Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Rèn luyện kĩ năng mềm cho học sinh THPT qua dạy học văn học nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THIẾT HÙNG

RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO HỌC SINH THPT
QUA DẠY HỌC VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
NGHỆ AN - 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
LÊ THIẾT HÙNG
RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO HỌC SINH THPT
QUA DẠY HỌC VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI
Chuyên ngành: LL & PPDH bộ môn Văn và Tiếng Việt
Mã số: 60. 14. 01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. NGUYỄN VĂN HẠNH
NGHỆ AN - 2014
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 7
1. Lý do chọn đề tài 7
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 13
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 13
5. Phương pháp nghiên cứu 14
6. Cấu trúc của luận văn 14
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI 15
1.1. Tính cần thiết của kỹ năng mềm đối với học sinh THPT 15
1.1.1. Khái niệm kỹ năng mềm


1.1.2. Phân loại kỹ năng mềm
1.1.3. Một số kỹ năng mềm cần thiết cho học sinh THPT
1.2. Những đặc điểm nổi bật của học sinh trung học phổ thông 24
1.2.1. Đặc điểm tâm, sinh lý
1.2.2. Sự nhận thức, phát triển của học sinh THPT
1.2.3. Đặc điểm tính cách của học sinh THPT
1.3 .Vị trí, cấu trúc của phân môn văn học nước ngoài trong chương trình môn văn
THPT 27
1.3.1. Vị trí văn học nước ngoài trong trường THPT
1.3.2. Cấu trúc chương trình văn học nước ngoài trong trường THPT
1.4. Thực trạng của việc rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh ở trường THPT qua dạy
học văn 33
1.4.1. Những nhận thức của học sinh về kỹ năng mềm
1.4.2. Quan điểm của giáo viên văn về một số vấn đề liên quan đến việc rèn
luyện KNM cho học sinh THPT
1.4.3. Thực trạng rèn luyện KNM cho hoc sinh THPT qua dạy học văn bản
văn học nước ngoài
Tiểu kết chương 1 43
Chương 2 MỘT SỐ NGUYÊN TẮC, PHƯƠNG PHÁP RÈN LUYỆN KNM CHO HỌC SINH
THPT QUA DẠY HỌC VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI 44
2.1. Những nguyên tắc cơ bản 44
2.1.1. Phù hợp với đối tượng học sinh
2.1.2. Bám sát đặc trưng thể loại
2.1.3. Tiếp nhận tác phẩm qua văn bản dịch
2.1.4. Tích hợp trong giờ đọc hiểu văn bản
2.2. Phương pháp rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh THPT qua dạy học văn học
nước ngoài 53
2.2.1. Phương pháp thuyết trình
2.2.2. Phương pháp vấn đáp, đàm thoại
2.2.3. Phương pháp hoạt động nhóm

2.2.4. Ứng dụng công nghệ thông tin và hoạt động ngoại khóa
Tiểu kết chương 2 68
Chương 3 THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 70
3.1. Mục đích, yêu cầu của hoạt động thực nghiệm 70
3.1.1. Mục đích thực nghiệm
3.1.2. Yêu cầu thực nghiệm
3.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm 70
3.2.1. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm
3.2.2. Thời gian thực nghiệm
3.3. Thiết kế giáo án thực nghiệm 72
3.3.1. Giáo án TN1: (Tiết 44)
3.3.2. Giáo án TN 2: (Tiết 65 - 66)
3.3.3. Giáo án TN 3: (Tiết 80 - 81)
3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm 93
3.4.1. Nội dung thực nghiệm
3.4.2. Hình thức thực nghiệm
3.4.3. Kết quả thực nghiệm
3.4.4. Đánh giá chung
KẾT LUẬN 103
TÀI LIỆU THAM KHẢO 106
PHỤ LỤC 111
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNTT : Công nghệ thông tin
ĐC : Đối chứng
GV : Giáo viên
HS : Học sinh
KNM : Kỹ năng mềm
KNS : Kỹ năng sống
Nxb : Nhà xuất bản

PPDH : Phương pháp dạy học
SGK : Sách giáo khoa
SGV : Sách giáo viên
THPT : Trung học phổ thông
TN : Thực nghiệm
VHNN : Văn học nước ngoài
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Trang
Bảng:
Bảng 1.1. Các văn bản VHNN trong Chương trình cơ bản 30
Bảng 1.2. Các văn bản VHNN trong Chương trình nâng cao 32
Bảng 1.3. Bảng tổng hợp số lượng văn bản văn học nước ngoài trong Chương cơ bản và
Chương trình nâng cao 33
Bảng 1.4. Mức độ tiếp nhận thông tin KNM của HS THPT 35
Bảng 1.5. Mức độ hiểu biết về KNM của HS (%) 35
Bảng 1.6. Nhận thức của học sinh về mức độ quan trọng của các KNM (%) 36
Bảng 1.7. Nhận thức của học sinh về tác dụng của việc được trang bị KNM (%) 37
Bảng 1.8. Nguyên nhân học sinh THPT thiếu KNM (%) 38
Bảng 1.9. Nhận thức của giáo viên về tính cần thiết của việc rèn luyện KNM cho học sinh
THPT 39
Bảng 1.10. Đánh giá của giáo viên về mức độ nắm bắt một số KNM của học sinh THPT 39
Bảng 1.11. Phương pháp rèn luyện KNM cho học sinh THPT được giáo viên sử dụng 40
Bảng 1.12. Cơ sở để giáo viên vận dụng biện pháp rèn luyện KNM cho học sinh THPT 41
Bảng 1.13. Quan điểm của giáo viên về khả năng của văn học nước ngoài trong việc rèn
luyện KNM cho học sinh THPT 42
Bảng 1.14. Đánh giá của giáo viên về khả năng tiếp nhận KNM của HS THPT qua đọc
hiểu văn bản văn học nước ngoài 42
Bảng 1.15. Ý thức rèn luyện KNM cho học học sinh THPT qua dạy học văn bản văn học
nước ngoài của giáo viên 43
Bảng 3.1. Bảng kết quả điểm số bài kiểm tra KNM của học sinh lớp thực nghiệm và lớp

