Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Đánh giá công tác quản lý nhà nước về đất đai trên địa bàn xã Hồng Việt - huyện Hòa An - tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2010-2013.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.44 KB, 65 trang )

§¹I häc Th¸i Nguyªn
Trêng §¹i häc N«ng L©m







NGUYỄN KHÁNH HẠ


Tên đề tài:
"ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐẤT ĐAI
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ HỒNG VIỆT HUYỆN HÒA AN TỈNH CAO
BẰNG GIAI ĐOẠN 2010 - 2013"



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC









Hệ đào tạo


:

Chính quy

Chuyên ngành

:

Quản lý đất đai

Khoa

:

Quản lý tài nguyên

Khóa học
Giảng viên hướng dẫn

:
:

2010 – 2014
Th.S Nguyễn Ngọc Anh
LỜI CẢM ƠN!

Để hoàn thành chương trình đào tạo trong nhà trường thực hiện phương
châm “Học đi đôi với hành”. Mỗi sinh viên ra trường đều cần trang bị cho
mình lượng kiến thức cần thiết, chuyên môn vững vàng. Do vậy mà thực tập
tốt nghiệp là giai đoạn cần thiết đối với mỗi sinh viên trong nhà trường. Qua

đó, hệ thống lại toàn bộ kiến thức đã học và vận dụng lý thuyết vào thực tiễn,
đồng thời giúp sinh viên hoàn thiện hơn về kiến thức luận, phương pháp làm
việc, năng lực công tác nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn sản xuất và nghiên
cứu khoa học.
Từ những cơ sở trên được sự nhất trí của nhà trường, ban chủ nhiệm
khoa Quản lý tài nguyên, em đã tiến hành thực tập tại UBND xã Hồng Việt từ
ngày 12/02/2014 đến ngày 30/4/2014 với đề tài: “Đánh giá công tác quản lý
nhà nước về đất đai trên địa bàn xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao
Bằng giai đoạn 2010-2013”.
Có được kết quả này, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới sự quan
tâm của nhà trường và ban chủ nhiệm khoa, sự tận tình giúp đỡ của thầy giáo
ThS. Nguyễn Ngọc Anh và các thầy, cô giáo trong khoa.
Cùng nhân dịp này, em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các cán bộ
UBND xã, Ban Địa chính xã đã giúp đỡ em trong thời gian em thực tập tại
địa phương.
Do trình độ và thời gian có hạn, lại bước đầu làm quen với phương pháp
nghiên cứu mới, Vì vậy bản báo cáo đề tài tốt nghiệp của em còn nhiều thiếu
sót. Em rất mong nhận được sự góp ý quý báu của các thầy cô giáo, cùng toàn
thể các bạn để báo cáo đề tài tốt nghiệp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hồng Việt, ngày 30 tháng 4 năm 2014
Sinh viên


Nguyễn Khánh Hạ

DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT

STT


TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT CHÚ GIẢI
1 GCNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
2 GCN Giấy chứng nhận
3 HĐND Hội đồng nhân dân
4 UBND Ủy ban nhân dân
5 CV-TTg Công văn Thủ tướng
6 NĐ-CP Nghị định Chính phủ
7 QĐ-TTg Quyết định của Thủ tướng
8 CT-TTg Chỉ thị của Thủ tướng
9 TT-BTNMT Thông tư Bộ Tài nguyên và Môi trường
10 TN&MT Tài nguyên và Môi trường
11 QHKHSDĐ Quy hoạch kế hoạch sử dụng đất
12 QSD Quyền sử dụng
13 VPĐKQSDĐ Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
14 ĐVT Đơn vị tính







DANH MỤC BẢNG BIỂU

Trang
Bảng 4.1. Hiện trạng sử dụng đất của xã Hồng Việt năm 2013 33
Bảng 4.2. Tình hình quản lý sử dụng hồ sơ địa giới hành chính của xã Hồng
Việt…………………………………………………………………………35
Bảng 4.3. Kết quả đánh giá chất lượng bản đồ dùng cho công tác quản lý đất
đai của xã Hồng Việt giai đoạn 2010 - 2013 35

Bảng 4.4. Tổng hợp nhu cầu tăng giảm diện tích sử dụng đất trong kỳ quy
hoạch của xã Hồng Việt giai đoạn 2010 - 2013 37
Bảng 4.5. Kết quả thực hiện công tác thu hồi đất của xã Hồng Việt giai đoạn
2010 – 2013 ………………………………………………………………….40
Bảng 4.6. Công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của xã Hồng Việt
giai đoạn 2010 – 2013 (ĐVT: bộ hồ sơ)…………………………………….42
Bảng 4.7. Biến động đất đai năm 2013 so với năm 2010 của xã Hồng Việt 44
Bảng 4.8. Tổng hợp kết quả giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo của xã Hồng
Việt giai đoạn 2010 - 2013………………………………………………….48











MỤC LỤC

Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục đích nghiên cứu đề tài 2
1.3. Yêu cầu của đề tài 2
1.4. Ý nghĩa của đề tài 2
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
2.1. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quản lý nhà nước về đất đai 3

2.1.1. Cơ sở lý luận xác lập quyền sở hữu nhà nước về đất đai 3
2.1.2. Cơ sở pháp lý của công tác quản lý nhà nước về đất đai 3
2.2. Tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam và trên thế
giới 4
2.2.1. Tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai trên thế giới 4
2.2.2. Tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại Việt Nam 4
2.2.2.2. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến ngày ban hành Hiến
pháp 1992 8
2.3. Sơ lược tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại tỉnh Cao Bằng
và địa phương 14
2.3.1. Sơ lược tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại Cao Bằng . 14
2.3.2. Sơ lược tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại huyện Hòa
An 17
2.3.3. Sơ lược tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại xã Hồng Việt 17
Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 19
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 19
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 19
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 19
3.2. Địa điểm và thời gian tiến hành 19
3.3. Nội dung nghiên cứu 19
3.3.1. Đánh giá sơ lược về tình hình cơ bản của xã Hồng Việt - huyện Hòa An
- tỉnh Cao Bằng 19
3.3.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất của xã Hồng Việt từ năm 2010 đến
năm 2013 19
3.4. Phương pháp nghiên cứu 20
3.3.1. Phương pháp nội nghiệp 20
3.3.2. Phương pháp ngoại nghiệp 20
3.3.3. Phương pháp thống kê, phân tích và tổng hợp số liệu 20
Phần 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 21
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của xã Hồng Việt giai đoạn 2010-2013

