ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
VI THỊ HẰNG
Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ TÂN HÒA, HUYỆN PHÚ BÌNH,
TỈNH THÁI NGUYÊN”
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : Kinh tế và PTNT
Khóa học : 2010 - 2014
THÁI NGUYÊN - 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
VI THỊ HẰNG
Tên đề tài:
“NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN PHÁT TRIỂN
KINH TẾ HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ TÂN HÒA, HUYỆN PHÚ BÌNH,
TỈNH THÁI NGUYÊN”
Khãa luËn tèt nghiÖp ®¹i häc
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : Kinh tế và PTNT
Lớp : K42 - KTNN
Khóa học : 2010 - 2014
Giáo viên hướng dẫn: ThS.Đặng Thị Thái
Khoa Kinh tế & PTNT - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
THÁI NGUYÊN - 2014
LỜI CẢM ƠN
Đây là đợt thực tập nghề quan trọng, giúp tôi củng cố kiến thức đã học và
để hoàn thành khóa luận thực tập tốt nghiệp một cách tốt đẹp, tôi đã nhận được
rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của chính quyền địa phương và nhà trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế & Phát
triển nông thôn và đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của giảng viên ThS. Đặng Thị
Thái, người đã tận tình giúp đỡ, trực tiếp hướng dẫn tôi trong quá trình thực tập và
hoàn thành khóa luận.
Tôi có lời cản ơn sâu sắc đến các cán bộ tại UBND xã Tân Hòa, cùng toàn thể
người dân tại đây đã cung cấp cho tôi những tài liệu rất cần thiết cho khóa luận.
Do có nhiều giới hạn về mặt thời gian, cũng như kinh nghiệm thực tế, nội
dung đề tài không tránh khỏi được những sai sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các thầy cô để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 6 năm 2014
Sinh viên
Vi Thị Hằng
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
BVTV
Bảo vệ thực vật
THCS
Trung học cơ sở
BQ
Bình quân
ĐVT
Đơn vị tính
Tr.đ
Triệu đồng
Đ
Đồng
UBND
Ủy ban nhân dân
HĐND
Hội đồng nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất của xã Tân Hòa trong 3 năm 2011 - 2013 24
Bảng 3.2: Giá trị sản xuất của các ngành của xã Tân Hòa 2011 - 2013 29
Bảng 3.3. Khảo sát thu nhập của các hộ điều tra 31
Bảng 3.4. Phân loại hộ điều tra 33
Bảng 3.5. Tình hình cơ bản của hộ điều tra 34
Bảng 3.6. Trình độ và chuyên môn của chủ hộ phân theo nhóm hộ 35
Bảng 3.7. Phương tiện sản xuất 36
Bảng 3.8. Chi phí bình quân 1 sào lúa/vụ của các nhóm hộ trong năm 2013 37
Bảng 3.9. Chi phí chăn nuôi bình quân/hộ chia theo nhóm hộ 39
Bảng 3.10. Tổng hợp chi phí các ngành theo nhóm hộ 41
Bảng 3.11. Thu nhập bình quân/hộ từ trồng trọt theo nhóm hộ 42
Bảng 3.12. Thu nhập bình quân/hộ từ chăn nuôi theo nhóm hộ 44
Bảng 3.13. Tổng hợp các khoản thu từ các ngành chia theo nhóm hộ 45
Bảng 3.14. Summary 48
Bảng 3.15. ANOVA 48
Bảng 3.16 : Hệ số co dãn (hồi quy) giữa tổng thu với các yếu tố cơ bản tác động
đến thu nhập của hộ năm 2013 49
DANH MỤC CÁC HÌNH
Biểu đồ 3.1: Phân bố thu nhập của hộ điều tra 32
Biểu đồ 3.2. Tổng chi phí các ngành theo nhóm hộ 41
Biểu đồ 3.3. Các khoản thu từ các ngành năm 2013 chia theo nhóm hộ 46
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 2
3. Ý nghĩa của đề tài 2
4. Bố cục của khóa luận 3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4
1.1. Cơ sở lý luận 4
1.1.1. Khái niệm, quan điểm về hộ 4
1.1.2. Hộ nông dân 4
1.1.3. Kinh tế hộ nông dân 5
1.1.4. Vai trò của kinh tế hộ 6
1.1.5. Đặc trưng của kinh tế hộ 6
1.1.6. Phân loại các nhóm hộ 7
1.1.7. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế hộ 8
1.2. Cơ sở thực tiễn 11
1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân ở các nước trên th
ế giới
và những bài học kinh nghiệm 11
1.2.2. Quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta 13
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17
2.1. Đối tượng nghiên cứu 17
2.2. Phạm vi nghiên cứu 17
2.2.1. Phạm vi không gian 17
2.2.2. Phạm vi thời gian 17
2.3. Nội dung nghiên cứu 17
2.4. Phương pháp nghiên cứu 17
2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu 17
2.4.2. Phương pháp xử lý số liệu 18
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 20
3.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 20
3.1.1. Điều kiện tự nhiên 20
3.1.2. Cơ sở hạ tầng 21
3.1.3. Các nguồn tài nguyên 23
3.1.4. Tình hình kinh tế 25