đối chứng 97
Bảng 3.2. Mức độ nhận thức KNM của HS ở lớp TN và lớp ĐC 97
Biểu đồ 3.1. So sánh kết quả mức độ nhận thức kỹ năng mềm của HS ở lớp TN và lớp ĐC
98
Bảng 3.3. Bảng kết quả điểm số bài kiểm tra kỹ năng mềm của học sinh lớp thực nghiệm
và lớp đối chứng 99
Bảng 3.4. Mức độ nhận thức KNM của HS ở lớp TN và lớp ĐC 99
Biểu đồ 3.2. So sánh kết quả mức độ nhận thức kỹ năng mềm của HS ở lớp TN và lớp ĐC
100
Bảng 3.5. Bảng kết quả điểm số bài kiểm tra KNM của học sinh lớp thực nghiệm và lớp
đối chứng 101
Bảng 3.6. Mức độ nhận thức KNM của HS ở lớp TN và lớp ĐC 101
Biểu đồ 3.3. So sánh kết quả mức độ nhận thức kỹ năng mềm của HS ở lớp TN và lớp ĐC
101
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Con người đang đối diện với những thách thức to lớn từ môi trường sống của
mình. Giáo dục cần phải đổi mới để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã
hội, đào tạo con người vừa có nhân cách đạo đức, tri thức khoa học, vừa có kỹ
năng làm việc. Tuy nhiên, trên thực tế, việc rèn luyện kỹ năng mềm (KNM) ở
trường trung học phổ thông (THPT) vẫn còn nhiều bất cập.
1.2. Với đặc trưng của một môn học về khoa học xã hội và nhân văn,
bên cạnh nhiệm vụ hình thành và phát triển cho học sinh năng lực sử dụng
tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn chương, môn Ngữ văn còn giúp học sinh có
được những hiểu biết về xã hội, văn hóa, lịch sử, đời sống nội tâm của con
người. So với nhiều môn học khác, môn Ngữ văn, trong đó có văn học nước
ngoài, có ưu thế trong việc rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh.
1.3. Xuất phát từ những nhận thức nói trên, chúng tôi lựa chọn đề tài
Rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh THPT qua dạy học văn học nước ngoài

làm luận văn Thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết
định 1363/TTg về việc “Đưa nội dung giáo dục môi trường vào hệ thống giáo
dục quốc dân”. Mặc dầu chưa chỉ rõ việc cần thiết phải rèn luyện kỹ năng
mềm ở các bậc học, tuy nhiên Quyết định đã đề cập đến việc trang bị cho
người học những vấn đề về văn hóa ứng xử, về thái độ sống,… Chỉ thị 10/CT-
BGDĐT năm 1995 và Chỉ thị 24/CT-BGDĐT năm 1996 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo đều đã có những chỉ đạo về công tác phòng chống
HIV/AIDS hay tăng cường công tác phòng chống ma túy tại trường học ít
7
nhiều đã đề cập đến nội dung của kỹ năng mềm. Trong giai đoạn đầu của
chương trình dành cho một số đối tượng của ngành giáo dục và Hội chữ thập
đỏ, một số kỹ năng mềm đã được nói đến, như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng kiên định, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng xác định giá trị. Ở
giai đoạn này, chương trình chỉ tập trung vào các chủ đề giáo dục sức khỏe
của thanh, thiếu niên. Sang giai đoạn 2 của chương trình đối tượng tập huấn
được mở rộng và khái niệm kỹ năng mềm được hiểu một cách rộng hơn: “Kỹ
năng sống là các kỹ năng thiết thực mà con người cần đến để có cuộc sống an
toàn và khỏe mạnh”.
Một trong những người đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ
thống về kỹ năng sống ở Việt Nam là Nguyễn Thanh Bình. Với một loạt bài
báo, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ và giáo trình, tài liệu tham khảo [6; 7;
8; 9; 10] Nguyễn Thanh Bình đã góp phần đáng kể vào việc gợi mở những
hướng nghiên cứu về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống ở Việt Nam.
Trong một số bài nghiên cứu của Đặng Quốc Bảo, Dương Tự Đam, Phạm
Minh Hạc, dù không trực tiếp đề cập đến vấn đề kỹ năng sống, giáo dục kỹ
năng sống như một đối tượng nghiên cứu, song đã bước đầu đưa ra quan
điểm, phương pháp luận cũng như những định hướng tiếp cận trong việc
nghiên cứu kỹ năng sống, giáo dục kỹ năng sống cho thế hệ trẻ. Năm học

2010-2011, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức đưa giáo dục kỹ năng sống
(KNS) vào chương trình giảng dạy trong nhà trường trên phạm vi cả nước,
nhằm cụ thể hóa mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục đã được nêu
trong Luật giáo dục (2005), sửa đổi, bổ sung 2009. Về mục tiêu chung của
giáo dục được quy định tại khoản 2 như sau: “Mục tiêu giáo dục là đào tạo
con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm
mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,
8
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [47]. Mục tiêu
của giáo dục phổ thông được quy định rõ tại khoản 1, điều 27 như sau: “Mục
tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh
tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc” [47].
Về nội dung, khoản 1, điều 5 quy định: “Nội dung giáo dục phải bảo
đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực, hiện đại và có hệ thống; coi trọng giáo
dục tư tưởng và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp,
bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự
phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi của người học” [47]. Về phương pháp,
khoản 2, điều 5 quy định: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.”
[47]. Cuốn Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và
trường phổ thông có nhiều cấp học do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày
28 tháng 3 năm 2011 cũng quy định về các hoạt động giáo dục tại khoản 1,
điều 26 như sau: “Các hoạt động giáo dục bao gồm hoạt động trong giờ lên
lớp và hoạt động ngoài giờ lên lớp nhằm giúp học sinh phát triển toàn diện về

đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực
cá nhân, tính năng động sáng tạo, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân;
chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động” [11]
Như vậy, có thể thấy, mục tiêu của giáo dục phổ thông hiện nay không
phải tập trung vào trang bị cho các em kiến thức, thay vào đó trang bị cho các
em những năng lực cần thiết, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực
9
tiễn. Điều này, cho thấy việc giáo dục KNM cho các em là hết sức có ý nghĩa.
Bởi xét đến cùng, bản chất của rèn luyện KNM là hình thành và phát triển cho
các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống. Không chỉ vậy, các KNM như kỹ năng hợp tác, kỹ năng
giải quyết vấn đề,… cũng rất phù hợp với định hướng về đổi mới phương
pháp giáo dục ở trường phổ thông.
Xác định KNM là một nhu cầu, một đòi hỏi tất yếu của cuộc sống và đã
được triển khai trong ngành giáo dục, nhưng cho đến nay việc rèn luyện
KNM vẫn còn rất hạn chế. Những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã
ấn hành một số tài liệu mang tính định hướng cho giáo viên trong hoạt động
rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Trong đó đáng chú ý là các cuốn, như:
Giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học
sinh phổ thông; Giáo dục kỹ năng sống trong môn Sinh học; Giáo dục kỹ
năng sống trong môn Giáo dục công dân. Ngoài ra còn có cuốn Hướng dẫn
thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho học sinh phổ thông của Nguyễn Dục
Quang nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội phát hành. Như tên gọi của
cuốn sách, tác giả đã trình bày một số vấn đề chung về kỹ năng sống như ý
nghĩa, vai trò, khái niệm. Từ đó, đưa ra các nguyên tắc, phương pháp và một
số minh họa giáo dục kỹ năng sống. Đây là một tài liệu có ý nghĩa định hướng
cho giáo viên trong việc rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
Cũng theo hướng đó, cuốn Giáo dục kỹ năng sống trong hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh phổ thông, các tác giả đã trình bày
một số vấn đề chung về kỹ năng sống và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh

trong nhà trường phổ thông như quan niệm về kỹ năng sống, phân loại kỹ
năng sống, tầm quan trọng của kỹ năng sống, định hướng giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh. Ở phần này, các tác giả đã chỉ ra mục tiêu, khả năng, nội
dung và một số bài minh họa.
10
Trong cuốn Giáo dục giá trị và kỹ năng sống cho học sinh trung học
phổ thông, các tác giả đã trình bày một số vấn đề chung về kỹ năng sống như
tìm hiểu các nhóm kỹ năng, tìm hiểu những kỹ năng sống nào hình thành ở
học sinh, tìm hiểu nội dung giáo dục của một số kỹ năng sống, phân loại kỹ
năng sống, nội dung giáo dục của một số kỹ năng sống, phương pháp tổ chức
hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THPT. Trong cuốn Hoạt động
giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh THPT các tác giả trình bày
một số vấn đề lý luận cơ bản trong giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống; đặc
điểm phát triển tâm sinh lý của học sinh trung học, phương pháp giáo dục giá
trị sống và kỹ năng sống cho học sinh trung học…
Ngoài những cuốn sách đã dẫn, trên các trang báo điện tử đã xuất hiện
một số bài viết ít nhiều có đề cập đến việc rèn luyện kỹ năng mềm cho học
sinh. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, chưa có một tài liệu mang tính
chuyên sâu bàn về rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh THPT qua dạy học
văn, trong đó có văn học nước ngoài.
Trong số những tài liệu bàn về dạy học văn học nước ngoài ở trường
phổ thông mà chúng tôi bao quát được, các tác giả chủ yếu bàn về nguyên tắc,
phương pháp tiếp nhận các văn bản văn học nước ngoài. Năm 1986, khi bàn
về vấn đề dạy học văn học nước ngoài theo đặc trưng thể loại, Nguyễn Văn
Hạnh trong bài Tiếp cận sử thi Ramayana từ những đặc trưng thể loại (Tạp
chí Văn học nước ngoài, số 2/1986) đã xem việc tiếp nhận văn bản văn học
theo đặc trưng thể loại là một nguyên tắc cơ bản. Nếu xa rời đặc trưng thể loại
việc phân tích một tác phẩm sử thi cổ đại cũng như phân tích một truyện cổ
tích, phân tích một tiểu thuyết, nó làm tầm thường hóa, dung tục hóa tác
phẩm. Với định hướng đó, tác giả đã gợi mở một số vấn đề trong tiếp nhận và