21
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 21
4.1.1.1. Vị trí địa lý 21
4.1.1.2. Địa hình, địa mạo. 21
4.1.1.3. Khí hậu 22
4.1.1.4. Thủy văn 23
4.1.1.5. Các nguồn tài nguyên. 23
4.1.1.6. Cảnh quan môi trường. 26
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 27
4.1.2.1. Điều kiện kinh tế 27
4.1.2.2. Điều kiện văn hóa - xã hội: 29
4.1.2.3. Giáo dục: 30
4.1.2.4. Y Tế 30
4.1.2.5. Văn hóa - thể thao 30
4.1.3. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội 31
4.1.3.1. Thuận lợi 31
4.1.3.2. Hạn chế 31
4.2.1. Hiện trạng sử dụng đất của xã Hồng Việt năm 2013 32
4.2.2. Đánh giá công tác quản lý nhà nước về đất đai xã Hồng Việt huyện
Hòa An tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2010 - 2013 34
4.2.2.1. Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất
đai và tổ chức thực hiên các văn bản đó 34
4.2.2.2. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính 34
4.2.2.3. Khảo sát, đo đạc, đánh giá phân hạng đất, lập bản đồ địa chính, bản
đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất 36
4.2.2.4. Công tác quản lý quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 37
4.2.2.5. Quản lý việc giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất và chuyển mục đích
sử dụng đất 39
4.2.2.6. Đăng ký quyền sử dụng đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy

chứng nhận quyền sử dụng đất 41
4.2.2.7. Thống kê, kiểm kê đất đai 42
4.2.2.8. Quản lý tài chính về đất 45
4.2.2.9. Quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường
bất động sản 45
4.2.2.10. Quản lý giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất 45
4.2.2.11. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định về pháp
luật đất đai và xử lý các vi phạm pháp luật đất đai 47
4.2.2.12. Công tác giải quyết tranh chấp về đất đai, giải quyết đơn thư khiếu
nại, tố cáo, các vi phạm trong quản lý và sử dụng đất 47
4.2.2.13. Quản lý các hoạt động dịch vụ công về đất. 49
4.3. Đánh giá chung về công tác quản lý đất đai của xã giai đoạn 2010 - 2013 . 49
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 54
5.1. Kết luận 54
5.2. Kiến nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56






1
Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là tư liệu sản
xuất đặc biệt, là cơ sở của sản xuất nông lâm nghiệp, là thành phần quan trọng

hàng đầu của môi trường sống. Đất đai còn là nguồn tài nguyên có hạn về số
lượng, cố định về vị trí trong không gian khiến các vấn đề trong việc sử dụng
đất đai càng ngày càng phức tạp, đòi hỏi sự quản lý một cách hợp lý, sử dụng
hiệu quả, tiết kiệm và bền vững.
Ở nước ta hiện nay, trước tình hình phát triển kinh tế cùng sự gia tăng dân
số, sự phát triển đô thị và quá trình đô thị hóa đã làm cho nhu cầu về nhà ở,
đất xây dựng các khu công nghiệp và các công trình công cộng ngày một tăng
cao. Đây cũng là vấn đề nan giải không chỉ của nước ta mà còn của các nước
đang phát triển khác trên thế giới. Công tác quản lý đất đai ở nhiều nơi còn
buông lỏng hoặc chưa phù hợp do trình độ văn hóa thấp, lạc hậu, đói nghèo
và sử dụng đất chưa hợp lý. Chính vì thế, vấn đề quản lý và sử dụng đất đai
ngày một trở nên quan trọng hàng đầu đối với đời sống người dân nói riêng và
sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia nói chung.
Việc ban hành và đổi mới, sửa đổi Luật đất đai của nước ta đã nói lên sự
quan tâm thích đáng của Nhà nước đối với vấn đề quản lý và sử dụng đất hợp
lý. Từ Luật đất đai 1988; Luật đất đai 1993; Luật sửa đổi và bổ sung một số
điều của Luật đất đai 1993 năm 1998; Luật sửa đổi và bổ sung một số điều
của Luật đất đai 1993 năm 2001 và Luật đất đai 2003, Nhà nước đã từng bước
đưa pháp luật đất đai phù hợp hơn với thực tiễn phát triển của nền kinh tế
trong thời kỳ đổi mới. Để công tác quản lý đất đai theo đúng pháp luật cần sự
chỉ đạo và giám sát sát sao ngay từ cấp dưới (xã, phường, thị trấn).
Từ yêu cầu thực tiễn nêu trên, được sự nhất trí của Ban giám hiệu Nhà
trường và sự phân công của khoa Quản lý tài nguyên - Trường đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, dưới sự hướng dẫn của thầy giáo - Th.S Nguyễn Ngọc Anh,
em tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá công tác quản lý nhà nước về đất đai
tại xã Hồng Việt, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng giai đoạn 2010 - 2013”.

2
1.2. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Đánh giá công tác quản lý nhà nước về đất đai xã Hồng Việt, huyện

Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
- Chỉ ra những thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý nhà nước về
đất đai xã Hồng Việt.
- Đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
đất đai của xã Hồng Việt.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Thể hiện rõ các nội dung quản lý nhà nước về đất đai
- Các số liệu điều tra, thu thập, phản ánh trung thực, khách quan
- Đưa ra những ý kiến đề xuất phải có tình khả thi phù hợp với thực trạng
của địa phương và quy định của Nhà nước về quản lý đất đai.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa về học tập: Nghiên cứu đề tài là cơ hội tốt để sinh viên tiếp cận
và làm quen với công tác quản lý, quy hoạch về đất đai ngoài thực địa, đồng
thời củng cố thêm phần lý thuyết đã được học ở trường, lớp.
- Ý nghĩa thực tế: Đề tài đánh giá tình hình quản lý nhà nước về đất đai
của xã Hồng Việt, từ đó đưa ra những giải pháp giúp cho công tác quản lý nhà
nước về đất đai của xã Hồng Việt được tốt hơn.











