyết vẩn đề trong dạy học
Sử dụng phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề trong dạy học có tác dụng to lớn về
nhiều mặt:
- Kiến thức của học sinh được vững chắc và hệ thống kiến thức đó do chính bản thân học sinh tìm ra
nên khó quên khi quên dễ dàng tìm lại được.

- Rèn luyện cho học sinh các loại tư duy logic, biện chứng khoa học và sáng tạo.
- Bồi dưỡng cho học sinh tình cảm trí tuệ sâu sắc: có cảm xúc và niềm vui trong lao động sáng tạo, tự
tin ở năng lực của mình, hứng thú với học tập, chiếm lĩnh tri thức khoa học.
- Làm cho nội dung bài học có tính thuyết phục, biến kiến thức thành niềm tin.
1.2. Nội dung và thực trạng dạy học nội dung môn Toán lớp 3
1.2.1. Nội dung môn Toán lớp 3
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 12
a) Số học:
*Phép nhân và phép chia trong phạm vi lOOO(tiếp):
- Củng cố các bảng nhân với 2, 3, 4, 5 (tích không quá 50) và các bảng chia cho 2, 3, 4, 5 (số bị chia
không quá 50). Bổ sung cộng, trừ các số có 3 chữ số (có nhớ không quá 1 lần).
- Lập các bảng nhân với 6, 7, 8, 9, 10 (tích không quá 100) và các bảng chia với 6, 7, 8, 9, 10 (số bị
chia không quá 100).
- Hoàn thiện các bảng nhân và bảng chia.
- Nhân, chia ngoài bảng trong phạm vi 1000: nhân số có 2, 3 chữ số với số có 1 chữ số có nhớ không
quá 1 lần, chia số có 2, 3 chữ số cho số có 1 chữ số. Chia hết và chia có dư.
- Thực hành tính: Tính nhẩm trong phạm vi các bảng tính; tính nhẩm số có 2 chữ số với số có 1 chữ
số không nhớ; chia nhẩm số có 2 chữ số với số có
1 chữ số không có số dư ở từng bước chia. Củng cố về cộng, trừ, nhân, chia trong phạm vi 1000 theo
các mức độ đã xác định.
- Làm quen với biểu thức số và giá trị biểu thức.
- Giới thiệu thứ tự thực hiện các phép tính trong thực hiện biểu thức số có đến 2 dấu phép tính, có
hoặc không có dấu ngoặc.
- Giải các bài tập dạng: “Tìm X biết: a:x=b (với b là số trong phạm vi đã
học)”.
*Giới thiệu các số trong phạm vi 100 000. Giới thiệu hàng nghìn, hàng vạn, hàng chục vạn.
- Phép cộng và phép trừ có nhớ không liên tiếp và không quá 2 lần, trong phạm vi 100 000. Phép
chia số có đến 5 chữ số có 1 chữ số (chia hết và chia có dư).
- Tính giá trị các biểu thức số có đến 3 dấu phép tính, có hoặc không có dấu ngoặc.

- Giới thiệu các phần bằng nhau của đơn vị. Thực hành so sánh các phần bằng nhau của đơn vị trên
hình vẽ và trong trường họp đơn giản.
- Giới thiệu bước đầu về chữ số La Mã.
b) Đại lượng và đo đại lượng:
- Bổ sung và lập bảng các đơn vị đo độ dài từ milimét đến kilômét. Nêu mối quan hệ giữa hai đơn vị
tiếp liền nhau, giữa mét và kilômét, giữa mét và xăngtimét, milimét. Thực hành đo và ước lượng độ
dài.
- Giới thiệu đơn vị đo diện tích: xăngtimét vuông.
- Giới thiệu gam. Đọc, viết, làm tính với các số đo theo đom vị gam. Giới thiệu lkg = lOOOg.
- Ngày, tháng, năm. Thực hành xem lịch.
- Phút, giờ. Thực hành xem đồng hồ, chính xác đến phút. Tập ước lượng khoảng thời gian trong
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 13
phạm vi một phút.
- Giới thiệu tiếp về tiền Việt Nam. Tập đổi tiền với các trường hợp đan giản.
c) Yếu tố hình học:
- Giới thiệu góc vuông và góc không vuông. Giới thiệu êke. Vẽ góc bằng thước thẳng và êke.
- Giới thiệu đỉnh, góc, cạnh của các hình đã học.
- Tính chu vi hình chữ nhật, hình vuông.
- Giới thiệu compa. Giới thiệu tâm và bán kính, đường kính của hình tròn. Vẽ đường tròn bằng
compa.
- Thực hành vẽ trang trí hình tròn.
- Giới thiệu diện tích của một hình. Tính diện tích hình chữ nhật và diện tích hình vuông.
d) Yếu tố thống kê:
- Giới thiệu bảng số liệu đom giản.
- Tập sắp xếp lại các số liệu của bảng theo mục đích, yêu cầu cho trước.
e) Giải bài toán:
- Giải các bài toán có đến 2 bước tính với các mối quan hệ trực tiếp và đơn giản.
- Giải bài toán quy về đơn vị và các bài toán có nội dung hình học.
1.2.2. Thực trạng dạy học nội dung môn Toán lớp 3