dạy học đoạn trích Rama buộc tội trong chương trình Ngữ văn 10. Trong đó,
đáng chú ý là vai trò chủ thể của học sinh trong tiếp nhận văn bản đã được đề
cập thông qua việc dẫn dắt của giáo viên. Bằng cách đó, tính năng động, sáng
11
tạo, sự tự tin, khả năng trình bày vấn đề - những kỹ năng cần thiết của học
sinh sẽ được hình thành, củng cố.
Từ góc độ khoa học giáo dục, Sử Khiết Doanh và Lưu Tiểu Hòa trong
cuốn Kỹ năng giảng giải - Kỹ năng nêu vấn đề (Lê Thị Anh Đào dịch), đã
trình bày cách dạy nêu vấn đề trong môn văn một cách khá cụ thể, chi tiết, gợi
mở nhiều vấn đề thú vị cho giáo viên. Thông qua cách dạy học nêu vấn đề,
học sinh có điều kiện được rèn luyện nhiều kỹ năng mềm, mà rõ nhất là kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng trình bày một vấn đề. Năm 2003, Phùng Văn Tửu
xuất bản cuốn Cảm thụ và giảng dạy văn học nước ngoài (Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội, 2003). Cho đến nay, đây là cuốn sách được bàn một cách toàn
diện và hệ thống nhất về nguyên tắc, phương pháp dạy học văn học nước
ngoài trong trường phổ thông. Từ chỗ chỉ ra những tương đồng, khác biệt
trong dạy, học văn học Việt Nam và văn học nước ngoài, tác giả đã đề xuất
một số nguyên tắc khi giảng dạy văn học dịch. Cũng như các tài liệu đã ấn
hành trước đó, trong cuốn sách của mình, Phùng Văn Tửu không trực tiếp đề
cập đến việc rèn luyện kỹ năng mềm, song qua việc định hướng dạy học văn
bản văn học nước ngoài, tác giả đã gợi mở một số vấn đề hữu ích cho việc
tích hợp rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh. Chúng tôi đặc biệt quan tâm
đến lưu ý của tác giả về sự cần thiết phải hướng dẫn học sinh đối chiếu, phát
hiện những khác biệt giữa bản dịch thơ và bản dịch nghĩa, xem đó như một
yêu cầu bắt buộc của việc dạy học văn bản văn học nước ngoài. Ý nghĩa của
vấn đề không chỉ giúp học sinh tiếp nhận những giá trị đặc sắc của văn bản,
mà còn tích hợp rèn luyện một số kỹ năng mềm cho học sinh, như: phát hiện
vấn đề, trình bày vấn đề, tự tin trong giao tiếp
Trong những năm gần đây, xuất hiện một số luận văn Thạc sĩ bàn về
rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh phổ thông thông qua việc tích hợp trong

các giờ học chính khóa. Trong số đó, đáng chú ý là Luận văn của Nguyễn
12
Chính Thành với đề tài Rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh Trung học cơ sở
qua dạy học văn học nước ngoài (Trường Đại học Vinh, tháng 10/2013).
Trong Luận văn của mình, Nguyễn Chính Thành đã đề cập đến một số vần đề
lý luận và thực tiễn của việc rèn luyện kỹ năng mềm qua dạy học văn ở các
trường Trung học cơ sở. Từ đó, đề xuất một số nguyên tắc, phương pháp, mà
theo tác giả là cần thiết, hữu ích cho việc rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh
Trung học cơ sở qua dạy học văn học nước ngoài.
Điểm lại một số công trình, bài viết ít nhiều có liên quan đến phạm vi
khảo sát của đề tài, chúng tôi nhận thấy, cho đến này chưa có một công trình
nghiên cứu chuyên biệt nào bàn về phương pháp tích hợp rèn luyện kỹ năng
mềm cho học sinh THPT qua dạy học văn học nước ngoài. Tuy nhiên, đó đây
đã có những ý kiến mang tính gợi mở để chúng tôi đi sâu nghiên cứu một
cách có hệ thống về những cơ sở, nguyên tắc và phương pháp rèn luyện kỹ
năng mềm cho học sinh THPT qua dạy học văn học nước ngoài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài là khảo sát phân tích và đề xuất
những giải pháp rèn luyện kỹ năng mềm cho học sinh THPT qua dạy học văn
học nước ngoài.
3.2. Với mục đích đó, đề tài đặt ra nhiệm vụ:
Thứ nhất, phân tích những cơ sở lý luận, thực tiễn để tích hợp rèn luyện
kỹ năng mềm cho học sinh THPT qua dạy học văn học nước ngoài.
Thứ hai, đề xuất một số nguyên tắc, phương pháp rèn luyện kỹ năng
mềm cho học sinh THPT qua dạy học văn học nước ngoài.
Thứ ba, trên cơ sở đó đề xuất một số thực nghiệm sư phạm.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ chế tiếp nhận của học sinh
THPT, đặc trưng, khả năng của phân môn văn học nước ngoài trong việc rèn
luyện kỹ năng mềm cho học sinh.

13
4.2. Phạm vi khảo sát của đề tài là phần văn học nước ngoài trong
chương trình môn văn THPT và thực tế giảng dạy ở một số trường THPT ở
Hà Tĩnh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực nghiệm
- Phương pháp điều tra phỏng vấn
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
Chương 2. Một số nguyên tắc, phương pháp rèn luyện kỹ năng mềm
cho học sinh THPT qua dạy học văn học nước ngoài
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm
14
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tính cần thiết của kỹ năng mềm đối với học sinh THPT
1.1.1. Khái niệm kỹ năng mềm
Từ nửa sau thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học công nghệ
diễn ra
mạnh mẽ và sâu rộng. Các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa đang đứng
trước
những thay đổi, phát triển nhanh chóng, tác động rất lớn tới đời sống của con
người. Nhiều vấn đề mới nảy sinh không chỉ ở cấp độ dân tộc, quốc gia mà cả