3
Phần 2

TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý về quản lý nhà nước về đất đai
2.1.1. Cơ sở lý luận xác lập quyền sở hữu nhà nước về đất đai
Khi xã hội loài người hình thành bằng bàn tay trí óc của mình mà cuộc
sống của con người ngày càng pháp triển, của cải dư thừa ngày càng nhiều.
Lúc này trong xã hội xuất hiện một lớp người tìm cách chiếm đoạt của cải dư
thừa, đồng thời chiếm luôn cả đất đai để phục vụ lợi ích riêng của mình. Họ
trả công cho người làm theo diện tích, chất lượng đất. Yêu cầu đặt ra cho cả
xã hội là phải biết được diện tích đất, chủ sử dụng đất… từ đó công tác địa
chính đã ra đời. Công tác địa chính ngày càng phát triển theo sự phát triển của
đất nước và được điều chỉnh bởi pháp luật Nhà nước. Sự biểu hiện của công
tác địa chính trong các thời kỳ lịch sử khác nhau cũng khác nhau. Ở Việt Nam
đã tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau về đất đai như: Sở hữu Nhà vua, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân… nhưng do đặc thù riêng của nền nông nghiệp
lúa nước, của lịch sử chống giặc ngoại xâm… mà sở hữu Nhà nước về đất đai
vẫn là chủ đạo.
Qua quá trình phát triển của Địa chính Việt Nam ta thấy, ngành Địa
chính từ chỗ chỉ có chức năng thuế khóa, quá trình phát triển lịch sử xã hội đã
trở thành một ngành hoàn thiện và có tầm quan trọng như ngày nay.
2.1.2. Cơ sở pháp lý của công tác quản lý nhà nước về đất đai
Ở nước ta quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung bao cấp sang
nền kình tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, đã và đang đặt ra một yêu
cầu khách quan là phải xây dựng và hoàn thiện chế độ sở hữu đất đai cho phù
hợp với cơ chế mới.
Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của đất đai với chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, Nhà nước đã xây dựng một hệ thống chính
sách đất đai tạo hành lang pháp lý trong quản lý và sử dụng đất trên phạm vi
cả nước. Thông qua hiến pháp, pháp luật đất đai, Nhà nước thực hiện quyền
sở hữu về đất đai bằng việc xác lập các chế độ pháp lý về quản lý của các cơ

quan quyền lực.

4
Luật Đất đai đầu tiên của nước ta ra đời năm 1988, là tiền đề đưa đất
đai vào sử dụng một cách có nền nếp. Sau đó, do nền kinh tế phát triển, trên
thực tế phát sinh nhiều vấn đề mà luật đất đai năm 1988 không còn phù hợp.
Năm 1993 Luật Đất đai sửa đổi bổ sung ra đời và đến năm 1998, Nhà nước lại
ban hành luật sửa đổi bổ sung của Luật Đất đai năm 1993; năm 2001 sửa đổi
bổ sung của Luật Đất đai năm 1998; Luật Đất đai năm 2003.
Để cụ thể hóa Luật Đất đai trên, Nhà nước ta ban hành các Nghị định,
Thông tư, Chỉ thị… nhằm hướng dẫn thực hiện nội dung quản lý nhà nước về
đất đai cụ thể.
Như vậy thông qua hiến pháp, pháp luật và hệ thống các văn bản dưới
luật. Nhà nước ta đã thiết lập một cơ chế quản lý đất đai từ Trung ương đến
địa phương để đảm bảo đất đai được sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và
bền vững.
2.2. Tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai ở Việt Nam và trên
thế giới
2.2.1. Tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai trên thế giới
Với mỗi nền văn minh chuyên chính, các quan hệ về đất đai đều có một
đặc thù riêng rất đa dạng và phức tạp, xuất phát trên cơ sở chế độ sở hữu đất
đai tùy theo mỗi kiểu nhà nước. Ở chế độ khác nhau có quan niệm khác nhau
về sở hữu tư liệu nói chung và đất đai nói riêng. Đất đai đã từng là phương
tiện bóc lột của giai cấp thống trị đối với các giai cấp và tầng lớp bị trị trong
các chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Dưới các chế độ
này đất đai thuần túy là một bất động sản mà chủ sở hữu có quyền trao đổi,
mua bán, biếu tặng… như mọi tài sản thông thường khác. Đất đai thuộc quyền
sở hữu của các tầng lớp thống trị nên các quan hệ đất đai không nằm trong sự
điều chỉnh của các quy phạm pháp luật đất đai mà do các quy phạm pháp luật
về dân sự điều chỉnh.

2.2.2. Tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại Việt Nam
2.2.2.1. Thời kỳ phong kiến và pháp thuộc
*Thời kỳ phong kiến:
Ngay từ khi hình thành và xây dựng các Nhà nước phong kiến Việt
Nam đều đã xác lập quyền sở hữu tối cao về đất đai thuộc nhà vua. Từ thời

5
nhà Đinh đến Tiền Lê bắt đầu thực hiện một số chính sách đất đai nhằm
khẳng định quyền sở hữu tối cao của Nhà nước, đảm bảo lợi ích kinh tế cho
các quan tướng cao cấp nên đặc trưng của chính sách ruộng đất thời này là:
Hình thành một bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu trực tiếp của Nhà nước với
tên "ruộng tịch điền" (ruộng mà vua đặt chân vào cày để khuyến khích sản
xuất nông nghiệp). Một số quan lại có công với triều đình (dẹp loạn 12 xứ
quân) được vua cấp cho một vùng nào đó để hưởng thuế gọi là “thực ấp”.
Dưới thời nhà Lý - nhà Trần, bắt đầu sự phát triển của chế độ phong
kiến trung ương tập quyền. Nhà nước áp đặt quyền sở hữu tối cao của Nhà
nước lên tất cả các loại ruộng đất (Nguyễn Đức Khả, 2003). Nhà vua chấp
nhận 3 hình thức sở hữu đất đai: Sở hữu của nhà vua, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân. Sở hữu của nhà vua được coi như sở hữu nhà nước bao gồm ruộng
đất công, ruộng đất phong cho các quan lại. Các loại ruộng đất này đều giao
cho nông dân canh tác và nộp tô thuế. Nếu đất công thì toàn bộ tô nộp vào
công quỹ nhà vua, nếu ruộng đất phong cho quan lại thì một phần tô nộp cho
quan lại được phong và một phần nộp vào công quỹ nhà vua.
Cuối thế kỷ 14, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm 1397, dưới sự chi
phối của Hồ Quý Ly, nhà Trần đã phải ban hành chính sách "Hạn danh điền"
để thu hồi ruộng đất cho Nhà nước. Theo đó, mỗi người không quá 10 mẫu
ruộng, trừ Đại Vương và Trưởng Công chúa (Nguyễn Đức Khả, 2003).
Theo Nguyễn Đức Khả (2003), năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, cùng với
việc phong thưởng ruộng đất cho các công thần và cấp lộc điền ông còn cấp
đất ở cho các công thần, vương tôn, quý tộc, quan lại (cho đến cửu phẩm)

trong kinh thành. Thời kỳ này các quan phủ đã tiến hành kiểm Kế đất đai để
lập sổ sách (địa bạ) từ đó thực hiện chính sách phân phối lại ruộng công,
ruộng bỏ hoang cho binh lính và nông dân. Năm 1483, "Quốc triều Hình luật"
(còn gọi là Luật Hồng Đức) là bộ luật đầu tiên của nước ta được ban hành
gồm 6 quyển có 722 điều, trong đó có 59 điều nói về ruộng đất (lúc mới ban
hành có 32 điều quy định về ruộng đất). Tinh thần chung của "Quốc triều
Hình luật" khi điều chỉnh quan hệ đất đai là bảo vệ nghiêm ngặt chế độ ruộng
đất công; bảo vệ quyền sở hữu tư nhân về ruộng đất; quy định việc mua bán,