3.1.5. Tình hình dân số lao động, việc làm 30
3.1.6. Những thuận lợi, khó khăn ảnh hưởng đến sản xuất của hộ dân ở địa phương 30
3.2. Tình hình phát triển kinh tế hộ trên địa bàn xã Tân Hòa 31
3.2.1. Tình hình cơ bản của hộ điều tra 31
3.2.2. Đầu tư sản xuất của các nhóm hộ điều tra 37
3.2.3. Tổng hợp thu nhập từ các ngành theo nhóm hộ 42
3.3. Đánh giá các nhân tố tác động đến thu nhập của hộ 47
3.4. Đánh giá các nhân tố khác ngoài mô hình có ảnh hưởng đến kinh tế hộ 51
3.4.1. Thị trường 51
3.4.2. Điều kiện tự nhiên 52
3.4.3. Chính sách 52
Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP 53
4.1. Quan điểm, phương hướng, mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
trong những năm tiếp theo 53
4.2. Giải pháp của địa phương 53
4.2.1. Giải pháp về đất đai 53
4.2.2. Giải pháp cho thị trường 54
4.2.3. Giải pháp về lao động 54
4.3. Nhóm giải pháp của hộ 55
4.3.1. Giải pháp về nguồn nhân lực 55
4.3.2. Giải pháp về tiếp cận chính sách 55
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam chúng ta đang trên con đường phát triển đã và đang thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, quá trình đó diễn ra hết sức
mạnh mẽ và đang thu hút được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, từ đó
nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết, quản lý của nhà nước.
Kinh tế hộ của nước ta ngày càng khẳng định rõ vai trò tự chủ của mình
trong đời sống kinh tế xã hội nói chung và ở vùng nông thôn nói riêng. Sự phát
triển kinh tế hộ đã thực sự làm cho nền nông nghiệp nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn khiến bộ mặt nông nghiệp nông thôn và đời sống của người dân
có những bước thay đổi đáng kể.
Kinh tế hộ được coi là một đơn vị kinh tế đặc thù và phù hợp trong sản
xuất nông nghiệp. Nó góp phần giải quyết vấn đề việc làm và xây dựng cuộc
sống và đáp ứng tốt nhu cầu ngày càng cao và phong phú của con người về
lương thực, thực phẩm.
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường, nhiều hộ gia đình ở nông thôn đã
biết chủ động tự hoạch toán trong làm ăn buôn bán, kinh doanh, phát triển ngành,
nghề tăng thu nhập cải thiện đời sống góp phần làm tăng trưởng kinh tế - xã hội ở
địa phương nói chung và gia đình ở nông thôn nói riêng.Tình trạng thiếu kiến thức,
thiếu vốn đầu tư đang là tình trạng chung của các hộ gia đình nên khi có chính
sách cho vay vốn hộ cũng không biết sử dụng sao cho có hiệu quả.
Tuy những đặc điểm truyền thống của kinh tế hộ vẫn không thay đổi,
nhưng việc được giao quyền sử dụng đất lâu dài đã làm cho hộ gia đình trở
thành đơn vị sản xuất, kinh doanh tự chủ, tự quản. Động lực mới cho sự phát
triển kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn đã xuất hiện. Sự phát triển kinh tế hộ
đã thực sự làm cho nền nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn
khiến bộ mặt nông nghiệp nông thôn và đời sống của người dân có những bước
thay đổi đáng kể. Có thể nói việc xem xét các yếu tố tác động đến tăng trưởng
2
kinh tế gia đình, sự cần thiết tháo gỡ những bất cập, để có hiệu quả sử dụng tối
ưu các nguồn lực trong sự phát triển kinh tế của hộ.
Xuất phát từ sự cấp thiết của vấn đề, từ yêu cầu thực tiễn như đã nêu ở
trên. Đồng thời với mục đích khẳng định vai trò, vị trí của kinh tế hộ trên con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới nền kinh tế
hiện nay của nước ta, tôi đưa ra đề tài:
“Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ trên địa
bàn xã Tân Hòa, huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên”.
Trong đề tài này, tôi tập trung nghiên cứu các hộ nông dân nhằm để làm
rõ những mặt khó khăn, cũng như những thuận lợi của các yếu tố tác động đến
sự tăng trưởng kinh tế hộ nông dân tại xã Tân Hòa. Từ việc nghiên cứu thực tế
và sự đánh giá mong muốn của người dân, đề tài hy vọng cung cấp những thông
tin khách quan xung quanh các yếu tố làm phát triển kinh tế, phát triển hoạt
động sản xuất nông, lâm nghiệp và sản xuất kinh doanh của hộ.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chung:
- Nghiên cứu và phân tích nhân tố tác động đến phát triển kinh tế hộ.
- Đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế hộ để có hiệu quả tốt hơn.
Mục tiêu cụ thể:
- Hệ thống hoá các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về phát triển kinh tế
hộ nông dân.
- Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Nghiên cứu, phân tích các nhân tố chính ảnh hưởng đến thu nhập của hộ.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển kinh tế hộ tại địa bàn
xã Tân Hòa.
3. Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa trong học tập và trong nghiên cứu khoa học
3
- Giúp cho sinh viên áp dụng những kiến thức đã học vào thực tế, tạo điều
kiện cho sinh viên tích lũy kiến thức và kinh nghiệm trong thực tiễn.
- Rèn luyện các kỹ năng thu thập và sử lý số liệu, viết báo cáo.
- Giúp hiểu thêm về tình hình kinh tế của hộ và các nhân tố ảnh hưởng
đến phát triển kinh tế hộ tại địa bàn xã Tân Hòa, huyện Phú Bình, tỉnh Thái
Nguyên.
Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể đánh giá được mức độ ảnh hưởng
của nguồn lực đến kết quả sản xuất của hộ.
4. Bố cục của khóa luận
Mở đầu
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4: Các giải pháp
Kết luận và kiến nghị
Phụ lục
Danh mục tài liệu tham khảo
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm, quan điểm về hộ
- Hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà, gồm những
người cùng chung huyết tộc và những người làm công.
- Thống kê Liên Hợp Quốc cũng có khái niệm: “Hộ gồm những người
sống chung dưới một ngôi nhà, cùng ăn chung, làm chung và cùng có chung một
ngân quỹ”.
- Giáo sư Mc Ge (1989) - Đại học tổng hợp Colombia (Canada) cho rằng:
“Hộ là một nhóm người có cùng chung huyết tộc hoặc không cùng chung huyết
tộc ở trong một mái nhà và ăn chung một mâm cơm”.[4]
- Nhóm “hệ thống thế giới” (các đại biểu Wallerstan (1982), Wood
(1981,1982), Smith (1985), Martin và BellHel (1987) cho rằng: “Hộ là một
nhóm người có cùng chung sở hữu, chung quyền lợi trong cùng một hoàn cảnh.
Hộ là một đơn vị kinh tế giống như các công ty, xí nghiệp khác”.
- Nhóm các học giả lý thuyết phát triển cho rằng: “Hộ là một hệ thống các
nguồn lực tạo thành một nhóm các chế độ kinh tế riêng nhưng lại có mối quan
hệ chặt chẽ và phục vụ hệ thống kinh tế lớn hơn”.[7]
- Tại hội thảo Quốc tế lần thứ 2 về quản lý nông trại tại Hà Lan (năm
1980) các đại biểu nhất trí cho rằng: “Hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên
quan đến sản xuất, tiêu dùng, xem như là một đơn vị kinh tế”.[6]
1.1.2. Hộ nông dân
Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở vừa là một đơn vị sản xuất vừa là
một đơn vị tiêu dùng.
Đào Thế Tuấn (1997) cho rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt
động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động
phi nông nghiệp ở nông thôn”.[1]
5
Theo Ellis –1988, “Hộ nông dân là các nông hộ, thu hoạch các phương
tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ yếu lao động gia đình trong sản xuất nông
trại, nằm trong một hệ thống kinh tế rộng hơn, nhưng về cơ bản được đặc trưng
bằng việc tham gia một phần trong thị trường hoạt động với một trình độ hoàn
chỉnh không cao”.[3]
Hộ nông dân là những người có phương tiện kiếm sống từ ruộng đất,
chủ yếu sử dụng lao động gia đình cho sản xuất, luôn nằm trong hệ thống kinh tế
rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng thành phần vào
thị trường với mức độ hoàn hảo không cao”. Quá trình đô thị hoá, công nghiệp
hoá đang và sẽ còn tiếp tục diễn ra làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn từ đó
hoạt động kinh tế của nông hộ cũng có những biến đổi sâu sắc. Xã hội chắc chắn
sẽ xuất hiện những nông hộ vì lý do nào đó không có đất canh tác mà phải đi
làm thuê tạo thu nhập. Cũng có hộ chuyển sang nghề khác và cho thuê đất sản
xuất của mình theo kiểu “Phát canh thu tô”. Tất cả những hộ này đều được coi là
hộ nông dân. Ngược lại, những hộ không kinh doanh kiếm lợi từ ruộng đất mà
hoạt động kinh tế trong lĩnh vực ngành nghề phi nông nghiệp tuy sống ở
nông thôn nhưng không được coi là hộ nông dân.[2]
1.1.3. Kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ là đơn vị sản xuất nhỏ, quy mô nhỏ. Kinh tế hộ sử dụng các lao
động và tiền vốn của chủ hộ là chủ yếu.