ở cấp độ quốc tế, nhân loại, buộc con người phải có phương pháp giải quyết
hữu hiệu. Điều đó đòi hỏi con người cần phải có kỹ năng mềm, thích ứng cao
với sự biến đổi của hoàn cảnh và môi trường sống hiện đại.
Kỹ năng mềm là một khái niệm được sử dụng rộng rãi nhằm vào mọi
lứa tuổi trong lĩnh vực hoạt động thuộc các lĩnh vực khác nhau của đời sống
xã hội. Ngay những năm đầu của thập kỷ 90, các tổ chức Liên Hợp Quốc
(LHQ) như WHO (Tổ chức Y tế Thế giới), UNICEF (Quỹ cứu trợ Nhi đồng
LHQ), UNESCO (Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa LHQ) đã chung
sức xây dựng chương trình giáo dục kỹ năng sống cho thanh thiếu niên. Tuy
nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa rõ ràng và đầy đủ.
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là khả năng để có hành vi
thích ứng (adaptive) và tích cực (positive), giúp các cá nhân có thể ứng xử
hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của cuộc sống hằng ngày. Trong khi
đó, Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) quan niệm KNS là cách tiếp cận
giúp thay đổi và hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự cân
bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kỹ năng. Theo Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO), KNS gắn với bốn trụ
cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know) gồm các kỹ năng tư
15
duy phê phán, tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, ra quyết định, nhận thức
được hậu quả …; căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin, ; Học
để sống với người khác (Learning to live together) gồm các kỹ năng xã hội
như: giao tiếp, thương lượng, hợp tác, tự khẳng định, làm việc theo nhóm, thể
hiện sự cảm thông; Học làm người (Learning to be) gồm các kỹ năng cá nhân
như kỹ năng ứng phó với căng thẳng, kiểm soát nhận thức, …; Học để làm
(Learning to do) gồm các kỹ năng thực hiện công việc và các nhiệm vụ như
kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm, …
Phân tích các quan niệm trên, có thể thấy, quan niệm của WHO nhấn
mạnh đến khả năng của cá nhân có thể duy trì trạng thái tinh thần và biết thích
nghi tích cực khi tương tác với người khác và với môi trường của mình. Quan

niệm này mang tích khái quát nhưng chưa thể hiện rõ các kỹ năng cụ thể. Mặc
dù khi phân tích sâu thì thấy tương đối gần với nội hàm kỹ năng sống theo
quan niệm của UNESCO. Quan niệm của UNESCO thể hiện một cách chi
tiết, cụ thể, có nhấn mạnh thêm kỹ năng thực hiện công việc và nhiệm vụ.
Còn quan niệm của UNICEF cho rằng kỹ năng không hình thành, tồn tại một
cách độc lập mà nó hình thành, tồn tại trong mối tương tác qua lại với kiến
thức và thái độ. Kỹ năng mà một người có được phần lớn cũng nhờ có kiến
thức. Việc đề cập thái độ cũng là một góc nhìn hữu ích vì thái độ có tác động
mạnh mẽ đến kỹ năng.
Từ những cách hiểu trên, có thể thấy KNM bao gồm một loạt các kỹ
năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Bản chất của
KNM là kỹ năng tự quản lí bản thân và kỹ năng xã hội cần thiết để cá nhân tự
lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, KNM là khả
năng ứng xử phù hợp và tích cực với bản thân, người khác, xã hội, bao gồm:
các kỹ năng thuộc về trí tuệ cảm xúc (EQ) của con người, như: một nét tính
cách (quản lý thời gian, thư giãn, vượt qua khủng hoảng, sáng tạo và đổi mới),
16
sự tế nhị, kỹ năng ứng xử, thói quen, sự lạc quan, chân thành, kỹ năng làm việc
nhóm Đây là những yếu tố ảnh hưởng đến sự xác lập mối quan hệ với người
khác. Những kỹ năng này là những thứ thường không được học trong nhà
trường, không liên quan đến kiến thức chuyên môn, không thể sờ nắm, nhưng
không phải là kỹ năng đặc biệt mà phụ thuộc chủ yếu vào cá tính của từng
người. Kỹ năng mềm quyết định bạn là ai, làm việc thế nào, là thước đo hiệu
quả trong công việc. Nói một cách khái quát, kỹ năng mềm là những hành vi
mà con người thể hiện để ứng phó với những tình huống diễn ra trong đời sống,
dựa trên những tâm lý cơ bản của tính cách và kinh nghiệm của cá nhân.
1.1.2. Phân loại kỹ năng mềm
Có nhiều cách phân loại kỹ năng mềm. WHO phân loại kỹ năng mềm
thành 3 nhóm: kỹ năng nhận thức (Tự nhận thức, đặt mục tiêu xác định giá trị,
óc tư duy, óc sáng tạo, giải quyết vấn đề, …); kỹ năng cảm xúc (Có trách nhiệm

về cảm xúc của mình, kiềm chế và kiểm soát cảm xúc, điều chỉnh cảm xúc bản
thân,…), kỹ năng xã hội (Giao tiếp - ứng xử, tạo thiện cảm, làm việc nhóm, ).
Theo UNESCO kỹ năng mềm chia thành 2 nhóm: Nhóm thứ nhất bao
gồm các kỹ năng: kỹ năng nhận thức, kỹ năng thể hiện cảm xúc, kỹ năng giao
tiếp, … (kỹ năng xã hội); Nhóm thứ hai gồm: nhận thức về giới tính, nhận thức
về sức khỏe, nhận thức các mối quan hệ xung quanh, … (kỹ năng chuyên biệt)
Theo UNICEF chia kỹ năng mềm thành 3 nhóm: nhóm thứ nhất là kỹ
năng tự nhận thức và sống với chính mình gồm các kỹ năng như: tự nhận thức
và đánh giá bản thân, kỹ năng xây dựng mục tiêu cuộc đời, kỹ năng bảo vệ
bản thân…; nhóm thứ hai: kỹ năng tự nhận thức và sống với người khác, bao
gồm các kỹ năng như: kỹ năng thiết lập quan hệ, kỹ năng hợp tác, kỹ năng
làm việc nhóm…; nhóm thứ ba: kỹ năng ra quyết định và làm việc hiệu quả
bao gồm các kỹ năng như: phân tích vấn đề, nhận thức thực tế, ra quyết định,
ứng xử, giải quyết vấn đề…
17
Trong giáo dục ở Vương quốc Anh, kỹ năng mềm được chia làm 6
nhóm chính, là: hợp tác nhóm; tự quản; tham gia hiệu quả; suy nghĩ, tư duy,
bình luận, phê phán; suy nghĩ sáng tạo; nêu vấn đề và giải quyết vấn đề.
Trong khi đó, tổ chức WHO lại chia kỹ năng mềm thành 5 nhóm lớn là: kỹ
năng giao tiếp; kỹ năng nhận thức; kỹ năng xác định giá trị; kỹ năng ra quyết
định; kỹ năng ứng phó và xử lí căng thẳng. Trong mỗi nhóm kỹ năng lớn này
lại chia thành nhiều kỹ năng nhỏ khác. Chẳng hạn, kỹ năng giao tiếp gồm các
kỹ năng sau: thông cảm, lắng nghe tích cực, bày tỏ và tiếp thu ý kiến, giao
tiếp có lời và không lời, tự khẳng định và từ chối, thương lượng và xử lí mâu
thuẫn, hợp tác và làm việc tập thể, thiết lập mối quan hệ và xây dựng cộng
đồng. Hay như kỹ năng tự nhận thức lại gồm các kỹ năng sau: tự đánh giá,
xác định những điểm mạnh và điểm yếu của bản thân, suy nghĩ tích cực, hình
thành khả năng tự nhận thức về bản thân và cơ thể.
Ở nước ta, trong giáo dục, kỹ năng mềm được phân thành 3 nhóm lớn
dựa theo mối quan hệ. Nhóm thứ nhất là nhóm kỹ năng nhận biết và sống với