6
thừa kế, cầm cố ruộng đất; quy định trách nhiệm của quan lại trong việc quản
lý ruộng đất và nghĩa vụ của các chủ ruộng đất.
Từ khi Lê Lợi lên ngôi đã tiến hành đo đạc ruộng đất nhưng mãi cho tới
cuối triều Hậu Lê vẫn chưa hoàn thành. Lúc đầu, việc đo đạc giao cho các
quan huyện thực hiện, sau đó tiến hành lập các đoàn từ kinh đô xuống tận địa
phương tiến hành cho chính xác hơn. Nhà Lê cũng khuyến khích việc khẩn
hoang lập ấp phát triển thuỷ lợi ở miền Bắc, phát triển đồn điền ở phía Nam.
Sau này, do cuộc chiến tranh giành quyền lực của các phe phái phong kiến,
chiến tranh liên miên giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn nên vấn đề ruộng đất
không được quan tâm. Lúc đó, Vua Lê là bù nhìn nên nông dân đói khổ,
ruộng đất bỏ hoang, mất mùa, bạo động của nông dân nổ ra ở khắp nơi. Đến
đầu thế kỷ 18, chế độ tư hữu ruộng đất chiếm ưu thế trong xã hội, ruộng đất
tập trung vào tay địa chủ, quan lại, cường hào.
Năm 1789, khởi nghĩa Tây Sơn kết thúc, người anh hùng áo vải Quang
Trung khi lên ngôi vua đã ban bố chiếu khuyến nông nhằm "phục hồi dân
phiêu tán, khai khẩn đất bỏ hoang" chính sách quân điền sửa đổi, bảo đảm cho
nông dân có đủ ruộng để cày trên cơ sở tịch thu ruộng đất của bọn phản động
và ruộng đất bị bỏ hoang quá hạn định giao cho làng xã quản lý.
Theo Nguyễn Đình Đầu (1994), sau khi Nguyễn ánh lên ngôi (vua Gia
Long), suốt từ năm 1805 đến 1 836, nhà Nguyễn hoàn tất bộ địa bạ của

18.000 xã từ mục Nam Quan đến mũi Cà Mau, bao gồm 10.044 tập chia thành
3 bản: bản Giáp lưu ở Bộ hộ thuộc kinh thành Huế, bản Ất để ở dinh Bố chính
ở tỉnh và bản Bính để ở xã. Hiện nay chỉ còn lại bản Giáp của 16.000 xã được
lưu ở Huế (thất lạc mất 2.000 xã). Trong địa bạ ghi rõ thửa đất thuộc quyền sở
hữu của ai, các hướng giáp đâu, sử dụng làm gì, quan điền quan thổ hay ruộng
tư, loại hạng ruộng đất, kích thước bao nhiêu. Nhược điểm của địa bạ giai
đoạn này là:
-Đơn vị đo lường không thống nhất (từ 0,36 đến 0,52 m) nên khó quản
lý và không chính xác; Địa bạ không có bản đồ kèm theo nên khi sử dụng
phải tra cứu ngoài thực địa; Địa bạ không được tu sửa nên nhận diện thửa đất
rất khó khăn (mặc dù có quy định 5 năm đại tu - chỉnh lý một lần).

7
Ngay trong những năm đầu trị vì đất nước, Nguyễn ánh đã ban hành bộ
luật thứ hai của nước ta mang tên "Hoàng Việt Luật lệ" (còn gọi là Bộ luật
Gia Long). Trong bộ luật này có 14 điều tập trung bảo vệ chế độ sở hữu ruộng
đất, đảm bảo việc thu thuế. Thực chất, các điều luật này nhằm bảo vệ sở hữu
ruộng đất theo hướng quốc hữu hoá kết hợp với hạn chế tư hữu, tăng cường
các biện pháp duy trì, bảo vệ và mở rộng loại hình ruộng đất thuộc sở hữu
công xã nhưng vẫn tôn trọng và bảo vệ ruộng đất tư và tài sản liên quan đến
ruộng đất tư; đồng thời cũng quy định việc mua bán, cầm cố, thừa kế ruộng
đất.Nhà Nguyễn đã rất quan tâm đến việc khai khẩn đất hoang. Nguyễn Công
Trứ là người đã có công phát triển doanh điền ở Tiền Hải (Thái Bình), Kim
Sơn (Ninh Bình), Hoành Thu (Nam Định), Quảng Yên (Quảng Ninh); từ năm
1828 đến 1839 ông đã mở được 45.990 mẫu (Vũ Ngọc Khánh, 1983). Nguyễn
Tri Phương đã tổ chức khai hoang, lập đồn điền ở cả 6 tỉnh Nam kỳ với 21 cơ
lính (mỗi cơ có 500 lính). (Nguyễn Khắc Thái Sơn,2007)
*Thời kỳ Pháp thuộc:
Sau khi xâm chiếm nước ta, thực dân Pháp đã lo ngay đến vấn đề ruộng
đất. Thực dân Pháp chia đất nước ta thành 3 kỳ. Mỗi kỳ thực dân Pháp thực

hiện một chế độ cai trị khác nhau. Mỗi làng xã có một chưởng bạ phụ trách
điền địa.
- Nam kỳ là chế độ quản thủ địa bộ;
- Bắc kỳ và Trung kỳ là chế độ quản thủ địa chính.
Pháp cũng đã tiến hành xây dựng 3 loại bản đồ: bản đồ bao đạc, bản đồ
giải thửa và phác hoạ giải thửa. Các loại bản đồ thời kỳ này được lập với
nhiều tỷ lệ khác nhau từ 1/200 đến 1/10.000 (Nguyễn Thúc Bảo, 1985).
Thực dân Pháp chú trọng phát triển chế độ sở hữu lớn về ruộng đất ở
Nam Kỳ, duy trì chế độ công điền và chế độ sở hữu nhỏ ở Bắc Kỳ và Trung
Kỳ. Tổ chức hệ thống quản lý đất đai trên lãnh thổ Việt Nam theo 3 cấp: Cơ
quan quản lý Trung ương là Sở Địa chính thuộc Thống sứ Bắc Kỳ, Khâm sứ
Trung Kỳ và Thống đốc Nam Kỳ, về sau trực thuộc Phủ Toàn quyền Đông
Dương; Cơ quan cấp tỉnh là Ty Địa chính; cấp cơ sở làng xã có nhân viên địa
chính là chưởng bạ ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và hương bộ ở Nam Kỳ. Thực dân
Pháp đã tiến hành đo đạc bản đồ địa chính từ năm 1871 ở Nam Kỳ, sau đó