Tư tưởng của A.V.Traianop, kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế
phức tạp của tổ chức sản xuất nông nghiệp. Đó là những doanh nghiệp hàng hóa
gia đình nông dân không thuê nhân công mà chiếm đại bộ phận nông hộ ở nước
Nga trước cách mạng cũng như trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội ở Liên Xô. Kinh tế nông dân gắn bó hữu cơ với gia đình nông dân
vì thế có thể coi kinh tế nông dân là kinh tế gia đình. Đó là một thứ xí nghiệp lao
động gia đình sống theo những quy luật của nó, khác với những quy luật tư bản
chủ nghĩa dựa trên cơ sở lao động làm thuê. Trong kinh tế hộ, người nông dân
6
vừa là người làm chủ, vừa là người lao động. Mục đích sản xuất không phải vì
lợi nhuận mà là thỏa mãn những nhu cầu của gia đình.
Theo Tchayanov (1924), luận điểm cơ bản nhất của Tchayanov là coi kinh
tế hộ nông dân là một phương thức sản xuất tồn tại trong mọi chế độ xã hội. Mỗi
phương thức sản xuất có những quy luật phát triển riêng của nó, và trong mỗi
chế độ, nó tìm cách thích ứng với cơ chế kinh tế hiện hành. Mục tiêu của hộ
nông dân là có thu nhập cao không kể thu nhập ấy do nguồn gốc nào, trồng trọt,
chăn nuôi hay ngành nghề đó là kết quả chung của lao động gia đình.
Kinh tế hộ nông dân là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản xuất
xã hội, trong đó các nguồn lực như đất đai, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi
là của chung để tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà, ăn
chung, mọi quyết định trong sản xuất - kinh doanh và đời sống là tùy thuộc vào
chủ hộ, được nhà nước thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện phát triển.
Kinh tế hộ nông dân là tế bào kinh tế - xã hội được hình thành trên cơ sở
các mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, phong tục, tâm linh, tâm lý, đạo đức.
Là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông dân và nông thôn. Kinh tế hộ nông
dân đã tồn tại từ rất lâu ở các nước nông nghiệp, tự chủ trong sản xuất - kinh
doanh nông nghiệp, là pháp nhân kinh tế, bình đẳng trước pháp luật và là chủ thể
nền kinh tế thị trường.[4]
1.1.4. Vai trò của kinh tế hộ
Kinh tế hộ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần đổi mới công nghệ
sản xuất. Hộ là nơi tích lũy kinh nghiệm sản xuất truyền thống cũng là nơi áp
dụng công nghệ mới vào sản xuất. Khi chuyển sang sản xuất hàng hóa, xuất hiện
cạnh tranh thị trường, hộ buộc phải đổi mới công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có
chất lượng tốt hơn với giá rẻ hơn. Việc đổi mới công nghệ trước hết phải nhằm
khai thác tốt kinh nghiệm truyền thống từ lâu đời.[1]
Kinh tế hộ là tế bào của xã hội, sự phát triển của nó trước tiên giúp nâng
cao đời sống của người dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
1.1.5. Đặc trưng của kinh tế hộ
7
- Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu, quá trình quản lý và sử
dụng các yếu tố sản xuất.
- Kinh tế hộ có khả năng thích nghi và tự điều chỉnh rất cao. Do kinh tế hộ
có quy mô nhỏ nên dễ điều chỉnh hơn so với các đơn vị khác. Nếu gặp điều kiện
thuận lợi hộ có thể tập trung mọi nguồn lực vào sản xuất để mở rộng sản xuất,
khi gặp điều kiện bất lợi họ dễ dàng thu hẹp quy mô, thậm chí hộ có thể trở về
sản xuất tự cung tự cấp.
- Có sự gắn bó chặt chẽ giữa kết quả sản xuất với lợi ích người lao động.
Trong kinh tế hộ mọi người gắn bó với nhau trên cả cơ sở kinh tế lẫn huyết tộc
và có chung ngân quỹ nên dễ dàng có được sự nhất trí, sự đồng tâm, hiệp lực để
cùng nhau phát triển kinh tế hộ của mình. Vì vậy có sự gắp bó chặt chẽ giữa kết
quả sản xuất với người lao động. Lợi ích kinh tế đã thực sự trở thành động lực
thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân, là nhân tố nâng cao hiệu quả sản xuất của
kinh tế hộ
- Kinh tế hộ là đơn vị sản xuất nhỏ nhưng lại rất hiệu quả, quy mô nhỏ
nhưng lại không đồng nghĩa với sự lạc hậu, năng suất thấp.
- Kinh tế hộ sử dụng các lao động và vốn của hộ là chủ yếu.
1.1.6. Phân loại các nhóm hộ
- Căn cứ vào mục tiêu và cơ chế hoạt động gồm có
+ Hộ nông dân hoàn toàn tự cấp không có phản ứng với thị trường.
Loại hộ này có mục tiêu là tối đa hoá lợi ích, đó là việc sản xuất các sản
phẩm cần thiết để tiêu dùng trong gia đình. Để có đủ sản phẩm, lao động
trong
nông hộ phải hoạt động cật lực và đó cũng được coi như một lợi ích, để có thể tự
cấp tự túc cho sinh hoạt, sự hoạt động của họ phụ thuộc vào: Khả năng mở rộng
diện tích đất đai, có thị trường lao động để họ mua nhằm lấy lãi, có thị trường lao
động để họ bán sức lao động để có thu nhập, có thị trường sản phẩm để trao đổi
nhằm đáp ứng nhu cầu của mình…
8
+ Hộ nông dân sản xuất hàng hoá chủ yếu: Loại hộ này có mục tiêu là tối đa
hoá lợi nhuận được biểu hiện rõ rệt và họ có phản ứng gay gắt với thị trường vốn,
ruộng đất, lao động.