chính mình, bao gồm các kỹ năng như: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó
với căng thẳng, tự tin,… Nhóm thứ hai là kỹ năng nhận biết và sống với
người khác. Nhóm này bao gồm những kỹ năng, như: giao tiếp có hiệu quả,
giải quyết mâu thuẫn, thương lượng, hợp tác,… Nhóm thứ ba là nhóm kỹ
năng ra quyết định một cách có hiệu quả. Nhóm này gồm những kỹ năng như:
tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề,
Tổng hợp, phân tích những cách phân loại trên, có thể phân loại kỹ
năng mềm thành các nhóm cơ bản sau:
- Nhóm thứ nhất: Kỹ năng quản lý bản thân, bao gồm một số kỹ năng:
Kỹ năng xây dựng hình ảnh bản thân, kỹ năng xác lập mục tiêu cuộc đời, kỹ
năng đánh giá bản thân, …
- Nhóm thứ hai: Kỹ năng giao tiếp - ứng xử với các mối quan hệ xung
quanh bao gồm một số kỹ năng: Kỹ năng ứng xử trong giao tiếp, kỹ năng thấu
18
cảm, kỹ năng thiết lập và duy trì các mối quan hệ gia đình - xã hội, kỹ năng
kiềm chế cảm xúc, kỹ năng hợp tác, kỹ năng chia sẻ, kỹ năng truyền thông, kỹ
năng giải quyết xung đột, …
- Nhóm thứ ba: Kỹ năng nhận thức các vấn đề liên quan đến cuộc sống
bao gồm một số kỹ năng: Kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề sáng
tạo, kỹ năng phân biệt hành vi lạm dụng và hành vi yêu thương, kỹ năng vượt
qua khó khăn, kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng tổ chức cuộc sống,
Mọi cách phân loại chỉ mang tính tương đối. Trong thực tế, các kỹ năng
không hoàn toàn tách rời, độc lập, mà liên quan chặt chẽ, tương tác lẫn nhau.
1.1.3. Một số kỹ năng mềm cần thiết cho học sinh THPT
- Kỹ năng tự nhận thức
Mỗi cá nhân cần nhận biết và hiểu rõ bản thân, nhận biết được những
mặt mạnh và mặt yếu của mình để tự đánh giá về mình. Khi các cá nhân nhận
thức được khả năng của mình họ sẽ biết sử dụng một cách có hiệu quả và có
khả năng lựa chọn những gì phù hợp với những điều kiện của bản thân, với xã
hội mà họ đang sống.

+ Sự tự nhận thức được năng lực của bản thân và vị trí của mình trong
cộng đồng dẫn đến lòng tự trọng, tự tin.
+ Việc rèn luyện khả năng tự nhận thức, thúc đẩy và phát triển lòng tự
tin, tự trọng là cần thiết trong việc giáo dục kỹ năng mềm.
Đây là một kỹ năng cơ bản của con người, là nền tảng để con người
giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác, có khả năng cảm
thông, chia sẻ với người khác.
- Kỹ năng kiểm soát cảm xúc
Kỹ năng kiểm soát cảm xúc là khả năng con người nhận thức rõ cảm
xúc của mình trong một tình huống nào đó và hiểu được những ảnh hưởng
của cảm xúc đối với bản thân mình và người khác như thế nào, đồng thời biết
19
cách điều chỉnh và thể hiện cảm xúc một cách phù hợp. Kỹ năng xử lí cảm
xúc còn có nhiều tên gọi khác nhau, như: xử lí cảm xúc, làm chủ cảm xúc,
quản lí cảm xúc.
Một người biết kiểm soát cảm xúc sẽ góp phần giảm căng thẳng, giúp
giao tiếp và thương lượng hiệu quả hơn, giúp ra quyết định và giải quyết vấn
đề tốt hơn.
Kỹ năng xử lí cảm xúc cần sự kết hợp với kỹ năng nhận thức, kỹ năng
ứng xử với người khác và kỹ năng ứng phó với căng thẳng, đồng thời góp
phần củng cố các kỹ năng này.
- Kỹ năng ứng phó với căng thẳng
Kỹ năng ứng phó với căng thẳng là khả năng con người bình tĩnh, sẵn
sàng đón nhận những tình huống căng thẳng như một phần tất yếu của cuộc
sống, là khả năng nhận biết sự căng thẳng, hiểu được nguyên nhân, hậu quả
của căng thẳng, cũng như biết cách suy nghĩ và ứng phó một cách tích cực khi
bị căng thẳng. Kỹ năng này có được là nhờ sự kết hợp với các kỹ năng khác,
như: kỹ năng tự nhận thức, kỹ năng kiểm soát cảm xúc, kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng giải quyết vấn đề.
- Kỹ năng giao tiếp