8
công việc đo đạc được triển khai ra khắp lãnh thổ. Các bản đồ được xây dựng
để thành lập hồ sơ địa chính phục vụ cho việc thu thuế, quản lý đất đai.
2.2.2.2. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến ngày ban hành Hiến
pháp 1992
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mở ra một kỷ nguyên
mới của nước Việt Nam, kỷ nguyên dân tộc độc lập, dân quyền, dân chủ.Trải
qua gần 65 năm, kể từ ngày 03/10/1945 cho đến nay, ngành Quản lý đất đai
Việt Nam đã trưởng thành và phát triển qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau
với cơ cấu tổ chức, tên gọi khác nhau. Có thể tóm tắt lịch sử quá trình hình
thành và phát triển của Ngành theo các giai đoạn sau:
* Giai đoạn 1945 - 1959
Sau khi giành được độc lập, cơ quan quản lý đất đai của Phủ Toàn
quyền Đông Dương là Sở Trước bạ - Văn tự - Quản thủ điền thổ và Thuế

Trực thu được Bộ Tài chính tiếp nhận (Sắc lệnh số 41 ngày 03 tháng 10 năm
1945 của Chủ tịch nước). Sau đó ngành Địa chính được thiết lập (Sắc lệnh số
75 ngày 29 tháng 5 năm 1946 của Chủ tịch nước) với tên gọi Nha Trước bạ -
Công sản - Điền thổ. Kèm theo đó là hệ thống các đơn vị trực thuộc ở 03 cấp
tỉnh, huyện, xã nhằm duy trì, bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất và thu thuế điền
thổ. Đến năm 1953 do yêu cầu của kháng chiến, các Ty Địa chính được sáp
nhập vào Bộ Canh nông, rồi trở lại Bộ Tài chính để phục vụ mục đích thu
thuế nông nghiệp.
Cải cách ruộng đất năm 1953 - 1958 đã mang lại sự khởi sắc cho ngành
Địa chính. Đứng đầu là Sở Địa chính thuộc Bộ Tài chính, hệ thống các cơ
quan ngành dọc của Sở trực thuộc Ủy ban hành chính các cấp, có nhiệm vụ
phối hợp với các cơ quan khác thực hiện kế hoạch hóa và hợp tác hóa nông
nghiệp nông thôn.
Như vậy, từ 1945 đến 1959 hoạt động của ngành Quản lý đất đai chủ
yếu là hình thành hệ thống cơ quan quản lý đất đai trong chế độ mới với chức
năng, nhiệm vụ bảo vệ chế độ sở hữu ruộng đất và thu thuế điền thổ. Trong
những năm kháng chiến chống Pháp, ngành Địa chính đã có một số thay đổi
về hoạt động góp phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ huy động thuế nông
nghiệp phục vụ kháng chiến, kiến quốc. Sau thắng lợi của cuộc Cải cách

9
ruộng đất ở miền Bắc (1953 - 1958), ngành Địa chính đã thực hiện tốt các
nhiệm vụ: tổ chức đo đạc, lập bản đồ giải thửa và sổ sách địa chính để nắm
diện tích ruộng đất, phục vụ việc kế hoạch hóa và hợp tác hóa nông nghiệp,
tính thuế ruộng đất, xây dựng đô thị.
* Giai đoạn 1960 - 1978
Do sự phát triển quan hệ ruộng đất ở nông thôn và củng cố quan hệ sản
xuất Xã hội chủ nghĩa, ngành Quản lý ruộng đất được thiết lập (Nghị định số
70-CP ngày 09 tháng 12 năm 1960 và Nghị định số 71-CP ngày 09 tháng 12
năm 1960 của Hội đồng Chính phủ), chuyển từ Bộ Tài chính sang Bộ Nông

nghiệp với nhiệm vụ quản lý mở mang, sử dụng và cải tạo ruộng đất trong
nông nghiệp. Quản lý ruộng đất bao gồm 3 nội dung chủ yếu: Lập bản đồ, địa
bạ về ruộng đất, thường xuyên chỉnh lý bản đồ và địa bạ cho phù hợp với sự
thay đổi về hình thể ruộng đất, về quyền sở hữu, sử dụng ruộng đất, về tình
hình canh tác và cải tạo ruộng đất; Thống kê diện tích, phân loại chất đất;
Nghiên cứu xây dựng các luật lệ, thể lệ về quản lý ruộng đất trong nông
nghiệp và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các luật lệ, thể lệ ấy. Hệ thống
quản lý ruộng đất được tổ chức thành 4 cấp: Trung ương là Vụ Quản lý
ruộng đất; cấp tỉnh là Phòng Quản lý ruộng đất; cấp huyện là Bộ phận Quản
lý ruộng đất; cấp xã là Cán bộ quản lý ruộng đất.
Tóm lại, trong giai đoạn 1960 - 1978, ngành Quản lý ruộng đất đã phát
triển hệ thống bộ máy và đội ngũ cán bộ từ Trung ương tới địa phương, mở
rộng các nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Cơ quan quản lý ruộng đất có
nhiệm vụ chủ yếu là giúp Bộ Nông nghiệp “quản lý việc mở mang, sử dụng
và cải tạo ruộng đất trong nông nghiệp”. Ngành Quản lý ruộng đất đã có
những đóng góp to lớn trong việc mở rộng và sử dụng có hiệu quả diện tích
đất nông nghiệp, xây dựng kinh tế hợp tác xã và phát triển nông thôn.
* Giai đoạn từ 1979 đến nay
Để tăng cường công tác quản lý đất đai, thống nhất các hoạt động quản
lý đất đai vào một hệ thống cơ quan chuyên môn, năm 1979, Tổng cục Quản
lý ruộng đất được thành lập - "Tổng cục Quản lý ruộng đất là cơ quan trực
thuộc Hội đồng Bộ trưởng, thống nhất quản lý nhà nước đối với toàn bộ
ruộng đất trên lãnh thổ cả nước nhằm phát triển sản xuất, bảo vệ đất đai, bảo