Qua thực tế tìm hiểu tình hình dạy học nội dung số học ở lớp 3 trường tiểu học tôi rút ra một
số nhận xét sau:
Rất ít giáo viên sử dụng phối họp phát hiện và giải quyết vấn đề với dạy học trực quan trong
các giờ học. Bởi vì theo các cô giáo định hướng này phải đầu tư rất nhiều thời gian vào soạn giáo
án, thiết kế các hoạt động dạy học phù họp với trình độ, năng lực nhận thức của học sinh. Nhiều khi
mất thời gian nếu không biết cách tổ chức tốt các hoạt động và không phải bài nào cũng có thể áp
dụng. Đây là cách thức học tập rất hay để thu hút học sinh vào bài học. Tuy nhiên do một số lý do
nêu trên nên việc sử dụng cách thức dạy học này còn hạn chế. Qua thực tế trực tiếp giảng dạy một
số tiết áp dụng cách thức dạy học theo định hướng trên tôi thấy: Học sinh hiểu bài, nắm bài khá
chắc chắn. Bản thân tôi cũng khá tự tin khi giảng và tổ chức các hoạt động học tập trên đồ dùng
trực quan và phát huy được tính tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong việc phát
hiện và giải quyết các vấn đề của bài học.
1.3. Kết luận
Mỗi phương pháp dạy học đều tồn tại những ưu và nhược điểm của nó, không có phương
pháp nào là “vạn năng”, cũng không có phương pháp nào là “tồi” cả (tất nhiên hạn chế là không
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 14
tránh khỏi), lỗi thuộc về người sử dụng phương pháp chứ không phải ở phương pháp ấy. Chính vì
thế mà cần có sự phối hcrp linh hoạt giữa các phương pháp dạy học tích cực với nhau, giữa các
phương pháp dạy học tích cực với dạy học truyền thống để khắc phục những hạn chế của từng
phương pháp đồng thời phát huy ưu điểm của các phương pháp này. Chẳng hạn có thể phối họp
giữa dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề với dạy học trực quan sẽ phát huy tính tự giác, tích cực
và chủ động sáng tạo của học sinh. Nếu chỉ sử dụng dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề mà
không phối hcrp cùng dạy học trực quan thì học sinh rất khó phát hiện chiếm lĩnh tri thức. Từ trực
quan học sinh có thể phát hiện được vấn đề một cách nhanh nhất để từ đó tìm ra biện pháp để giải
quyết vấn đề đó. Tuy nhiên không phải bài nào cũng có thể áp dụng phương pháp này, phải linh
hoạt trong khi sử dụng thì sẽ phát huy được tính tự giác tích cực trong học tập đạt hiệu quả cao theo
mục tiêu bài học. Có thể sử dụng phối họp với các phương pháp dạy học truyền thống như: đàm
thoại, gợi mở - vấn đáp, thực hành - luyện tập, để giờ học thêm sôi nổi, học sinh hào hứng tham
gia các hoạt động học tập mà giáo viên đưa ra.

Nội dung môn Toán lớp 3 có rất nhiều bài có thể sử dụng cách thức dạy học theo định hướng
nêu trên. Nhưng vì điều kiện có hạn nên tôi chỉ soạn một số giáo án thể hiện sự phối họp giữa dạy
học phát hiện và giải quyết vấn đề với dạy học trực quan trong dạy học nội dung môn Toán ở lớp 3.
CHƯƠNG II
XÂY DựNG MỘT SỐ GIÁO ÁN THỂ HIỆN sự PHỐI HỢP DẠY HỌC PHÁT HIỆN VÀ
GIẢI QUYẾT VẤN ĐÈ VỚI DẠY HỌC TRựC QUAN TRONG DẠY HỌC NỘI DUNG
MÔN TOÁN Ở LỚP 3
BẢNG NHÂN 6 (TOÁN 3)
I. Mục tiêu
- Học sinh phát hiện và lập được bảng nhân 6 và học thuộc bảng này.
- Học sinh củng cố kĩ năng, thực hành nhân 6, giải toán có lời văn và đếm thêm 6.
- Học sinh phát triển khả năng diễn đạt, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề.
ILPhương pháp, phucng tiện dạy học
- Phương pháp: dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy học trực quan
- Phương tiện:
+ Các tấm bìa, mỗi tấm bìa có 6 chấm tròn.
+ Bảng phụ ghi nội dung bảng nhân 6.
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 15
2 +2 +2 +2 +2 + 1
5 + 5 + 5 + 5 + 5 + 5
- Y ê u cầu 2 học sinh làm bài trên
bảng vừa chỉ và gọi tên các thành
phần và kết quả của các phép nhân
vừa lập được.
- Nhận xét và cho điểm học sinh.
2. Dạy học bài mới:
2.1. Giới thiệu bài:
2.2. Hướng dẫn học sinh lập bảng nhân 6:
- Giáo viên gắn 1 tấm bìa có 6 chấm tròn lên bảng