Kỹ năng giáo tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân mình
theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể một cách phù hợp với
hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác
ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ,
ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư
vấn khi cần thiết.
Kỹ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và
điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả.
Kỹ năng giao tiếp là yếu tố cần thiết cho nhiều kỹ năng khác, như bày tỏ
sự cảm thông, thương lượng, hợp tác, giải quyết mâu thuẫn, kiểm soát cảm xúc.
20
- Kỹ năng lắng nghe tích cực
Lắng nghe tích cực là một phần quan trọng của kỹ năng giao tiếp.
Người có kỹ năng lắng nghe tích cực biết thể hiện sự tập trung chú ý và thể
hiện sự quan tâm lắng nghe ý kiến hoặc phần trình bày của người khác (bằng
các cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, nét mặt, nụ cười), biết cho ý kiến phản hồi mà
không vội đánh giá, đồng thời có đối đáp hợp lí trong quá trình giáo dục. Kỹ
năng này có quan hệ mật thiết với kỹ năng giao tiếp, thương lượng, kiềm chế
cảm xúc và giải quyết mâu thuẫn.
- Kỹ năng thể hiện sự cảm thông
Thể hiện sự cảm thông là khả năng có thể hình dung và đặt mình trong
hoàn cảnh của người khác, giúp chúng ta hiểu và chấp nhận người khác vốn là
những người rất khác mình, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ cảm xúc và tình
cảm của người khác, cảm thông với hoàn cảnh hoặc nhu cầu của họ. Kỹ năng
này có thể kết hợp cùng các kỹ năng khác như: tự nhận thức, xác định giá trị,
giao tiếp, giải quyết vấn đề, kiểm soát cảm xúc,
- Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn
Kỹ năng giải quyết mâu thuẫn là khả năng con người nhận thức được
nguyên nhân nảy sinh mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn đó một cách tích
cực, không dùng bạo lực, thỏa mãn được nhu cầu, quyền lợi của các bên và

giải quyết cả mối quan hệ giữa các bên một cách hòa bình. Kỹ năng này là
một dạng đặc biệt của kỹ năng giải quyết vấn đề. Kỹ năng này nên kết hợp
cùng với các kỹ năng giao tiếp, tự nhận thức, ra quyết định, …
- Kỹ năng hợp tác
Sự hợp tác giúp moi người bổ sung hỗ trợ cho nhau tạo nên sức mạnh
trí tuệ, tinh thần và thể chất vượt qua khó khăn, đem lại chất lượng hiệu quả
cao trong công việc.
Kỹ năng hợp tác là khả năng cá nhân biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam
kết và cùng làm việc chung có hiệu quả với những thành viên khác trong nhóm.
21
Biểu hiện của người có kỹ năng hợp tác:
+ Tôn trọng mục đích hoạt động, quyết định chung
+ Biết giao tiếp, đoàn kết, cảm thông, chia sẻ, hỗ trợ…
+ Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân
+ Cùng đồng cam cộng khổ và có trách nhiệm với kết quả chung
Để có được sự hợp tác hiệu quả, chúng ta cần vận dụng tốt nhiều kỹ
năng mềm khác như: tự nhận thức, xác định giá trị, giao tiếp, kiên định, ứng
phó căng thẳng, …
- Kỹ năng giải quyết vấn đề
Kỹ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa
chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn để giải quyết
vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong cuộc sống. Giải quyết vấn đề có liên
quan tới kỹ năng ra quyết định, giao tiếp, tư duy sáng tạo, kiên định,
Kỹ năng giải quyết vấn đề rất quan trọng, giúp con người có thể ứng
phó tích cực và hiệu quả trước những vấn đề, tình huống của cuộc sống.
- Kỹ năng kiên định
Trong cuộc sống, mỗi người đều có thể gặp những tình huống đòi hỏi
phải ra quyết định để yêu cầu người khác làm một điều gì đó cho mình hoặc
bản thân phải nhận lời hay từ chối một điều nào đó mà người khác yêu cầu.
Tuy nhiên không phải ai cũng có thể thực hiện được những điều ấy một cách

dễ dàng.
Kỹ năng kiên định là kỹ năng thực hiện bằng được những gì mình
muốn hoặc biết cách từ chối bằng được những gì mình không muốn với sự
tôn trọng có xem xét tới nhu cầu và quyền của người khác với nhu cầu và
quyền của mình một cách hài hoà, đúng mực. Kiên định là sự cân bằng, dung
hoà giữa tính hiếu thắng, vị kỷ và tính phục tùng, phụ thuộc.
Kỹ năng kiên định rất cần trong cuộc sống. Kỹ năng kiên định sẽ giúp
ta thực hiện được những ước mơ, hoài bão. Người có kỹ năng kiên định chẳng
22
những sẽ tự bảo vệ được bản thân mà còn chống lại được những áp lực tiêu
cực của bạn bè, đồng lứa, tránh được những điều xấu cho mình và gia đình.
Người không có kỹ năng kiên định sẽ bị mất tự chủ, bị xúc phạm, bản thân
luôn bị phụ thuộc hoặc luôn cảm thấy tức giận và thất vọng.
Tuy vậy, cũng cần phân biệt được hiếu thắng, phục tùng và kiên định.
Kiên định khác với hiếu thắng. Bởi hiếu thắng chỉ luôn nghĩ đến quyền và
nhu cầu của mình, không quan tâm đến quyền và nhu cầu của người khác.
Kiên định cũng khác với phục tùng. Bởi phục tùng nghĩa là luôn phụ thuộc
vào người khác, hi sinh cả quyền và nhu cầu chính đáng của bản thân để phục
vụ cho quyền và nhu cầu không chính đáng của người khác. Để có kỹ năng
này, chúng ta cần xác định được các giá trị của bản thân, đồng thời phải kết
hợp tốt với kỹ năng tự nhận thức, giao tiếp, tự tin, …
- Kỹ năng tư duy phê phán
Kỹ năng tư duy phê phán là khả năng phân tích một cách khách quan
và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng, … xảy ra.
Kỹ năng tư duy phê phán rất cần thiết để con người có thể đưa ra được
những quyết định, những hành động phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại
ngày nay, khi con người phải đối mặt với nhiều vấn đề gay cấn của cuộc sống,
luôn phải xử lí nhiều nguồn thông tin đa dạng, phức tạp thì kỹ năng tư duy
phê phán càng trở nên quan trọng đối với mỗi cá nhân.
- Kỹ năng tư duy sáng tạo