- Căn cứ vào tính chất của ngành sản xuất chia ra thành các nhóm hộ như sau
+ Hộ nông nghiệp là những hộ thuần túy sản xuất nông nghiệp, đất đai là
tư liệu sản xuất chính, thu hoạch các phương tiện sống từ ruộng đất, sử dụng chủ
yếu lao động gia đình.
+ Hộ kiêm nông là các hộ vừa làm nông nghiệp, vừa hoạt động sản xuất
các ngành nghề khác như: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ…
- Căn cứ vào mức thu nhập của nông hộ bao gồm: Hộ khá, hộ trung bình,
hộ nghèo. Sự phân biệt này thường dựa vào quy định chung của cả nước hoặc
quy định của từng địa phương.
1.1.7. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng tới sự phát triển của kinh tế hộ
- Nhóm các yếu tố chủ quan: Đây là những yếu tố mà bản thân hộ có thể
quyết định được. Mỗi hộ có hoàn cảnh riêng, có trình độ, có phương tiện và các
yếu tố sản xuất khác nhau. Đó là các yếu tố chủ quan, nó tác động mạnh mẽ đến
sự phát triển của kinh tế hộ. Các yếu tố bao gồm:
+ Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt không gì có thể thay thế
được. Do tính chất đặc biệt của nó mà đất đai có thể coi như một dạng của vốn
nhưng lại được xem như một nguồn lực riêng biệt. Hướng sử dụng đất đai quy
định hướng sử dụng các tư liệu sản xuất khác. Vì vậy hộ cần sử dụng có hiệu
quả trên diện tích mình có sao cho có hiệu quả cao nhất.
+ Vốn đầu tư cho sản xuất là toàn bộ các giá trị đầu vào, bao gồm những
tài sản, vật phẩm trong sản xuất kinh doanh và các ngành sản xuất khác. Trong
nông nghiệp vốn là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Vốn quyết định đến quy mô sản xuất từ đó ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm
và hiệu quả sản xuất kinh doanh. ảnh hưởng đến khả năng khai thác các nguồn
lực vào sản xuất. Vốn được xếp vào các yếu tố chủ quan vì chủ hộ có quyền huy
động hoặc quyết định phân bổ vốn theo chu kỳ sản xuất. Vốn được tạo ra từ hai
9
nguồn cơ bản là vốn tự có và vốn đi vay. Việc sử dụng vốn có hiệu quả hay
không nó quyết định đến sự phát triển kinh tế hộ. Nếu ta cố quyết định các yếu
tố khác, chỉ xét riêng ảnh hưởng của vốn đến thu nhập của hộ thì vốn đầu tư cho
sản xuất và thu nhập của hộ là hai đại lượng đồng biến.
+ Lao động là yếu tố cần thiết của mọi quá trình sản xuất, không có lao động
thì không có hoạt động sản xuất, đặc biệt trong sản xuất nông nghiệp cũng như đất
đai lao động ảnh hưởng đến thu nhập trên cả hai mặt lượng và chất. Lao động là
một trong các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế hộ. Nó là
yếu tố có thể thay đổi được cả về chất và về lượng nên trong các giải pháp để phát
triển kinh tế hộ thì giải pháp về lao động là giải pháp có tính khả thi cao.
+ Phương tiện sản xuất chính có vai trò quan trọng đối với việc sử dụng các
biện pháp kỹ thuật vào trong sản xuất. Để đạt được một hiệu quả cao và nhất định
thì cần phải sử dụng các công cụ cũng như kỹ thuật sử dụng công cụ một các phù
hợp. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, các công cụ sản xuất cũng
được cải tiến để phù hợp với sự phát triển của địa phương trong sản xuất.
+ Trình độ học vấn và kỹ năng lao động: Người lao động phải có trình độ
học vấn và kỹ năng lao động để tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh
nghiệm sản xuất tiên tiến. Trong sản xuất, phải giỏi chuyên môn, kỹ thuật, trình
độ quản lý mới mạnh dạn áp dụng thành tựu khoa học vào sản xuất nhằm mang
lại lợi nhuận cao. Điều này rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả trong
sản xuất kinh doanh của hộ, ngoài ra còn phải có những tố chất của một người
dám làm kinh doanh.
- Nhóm yếu tố khách quan: Đây là các yếu tố tác động từ bên ngoài đến
kết quả sản xuất kinh doanh của hộ mà hộ không thể kiểm soát được.
+ Khí hậu và môi trường sinh thái có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất
nông nghiệp. Điều kiện thời tiết, khí hậu, lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ,… có mối
quan hệ chặt chẽ đến sự hình thành và sử dụng các loại đất. Thực tế cho thấy ở
những nơi thời tiết khí hậu thuận lợi, được tự nhiên ưu ái sẽ hạn chế những bất
lợi và rủi ro, có cơ hội để phát triển kinh tế.