10
vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả cao đối với tất cả các loại
đất" (Nghị quyết số 548/NQQH ngày 24 tháng 5 năm 1979 của Ủy Ban
Thường vụ Quốc hội). Cơ quan quản lý đất đai ở địa phương được thành lập
theo 03 cấp:
- Cấp tỉnh, có Ban Quản lý ruộng đất trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp

tỉnh. Sau Luật Đất đai năm 1987 cho tới năm 1993 hầu hết các Ban Quản lý
ruộng đất trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh đã chuyển thành Chi cục Quản
lý đất đai hoặc Chi cục Quản lý ruộng đất trực thuộc Sở Nông - Lâm nghiệp;
- Cấp huyện, có Phòng Quản lý ruộng đất trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp
huyện, một số địa phương khu vực đô thị thành lập Phòng Quản lý nhà đất
hoặc Phòng Nhà đất; từ năm 1988 - 1994, Phòng Quản lý ruộng đất sáp nhập
vào các Phòng Nông Lâm nghiệp hoặc Phòng Kinh tế;
- Cấp xã, có Cán bộ quản lý ruộng đất chuyên trách. Trước yêu cầu về
tổ chức lại các cơ quan quản lý nhà nước và tăng cường công tác quản lý đất
đai, năm 1994 Tổng cục Quản lý ruộng đất và Cục Đo đạc và Bản đồ Nhà
nước được hợp nhất và tổ chức lại thành Tổng cục Địa chính (Nghị định số
12/CP ngày 22 tháng 02 năm 1994 của Chính phủ). Chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Địa chính được quy định tại Nghị
định số 34/CP ngày 23 tháng 4 năm 1994 của Chính phủ, theo đó Tổng cục
Địa chính là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước
về đất đai và đo đạc - bản đồ trên phạm vi cả nước. Ngay sau khi thành lập
Tổng cục Địa chính, ở địa phương các Sở Địa chính được thành lập trên cơ sở
Ban Quản lý ruộng đất và trực thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chi cục Quản
lý ruộng đất hoặc Chi cục Quản lý đất đai. Một số thành phố lớn thành lập Sở
Địa chính - Nhà đất. Tại cấp huyện, từ năm 1995 cơ quan quản lý đất đai là
Phòng Địa chính (hoặc Phòng Địa chính - Nhà đất) trực thuộc Uỷ ban nhân
dân cấp huyện. Tại cấp xã, có Cán bộ Địa chính xã (hoặc phường, thị trấn) và
thường kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ quản lý về xây dựng.
Theo định hướng thành lập các Bộ đa ngành, năm 2002 Bộ Tài nguyên
và Môi trường được thành lập (Nghị quyết số 02/2002/QH11 của Quốc hội
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ nhất ngày 05
tháng 8 năm 2002 và và Nghị định số 91/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm

11
2002 của Chính phủ). Trong cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và môi trường

có 2 đơn vị chuyên trách quản lý nhà nước về đất đai là Vụ Đất đai và Vụ
Đăng ký và Thống kê đất đai. Ngay sau đó, tại địa phương các Sở Tài
nguyên và Môi trường được thành lập trên cơ sở sáp nhập Sở Địa chính với
các đơn vị quản lý nhà nước về môi trường, địa chất khoáng sản, tài nguyên
nước. Chức năng quản lý nhà nước về đất đai ở cấp tỉnh do một số đơn vị cấp
phòng trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện. Tại cấp xã, có Cán
bộ Địa chính xã (hoặc phường, thị trấn) và thường kiêm nhiệm thêm nhiệm
vụ quản lý về xây dựng và một số chức năng quản lý nhà nước khác thuộc
lĩnh vực tài nguyên môi trường.
Để đổi mới hoạt động quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường,
năm 2008, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi
trường được quy định cụ thể hơn - Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan
của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong các lĩnh vực: đất
đai; tài nguyên nước; tài nguyên khoáng sản, địa chất; môi trường; khí tượng,
thuỷ văn; đo đạc, bản đồ; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo;
quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý
của Bộ (Nghị định số 25/2008/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2008 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tài
nguyên và Môi trường).
Theo Quyết định số 134/2008/QĐ-TTg ngày 02 tháng 10 năm 2008 của
Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục Quản lý đất đai được thành lập, là cơ quan
trực thuộc Bộ Tài nguyên và Môi trường, để tập trung các hoạt động quản lý
nhà nước về đất đai ở cấp Trung ương về một đầu mối chuyên trách. Tổng cục
Quản lý đất đai có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và
Môi trường quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước; thực hiện các
dịch vụ công theo quy định của pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu:
- Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến
lược, chương trình quốc gia, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án về quản lý và
sử dụng đất đai để ban hành, phê duyệt theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành, phê duyệt: quyết định, chỉ thị, thông tư,

tiêu chuẩn quốc gia, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia, định mức kinh tế - kỹ thuật

12
và định mức sử dụng đất. Chỉ đạo, kiểm tra và chịu trách nhiệm tổ chức thực
hiện các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, chương
trình quốc gia, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án về quản lý và sử dụng đất
đai sau khi được phê duyệt.
- Tổ chức triển khai thực hiện trên phạm vi toàn quốc đối với các nhiệm
vụ: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; đăng ký và thống kê đất đai; giá đất; về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; về phát triển quỹ đất,
quản lý và phát triển thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động
sản; lưu trữ và thông tin đất đai; về thanh tra, kiểm tra, giải quyết tranh chấp,
khiếu nại, tố cáo; hợp tác quốc tế và nhiều nhiệm vụ chuyên môn khác
Về cơ cấu tổ chức bộ máy, đến nay Tổng cục Quản lý đất đai có 14 đơn vị
trực thuộc, trong đó có 9 đơn vị quản lý nhà nước, 5 đơn vị sự nghiệp (bao
gồm 2 đơn vị sự nghiệp mới được bổ sung là: Trung tâm Đào tạo và Truyền
thông đất đai; Trung tâm Kiểm định chất lượng sản phẩm địa chính).
Tại cấp tỉnh:Một số địa phương tiến hành thành lập Chi cục Quản lý đất đai
thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường để thống nhất quản lý nhà nước về đất
đai vào một cơ quan chuyên trách. Đến nay, tổ chức của Ngành ở cấp tỉnh có
cơ cấu hoàn chỉnh nhất gồm 63 Sở Tài nguyên và Môi trường với đầy đủ các
phòng, ban chức năng về quản lý đất đai và các đơn vị sự nghiệp. Ngoài ra
còn có: Trung tâm Phát triển quỹ đất, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất
(hiện tại trong cả nước có 63 Văn phòng cấp tỉnh và 55 tổ chức Phát triển
quỹ đất cấp tỉnh);Quỹ phát triển đất
Tại cấp huyện: Cơ quan quản lý đất đai là Phòng Tài nguyên và Môi
trường. Ngoài ra, các địa phương đã thành lập Văn phòng Đăng ký quyền sử
dụng đất (đến nay cả nước có 528 Văn phòng cấp huyện)trực thuộc các Phòng
Tài nguyên và Môi trường để thực hiện các thủ tục đăng ký quyền sử dụng
đất, lập và quản lý hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,

quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp huyện.
Tại cấp xã: có Cán bộ Địa chính xã (hoặc phường, thị trấn) và thường
kiêm nhiệm thêm nhiệm vụ quản lý về xây dựng và một số chức năng quản lý
nhà nước khác thuộc lĩnh vực tài nguyên và môi trường.