Kỹ năng tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề
theo một cách mới, với ý tưởng mới, cách sắp xếp và tổ chức mới; là khả
năng khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan
điểm, sự việc; độc lập trong suy nghĩ. Đây là một kỹ năng quan trọng vì trong
cuộc sống con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc
ngẫu nhiên xảy ra. Khi gặp những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi chúng ta phải có
tư duy sáng tạo để ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp.
23
- Kỹ năng quản lí thời gian
Kỹ năng quản lí thời gian là khả năng con người biết sắp xếp các công
việc theo thứ tự ưu tiên, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm
trong một thời gian nhất định. Kỹ năng này là một trong những kỹ năng quan
trọng trong nhóm kỹ năng làm chủ bản thân. Quản lí thời gian tốt góp phần
rất quan trọng vào sự thành công của cá nhân và nhóm.
- Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin
Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin là một kỹ năng quan trọng giúp
con người có thể có được những thông tin cần thiết một cách đầy đủ, khách
quan, chính xác, kịp thời.
Kỹ năng tìm kiếm và xử lí thông tin cần kết hợp với kỹ năng tư duy phê
phán và kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ, giúp đỡ.
1.2. Những đặc điểm nổi bật của học sinh trung học phổ thông
1.2.1. Đặc điểm tâm, sinh lý
Học sinh THPT nằm trong khoảng tuổi từ 15 đến 18. Đây là giai đoạn
đã trưởng thành về mặt thể lực, nhưng phát triển còn chưa vững chắc, các em
bắt đầu thời kỳ phát triển tương đối êm ả về mặt sinh lý. Sự phát triển của hệ
thần kinh có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức
tạp và các chức năng của não phát triển, cấu trúc của tế bào bán cầu đại não
có những đặc điểm như cấu trúc tế bào não của người lớn, số lượng dây thần
kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của võ não. Điều đó tạo
tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hóa hoạt động phân tích, tổng hợp của võ

bán cầu đại não trong quá trình học tập và rèn luyện.
Nhìn chung, lứa tuổi các em đã phát triển cân đối, khỏe và đẹp, đa số
các em có thể đạt được những khả năng phát triển về cơ thể như người lớn.
Điều đó giúp các em có thể tham gia các hoạt động phong phú, đa dạng, phức
tạp của chương trình giáo dục THPT.
24
Có thể thấy, học sinh phổ thông có những đặc điểm tâm, sinh lý thuận
lợi cho việc rèn luyện kỹ năng mềm qua dạy học văn. Đó là sự nhạy cảm
trong xúc cảm, tình cảm khi tiếp nhận; là khả năng tưởng tượng linh hoạt,
phong phú; ghi nhớ, tái hiện tốt hình tượng nghệ thuật, diễn đạt ý tưởng của
mình tương đối tốt, lưu loát. Các em hiếu kỳ, ham học hỏi, thích tìm tòi sáng
tạo, khám phá cái mới để thỏa mãn nhu cầu nhận thức của mình. Dễ hứng thú
với những vấn đề mới lạ trong tác phẩm văn học.
1.2.2. Sự nhận thức, phát triển của học sinh THPT
Ở học sinh THPT tính chủ định trong nhận thức được phát triển, tri giác
có mục đích đã đạt tới mức cao, quan sát có mục đích, hệ thống và toàn diện.
Tuy nhiên, nếu thiếu sự định hướng của giáo viên, việc quan sát của các em
khó đạt hiệu quả cao. Vì vậy, giáo viên cần quan tâm hướng quan sát của các
em vào những nhiệm vụ nhất định, không vội kết luận khi chưa tích lũy đủ
các sự kiện.
Cùng ở lứa tuổi này các em đã có khả năng tư duy trừu tượng một cách
độc lập sáng tạo. Tư duy của các em chặt chẽ hơn, có căn cứ và nhất quán
hơn, khả năng phản biện đã xuất hiện. Có thể nói nhận thức của học sinh
THPT chuyển dần từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý tính, nhờ tư duy
trừu tượng dựa trên kiến thức các khoa học và vốn sống thực tế của các em đã
tăng dần. Hứng thú học tập của các em gắn liền với khuynh hướng nghề
nghiệp, ý thức học tập đã thúc đẩy sự phát triển tính chủ định trong quá trình
nhận thức và năng lực điều khiển bản thân. Nhờ đó, các em có thể tham gia
hoạt động giáo dục với vai trò chủ thể các hoạt động đó.
Sự phát triển ý thức là một đặc điểm nổi bật trong sự phát triển nhân

cách của học sinh THPT. Nó có ý nghĩa to lớn đối với phát triển tâm lý của
các em. Học sinh THPT có nhu cầu tìm hiểu và đánh giá những đặc điểm tâm
lý của mình: quan tâm sâu sắc tới đời sống tâm lý, phẩm chất nhân cách và
25

×