10
Khi nói đến môi trường sinh thái, người ta thường nghĩ đến nhất là vấn đề
nguồn nước. Không chỉ sử dụng cho sinh hoạt thiết yếu của con người mà những
loại cây trồng và gia súc cũng tồn tại theo quy luật sinh học. Nếu môi trường
thuận lợi cây trồng và con gia súc phát triển tốt sẽ đem lại năng suất cao, ngược
lại sẽ phát triển chậm, năng suất chất lượng giảm từ đó dẫn đến hiệu quả sản xuất
thấp kém.
+ Thị trường là nơi diễn ra trao đổi hàng hóa, thị trường có tác động rất
lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế thay đổi giá cả. Giá cả lại
phụ thuộc vào quy luật cung cầu trên thị trường. Có hai loại thị trường là thị
trường đầu vào và thị trường đầu ra.
Đối với thị trường đầu ra (thị trường tiêu thụ sản phẩm), nó phản ánh cung
sản phẩm. Trong nông nghiệp các sản phẩm thường khó bảo quản, vì vậy rủi ro
do thị trường đem lại trong sản xuất nông nghiệp là rất lớn. Bên cạnh đó thị
trường các sản phẩm trong nông nghiệp là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, nên
người nông dân không thể kiểm soát được thị trường, vì vậy sự tác động của thị
trường làm cho thu nhập của nông hộ không ổn định.
Đối với thị trường các yếu tố đầu vào, giá cả đầu vào trên thị trường ảnh
hưởng trực tiếp đến chi phí sản xuất của nông hộ, vì thế nó tác động rất lớn đến
quy mô sản xuất, đến mức độ đầu tư của nông dân. Nếu giá đầu vào tăng làm
cho chi phí đầu tư tăng, dẫn đến hiệu quả sản xuất giảm xuống.
+ Chính sách của Nhà nước: Trong quản lý kinh tế mỗi chính sách ban
hành đều có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh dù lớn hay nhỏ.
Nếu chính sách đúng đắn sẽ kích thích được sản xuất và ngược lại. Vì vậy chính
sách của Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến thu nhập của hộ nói chung hay đến
sự phát triển của kinh tế nông hộ nói riêng. Trong quá trình phát triển nông
nghiệp nông thôn ở Việt Nam, Nhà nước ta đã chứng tỏ được vai trò của mình
trong quản lý kinh tế. Nó thể hiện rõ nét nhất ở chính sách ruộng đất trong công
cuộc đổi mới. Chính sách này đã làm thay đổi thu nhập của toàn bộ dân cư trong
nông thôn.
11
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế hộ nông dân ở các nước trên thế giới và
những bài học kinh nghiệm
- Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở Trung Quốc Trung Quốc: là
một nước đông dân nhất thế giới với hơn 1,3 tỷ dân. Chính vì vậy kinh tế nông
hộ được Chính Phủ Trung Quốc quan tâm hàng đầu. Trong 15 năm trở lại đây
kinh tế nông nghiệp và nông thôn Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to
lớn. Để đạt được thành tựu đó Trung Quốc đã đặc biệt coi trọng kinh tế hộ với 3
mũi nhọn cơ bản đó là: Dựa vào chính sách, dựa vào đầu tư và dựa vào khoa học
kỹ thuật.
+ Chính sách: Năm 1984 Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành giao quyền
sử dụng đất lâu dài cho hộ nông dân. Tiếp sau đó là chính sách khuyến khích
mở rộng ngành nghề dịch vụ, phát triển hàng hoá, khuyến khích các thành
phần kinh tế trong nông thôn cùng phát triển.
+ Đầu tư: Đầu tiên là việc tiến hành nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật. Bên
cạnh đó Chính Phủ còn tăng cường đầu tư tài chính, mở mang nhiều hình thức
tín dụng để hộ có điều kiện vay vốn phát triển sản xuất.
+ Chuyển giao khoa học kỹ thuật: Việc kết hợp khoa học kỹ thuật với
tiềm năng kinh tế đã huy động và tận dụng mọi năng lực sẵn có trong hộ đặc biệt
là nguồn vốn tự bỏ ra để không ngừng nâng cao mức sống của hộ và xây dựng
nền nông nghiệp hàng hoá.
- Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở Malaysia: Mục tiêu của
Malaysia là xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, sản xuất hàng hoá có giá trị
cao. Vì thế chính sách nông nghiệp của Malaysia tập trung chủ yếu vào khuyến
nông và tín dụng. Bên cạnh đó Chính Phủ Malaysia còn chú trọng việc tìm
kiếm thị trường xuất khẩu nông sản. Nhờ đó một vài năm gần đây kinh tế
nông hộ của người dân nước này có thu nhập cao và ổn định.
- Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở Thái Lan: một nước trong khu
vực Đông Nam châu Á, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện nhiều chính sách để
12
đưa từ một nước lạc hậu trở thành nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Một
số chính sách có liên quan đến việc phát triển kinh tế vùng núi ban hành (từ
1950 đến năm 1980).
Thứ nhất: Xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng ở nông thôn. Mạng lưới đường
bộ bổ sung cho mạng lưới đường sắt, phá thế cô lập các vùng ở xa (Bắc, Đông
Bắc, Nam ), đầu tư xây dựng đập nước ở các vùng.
Thứ hai: Chính sách mở rộng diện tích canh tác và đa dạng hoá sản phẩm
như cao su ở vùng đồi phía Nam, ngô, mía, bông, sắn, cây lấy sợi ở vùng núi
phía Đông Bắc.
Thứ ba: Đẩy mạnh công nghiệp hoá chế biên nông sản để xuất khẩu như
ngô, sắn sang các thị trường châu Âu và Nhật Bản.
Thứ tư: Thực hiện chính sách đầu tư nước ngoài và chính sách thay thế
nhập khẩu trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ. Nhà nước cũng thực hiện chính sách
trợ giúp tài chính cho nông dân như: Cho nông dân vay tiền với lãi suất thấp,
ứng trước tiền cho nông dân và cam kết mua sản phẩm với giá định trước cùng
với nhiều chính sách khác đã thúc đẩy vùng núi Thái Lan phát triển theo hướng
sản xuất hàng hoá. Hàng năm có 95% sản lượng cao su, hơn 4 triệu tấn dầu cọ
do nông dân sản xuất ra. Song trong quá trình thực hiện có bộc lộ một số vấn đề
còn tồn tại: đó là việc mất cân bằng sinh thái, hậu quả của một nền nông nghiệp
làm nghèo kiệt đất đai. Kinh tế vẫn mất cân đối giữa các vùng, xu hướng nông
dân rời bỏ nông thôn ra thành thị lâu dài hoặc rời bỏ nông thôn theo mùa vụ
ngày càng gia tăng.
- Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở Đài Loan: Ý thức được xuất
phát điểm của mình có vị trí quan trọng là nông nghiệp nhưng ở trình độ thấp,
nên ngay từ đầu Đài Loan đã coi trọng và chú ý đầu tư cho nông nghiệp. Trong
những năm 1950 đến 1960 chủ trương "Lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy
công nghiệp phát triển nông nghiệp". Từ năm 1951 đã có chương trình cải cách
ruộng đất theo 3 bước: Giảm tô, giải phóng đất công, bán đất cho tá điền, thực
hiện người cày có ruộng (1953 - 1954).
13
Theo đạo luật cải cách ruộng đất của Đài Loan, địa chủ chỉ được giữ lại
3 ha nếu là ruộng thấp và 6 ha nếu là ruộng cao, số còn lại Nhà nước mua và
bán lại cho tá điền với giá thấp và được trả dần, trả góp. Chính sách phát triển
nông nghiệp của Đài Loan trong thời kỳ này đã làm cho nông dân phấn khởi,
lực lượng sản xuất trong nông thôn được giải phóng, sản xuất đã tăng với tốc
độ nhanh.
Tại Đài Loan hiện có 30 vạn người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng cao,
song đã có đường đi lên núi là đường nhựa, nhà có đủ điện nước, có ô tô riêng.
Từ 1974 họ thành lập nông trường, nông hội, trồng những sản phẩm quý hiếm
như "cao sơn trà", bán các mặt hàng sản phẩm của rừng như: Cao các loại, thịt
hươu, nai khô , cùng các sản phẩm nông dân sản xuất được trong vùng. Về
chính sách thuế và ruộng đất của chính quyền có sự phân biệt giữa 2 đối tượng
"nông mại nông" thì miễn thuế (nông dân bán đất cho nông dân khác), "nông
mại bất nông" thì phải đóng thuế gấp 3 lần tiền mua (bán đất cho đối tượng phi
nông nghiệp). Nguồn lao động trẻ ở nông thôn rất dồi dào nhưng không di
chuyển ra thành thị, mà dịch vụ tại chỗ theo kiểu "ly nông bất ly hương". Các cơ
quan khoa học ở Đài Loan rất mạnh dạn nghiên cứu cải tạo giống mới cho nông
dân và họ không phải trả tiền.
1.2.2. Quá trình phát triển kinh tế hộ nông dân ở nước ta
- Trong thời kỳ Pháp thuộc: Ở thời kỳ này tuyệt đại bộ phận nông dân đi
làm thuê cho địa chủ, một bộ phận rất ít nông dân sản xuất hàng hóa nhỏ theo
kiểu cổ truyền với kinh nghiệm và kỹ thuật thô sơ.
- Từ năm 1955 - 1959: Sau khi miền bắc hoàn toàn giải phóng. Đảng và
nhà nước ta đã thực hiện chính sách cải cách ruộng đất với mục đích: “ Người
cày có ruộng”. Chính nhờ cải cách ruộng đất, cùng công tác khuyến nông đã làm
cho kinh tế hộ có điều kiện phát triển.