13
Lực lượng cán bộ của Ngành ngày càng phát triển, hiện tại toàn
Ngành có trên 33.000 người. Trong đó, số cán bộ, công chức, viên chức trực
tiếp làm công tác quản lý đất đai(chia theo các cấp)như sau: Trung ương có
trên 450 người (đại học và trên đại học 81%, cao đẳng và trung học chuyên
nghiệp 19%);cấp tỉnh có trên 6.000 người (đại học và trên đại học 72%, cao
đẳng và trung học chuyên nghiệp 28%); cấp huyện có trên 12.000 người (đại
học và trên đại học 67%, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp 33%); cấp
xã, phường, thị trấn có trên 11.000 cán bộ địa chính, với gần 73% đã qua các
khoá đào tạo chính quy, bán chính quy (đại học 3,4%, trung học chuyên
nghiệp 36,1%; sơ cấp 60,5%); ngoài ra còn hàng nghìn người ở các doanh
nghiệp, đơn vị sự nghiệp, tổ chức khác đang phối hợp hoạt động với Ngành
về đo đạc - bản đồ, quy hoạch(xây dựng), giải quyết tranh chấp khiếu nại, tố
cáo về đất đai (Thanh tra Chính phủ), xử lý vi phạm về pháp luật đất
đai (Kiểm sát, Toà án) và các hoạt động kinh tế, dịch vụ khác… Công tác
đào tạo cán bộ cho Ngành được quan tâm đầu tư, các trường Trung học đã
đào tạo được trên 21.000 cán bộ, hàng nghìn công nhân cung cấp cho toàn
Ngành. Bên cạnh sự lớn mạnh không ngừng về số lượng và chất lượng đội
ngũ cán bộ, công chức và viên chức của Ngành, cơ sở vật chất(trụ sở làm
việc, các phương tiện, trang thiết bị, điều kiện làm việc)và chế độ chính sách
đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động luôn được Đảng,
Nhà nước hết sức quan tâm, ngày càng tạo điều kiện và là động lực cho sự
phát triển cả về bề rộng lẫn chiều sâu cho Ngành. Đây vừa thể hiện vai trò
của Ngành Quản lý đất đai đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước
đồng thời cũng là trách nhiệm to lớn của toàn Ngành trong quá khứ, hiện tại

và tương lai.
Tóm lại, trong giai đoạn từ 1979 đến nay, ngành Quản lý đất đai đã phát
triển theo hướng hiện đại, mở rộng phạm vi quản lý đối với tất cả các loại đất.
Nội dung quản lý nhà nước về đất đai được mở rộng ra nhiều lĩnh vực (từ 07
nhóm nội dung đã phát triển thành 13 nhóm nội dung). Hệ thống cơ quan và
đội ngũ cán bộ đã từng bước được hoàn thiện, năng lực quản lý, chuyên môn
và công nghệ được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu của hệ thống quản lý đất đai
hiện đại. Hoạt động của Ngành đã góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà

14
nước; đảm bảo công bằng và ổn định xã hội; tăng thu cho ngân sách nhà nước;
chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo cơ chế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ môi trường. Chưa bao giờ ngành Quản lý
đất đai lại có cơ cấu tổ chức 04 cấp từ Trung ương đến địa phương hoàn chỉnh
và hùng mạnh nhất về mọi mặt, ngang tầm với nhiệm vụ được Đảng và Nhà
nước giao và là Ngành có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của xã hội về
tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội; quốc phòng - an ninh… (Lịch sử hình thành
và phát triển ngành quản lý đất đai Việt Nam - diachinh.org)
2.3. Sơ lược tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại tỉnh Cao
Bằng và địa phương
2.3.1. Sơ lược tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại Cao Bằng
Cao Bằng là một tỉnh miền núi, có diện tích tự nhiên 6.690,72 km², dân
số 507.183 ngàn người (theo điều tra dân số ngày 01/10/2009), gồm có 11 dân
tộc anh em, chủ yếu là các dân tộc: Tày (chiếm 41,0% dân số), Nùng (31,1%),
H’mông (10,1%), Dao (10,1%), Việt (5,8%), Sán Chay (1,4%)… Tỉnh Cao
Bằng có 12 đơn vị hành chính cấp huyên và 1 thành phố trực thuộc tỉnh bao
gồm: Các huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm, Hạ Lang, Hà Quảng, Hòa An, Nguyên
Bình, Phục Hòa, Quảng Uyên, Thạch An, Thông Nông, Trà Lĩnh, Trùng
Khánh và thành phố Cao Bằng.
Tình hình quản lý đất đai của tỉnh Cao Bằng trong những năm qua

diễn ra như sau:
* Kiện toàn tổ chức bộ máy:
Tổ chức bộ máy của cơ quan Tài nguyên và Môi trường gồm một (01)
Sở TN&MT và 13 phòng TN&MT ở 13 huyện, thành phố, kiện toàn theo
đúng tinh thần hướng dẫn của Bộ TN&MT, sự chỉ đạo của Tỉnh uy, UBND
tỉnh. VPĐKQSD đất trực thuộc Sở TN&MT đã được UBND tỉnh ban hành
quyết định thành lập, đơn vụ đã ổn định tổ chức bộ máy đi vào hoạt động theo
chức năng, nhiệm vụ được giao.
*Ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất:
Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Cao Bằng đã tham mưu cho UBND
tỉnh ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất trên
địa bàn tỉnh như sau:

15
- Ban hành bảng giá đất hàng năm trên địa bàn tỉnh
- Ban hành bảng giá bồi thường tài sản, cây cối hoa màu phục vụ công
tác bồi thường giải phóng mặt bằng.
*Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành
chính, lập bản đồ hành chính.
- Thực hiện Chỉ thị 364/TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc lập hồ
sơ địa giới hành chính, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành lập hồ sơ địa giới hành
chính trên 13 huyện thành.
Hồ sơ địa giới hành chính được lưu tại 03 cấp tỉnh, huyện, xã. Việc
quản lý hồ sơ địa giới hành chính tại cấp tỉnh và huyện do ngành Nội vụ đảm
nhiệm, tại cấp xã do UBND xã đảm nhiệm.
*Công tác điều tra khảo sát, đo đạc, phân hạng đất, lập bản đồ địa
chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản đồ quy hoạch sử dụng đất.
- Công tác điều tra khảo sát:
Trong những năm qua, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện
nhiều cuộc điều tra khảo sát đánh giá khả năng sử dụng quỹ đất vào các mục

tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Công tác phân hạng đất
Phân hạng đất là một công tác hết sức quan trọng, việc phân hạng đất của
UBND tỉnh đã được tiến hành từ nhiều năm trước, những kết quả đó hiện nay
vẫn đang được sử dụng làm cơ sở cho việc quy hoạch sử dụng đất. Tuy nhiên
do thời gian tiến hành phân hạng đất đã lâu nên kết quả phân hàng đất nhiều
khi không còn phục vụ đắc lực trong quản lý đất đai.
- Công tác lập bản đồ địa chính, bản đồ hiện trạng sử dụng đất và bản
đồ quy hoạch sử dụng đất
Tỉnh Cao Bằng đã phố hợp với cơ quan các cấp tiến hành đo đạc bản đồ
địa chính chính quy cho các xã phường trên địa bàn tỉnh, việc lập bản đồ hiện
trang sử dụng đất của tỉnh được UBND tỉnh, sở Tài nguyên và Môi trường chỉ
đạo về chuyên môn, thực hiện tốt theo quy định, định kỳ 5 năm cùng với công
tác kiểm kê đất đai, đồng thời bản đồ quy hoạch sử dụng đất và các bản đồ
hiện trạng sử dụng đất đã được thành lập nên trên nền bản đồ địa chính.

16
* Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Thực hiện theo Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản, thông tư, chỉ thị dưới
Luật, hàng năm tỉnh Cao Bằng đã thực hiện công tác lập kế hoạch sử dụng đất
một cách đầy đủ và nghiêm túc theo kế hoạch đã đề ra.
* Công tác giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất
- Công tác giao đất, cho thuê đất, cấp GCNQSDĐ trong những năm qua
đã được Tỉnh ủy, UBND tỉnh quan tâm chỉ đạo thực hiện. Việc thực hiện
Nghị đinh 64/CP, Chỉ thị số 10, Chỉ thị số 18, Nghị định 85/CP và Luật đất
đai 2003 đã đạt được những kết quả nhất định về công tác giao đất cho thuê
đất này.
- Việc chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất trên địa bàn tỉnh được
tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Hàng năm tỉnh Cao Bằng phối

kết hợp với các phòng ban chuyên môn của huyện đã tiếp nhận hồ sơ xin
chuyển mục đích sử dụng đất, hồ sơ cho thuê đất, hồ sơ thu hồi đất để xây
dụng các công trình nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu kinh tế - xã hội mà
tỉnh đã đề ra. Công tác tiếp nhận hồ sơ được thực hiện theo cơ chế “một cửa”
đã đảm bảo được thời gian và giảm bớt phiền hà cho các tổ chức, cá nhân khi
thực hiện công việc.
* Công tác thanh tra, kiểm tra, khiếu nại tố cáo về đất đai
- Việc giải quyết tranh chấp đất đai được thực hiện theo đúng trình
tự, thủ tục quy định của Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật đất đai.
UBND huyện thực hiện hòa giải tranh chấp đất đai khi có đơn đề nghị
của các bên tranh chấp đất đai khi không thỏa thuận được. Chủ tịch UBND
huyên giải quyết tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình cá nhân, cộng đồng dân
cư với nhau. Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết tranh chấp đất đai đối với trường
hợp tranh chấp đất đai giữa tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức cá nhân nước ngoài với nhau hoặc với hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư.
- Việc giải quyết khiếu nại về đất đai, tố cáo liên quan đến quản lý sử
dụng đất.

17
Nội dung khiếu nại về đất đai, tố cáo liên quan đến quản lý, sử dụng đất
chủ yếu là khiếu nại, tố cáo về bồi thường hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất, khiếu nại về đơn giá đất, khiếu nại về xác định loại đất để áp dụng
bồi thường hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, đặc biệt là đất nông nghiệp xen
kẽ trong khu dân cư, đất vườn ao liền kề với đất ở trong khu dân cư khi Nhà
nước thu hồi đất.
Việc giải quyết khiếu nại về đất đai, tố cáo liên quan đến quản lý, sử
dụng đất trong thời gian qua được thực hiện dân chủ, công khai, kịp thời và
đúng quy định của pháp luật đất đai được người sử dụng chấp nhận.

2.3.2. Sơ lược tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại huyện
Hòa An
Đội ngũ cán bộ phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Hòa An gồm
có 10 cán bộ (bao gồm cả 3 cán bộ VPĐKQSDĐ) , và 20 cán bộ địa chính cấp
xã trên toàn huyện Hòa An. Phòng Tài nguyên và Môi trường hiện có một
(01) trưởng phòng phụ trách công việc chung, một (01) phó phòng giúp đỡ
quản lý và một (01) giám đốc VPĐKQSDĐ. Còn lại 20 xã mỗi đơn vị có 01
cán bộ địa chính. Trình độ của cán bộ địa chính toàn huyện còn hạn chế và
không đồng đều, đặc biệt cán bộ địa chính cấp xã, thị trấn đều là trung cấp,
cao đẳng. Điều đó cho thấy tuy các xã, thị trấn có cán bộ địa chính nhưng một
số không được đào tạo bài bản và đúng chuyên ngành, năng lực công tác của
một số cán bộ địa chính xã còn bộc lộ nhiều yếu kém, trình độ hiểu biết về
chuyên môn còn nhiều hạn chế trong khi khối lượng công việc còn nhiều. Đây
là vấn đề nan giải cần phải giải quyết sớm tạo điều kiện cho việc xây dựng hệ
thống quản lý đất đai chặt chẽ và đúng pháp luật.
2.3.3. Sơ lược tình hình công tác quản lý nhà nước về đất đai tại xã Hồng Việt
Cán bộ địa chính xã Hồng Việt hiện nay chỉ có duy nhất một (01) cán
bộ địa chính xã. Trình độ của cán bộ địa chính còn nhiều hạn chế vì chỉ tốt
nghiệp trung cấp và vừa được học khóa huấn luyện bổ sung, trình độ ứng
dụng tin học của cán bộ địa chính còn yếu, khó đáp ứng được yêu cầu công
tác hiện nay trong khi khối lượng công việc phải thực hiện lớn và hầu như sử
dụng ứng dụng tin học vào làm việc. Theo yêu cầu khối lượng công việc thì
hiện nay UBND xã Hồng Việt còn thiếu một (01) cán bộ địa chính xã phụ

×