và đưa ra các câu hỏi: + Có mấy chấm tròn?
+ 6 chấm tròn được lấy mấy lần?
+ 6 được lấy mấy lần?
- Giáo viên đưa ra phép tính: 6 được lấy 1 lần nên
ta lập được phép nhân 6 x 1 = 6 (ghi lên bảng
phép nhân này).
- Giáo viên gắn tiếp 2 tấm bìa lên bảng và hỏi: Có
hai tấm bìa, mỗi tấm bìa có 6 chấm tròn, vậy 6
chấm tròn được lấy mấy lần?
+ Vậy 6 được lấy mấy lần?
+ Hãy lập phép tính tương ứng với 6 được lấy 2
lần.
+ 2 + 2 + 2 + 2 + 2 = 2 6= 12
+ 5 + 5 + 5 + 5 + 5 = 5 6 = 30
Học sinh thực hiện yêu cầu của giáo viên.
Học sinh quan sát hoạt động của giáo viên và trả
lời các câu hỏi:
+ Có 6 chấm tròn.
+ 6 chấm tròn được lấy 1 lần.
+ 6 được lấy 1 lần.
Học sinh đọc phép nhân: 6 nhân 1 bằng 6.
Học sinh quan sát thao tác của giáo viên và trả
lời:
chấm tròn được lấy 2 lần.
+ 6 được lấy 2 lần.
+ Đó là phép tính 6x2
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 16
III. Các hoạt động dạy học
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh

l.Kiêm tra bài cũ:
- Gọi hai học sinh lên bảng làm bài
tập sau:
Viết phép nhân tương ứng với mỗi
tổng sau:
- Hai học sinh làm bài trên bảng, cả
lớp làm ra giấy nháp.
Giáo viên nhận xét kêt quả làm của học sinh.
- Giáo viên treo bảng nhân 6 yêu cầu học sinh quan sát, hướng dẫn học sinh nhận xét ghi nhớ cách
thành lập bảng nhân 6.
Khóa luận tốt nghiệp
Hoàng Thị Tư - K34A - Giáo dục Tiểu học 17
+ 6 nhân 2 bằng mấy? + 6 nhân 2 bằng 12.
+ Vì sao em biết 6 nhân 2 bằng 12?
+ V ì 6 x 2 = 2 x 6 m à 2 x 6 = 12
(học
sinh đã học bảng nhân 2) nên
6 x 2 = 1 2 .
- Viết lên bảng phép nhân: - Sáu nhân hai bằng 12.
6x2 =12 và yêu cầu học sinh đọc
phép nhân này.
- Giáo viên chia lớp thành các nhóm - Học sinh thảo luận và trình bày kết
đôi và phát phiếu thảo luận cho học quả: Học sinh phát hiện ra hoàn
sinh với nội dung như sau: thành bảng nhân 6 có thể dựa vào các
PHIEU HỌC TẠP bảng nhân 2, 3, 4, 5 hoặc dựa vào
Nhóm: tổng các số hạng bằng nhau.
1. Tính PHIEU HỌC TẠP
6xl = 6x6 = Nhóm:
6x2 = 6x7 = 1. Tính
6x3 = 6x8 = 6 x 1 = 6 6 x 6 = 3 6

6 x 4 = . . . 6 x 9 = . . . 6 x 2 = 1 2 6 x 7 = 4 2
6 x 5 = . . . 6 X 1 0 = . . . 6 x 3 = 1 8 6 x 8 = 4 8
2. Em có nhận xét gì về thừa số 6x4 = 24 6x9 = 54
thứ nhất, thừa số thứ hai và tích 6 X 5 = 30 6 X 10 = 60
của mỗi phép nhân vừa lập? 2. Thừa số thứ nhất luôn bằng 6,
thừa số thứ hai của phép tính liền
sau
hơn thừa số thứ hai của phép tính
liền trước là 1 đơn vị, tích sau hơn
tích trước 6 đan vị (tích sau bằng
tích trước cộng thêm 6 đơn vị).
Ví dụ: 6 X 8 = 6 X 7 + 6 = 48
6x9 = 6x8 + 6 = 54

×