- Từ 1960 - 1980: Đây là giai đoạn chúng ta tiến hành cải cách ruộng đất,
thực hiện tập thể hóa một cách ồ ạt, song cũng chính là lúc tập thể bộc lộ rõ tính
14
yếu kém của mình, thời kỳ này kinh tế hộ không được coi trọng. Đây là thời kỳ
xuống dốc của nền nông nghiệp nước ta.
- Từ 1981 - 1987: Chỉ thị 100CT/W được Ban bí thư trung ương Đảng
ban hành, quyết định thực hiện chế độ khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và
người lao động, đời sống nông dân phần nào được cải thiện, tích lũy cho hợp tác
xã. Đây có thể nói là bước khởi đầu cho sự đổi mới.
- Từ 1988 đến nay: Ngày 5/5/1988 Bộ Chính trị và Ban Chấp hành trung
ương Đảng đã ban hành Nghị Quyết 10 về: "Đổi mới quản lý kinh tế trong nông
nghiệp và nông thôn". Thừa nhận kinh tế hộ là đơn vị kinh tế cơ bản trong sản
xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Hộ gia đình được giao quyền sử
dụng đất lâu dài, hộ trở thành đơn vị kinh tế độc lập. Hàng loạt những chính
sách đổi mới đó đã tạo được động lực thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển. Đưa
nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan.
Kể từ đó, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới
về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp,
sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối
ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế.
Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng
nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội.
Hiến pháp sửa đổi năm 1992 đã khẳng định đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp theo đó là hàng loạt các đạo luật quan trọng
của nền kinh tế thị trường đã được hình thành tại Việt Nam như: Luật đất đai;
Luật thuế; Luật phá sản; Luật môi trường; Luật lao động và hàng trăm các văn
bản pháp lệnh, nghị định của chính phủ đã được ban hành nhằm cụ thể hóa việc
thực hiện luật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
15
Cùng với việc xây dựng luật, các thể chế thị trường ở Việt Nam cũng từng
bước được hình thành. Chính phủ đã chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung, bao
cấp, nhấn mạnh quan hệ hàng hóa - tiền tệ, tập trung vào các biện pháp quản lý
kinh tế, thành lập hàng loạt các tổ chức tài chính, ngân hàng, hình thành các thị
trường cơ bản như: Thị trường tiền tệ, thị trường lao động, thị trường hàng hóa,
thị trường đất đai.
Nhìn chung, những cải cách kinh tế mạnh mẽ trong gần hai thập kỷ đổi
mới vừa qua đã mang lại cho Việt Nam những thành quả bước đầu rất đáng phấn
khởi. Việt Nam đã tạo ra được một môi trường kinh tế thị trường có tính cạnh
tranh và năng động hơn bao giờ hết. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
được khuyến khích phát triển, tạo nên tính hiệu quả trong việc huy động các
nguồn lực xã hội phục vụ cho tăng trưởng kinh tế. Các quan hệ kinh tế đối ngoại
đã trở nên thông thoáng hơn, thu hút được ngày càng nhiều các nguồn vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài, mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu và phát triển
thêm một số lĩnh vực hoạt động tạo ra nguồn thu ngoại tệ ngày càng lớn như du
lịch, xuất khẩu lao động,… Cùng với tốc độ tăng cao của GDP, cơ cấu kinh tế
trong nước đã có sự thay đổi đáng kể. Từ năm 1990 đến 2005, tỷ trọng của khu
vực nông nghiệp đã giảm từ 38,7% xuống 20,89% GDP, nhường chỗ cho sự
tăng lên về tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng từ 22,7% lên 41,03%,
còn khu vực dịch vụ được duy trì ở mức gần như không thay đổi: 38,6% năm
1990 và 38,10% năm 2005. Trong từng nhóm ngành, cơ cấu cũng có sự thay đổi
tích cực. Cơ cấu của khu vực dịch vụ thay đổi theo hướng tăng nhanh tỷ trọng
của các ngành dịch vụ có chất lượng cao như: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm,
du lịch…
Cơ cấu các thành phần kinh tế ngày càng được chuyển dịch theo hướng
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, trong đó kinh tế tư nhân được phát triển
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà
pháp luật không cấm. Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được
16
đổi mới, tạo thuận lợi cho việc chuyển dần từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp, sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng sức sản
xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đà cho tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
Qua đó cho thấy sự quan tâm của tỉnh trong phát triển kinh tế cùng với đó
là sự hỗ trợ, khuyến khích người nông dân tăng gia sản xuất. Trong kinh tế thị
trường, việc chon các loại cây trồng, vật nuôi để cho sản xuất hàng hóa lớn đã
khó, thì việc tiếp cận đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp mấy năm gần
đây cũng đang khó khăn không kém. Thị trường đầu vào của sản xuất nông
nghiệp biến động rất bất lợi cho các hộ nông dân, giá lên cao liên tục, giao thông
khó khăn, vốn ít nên khó khăn trong việc mua giá thấp với khối lượng lớn (mua
buôn), mua lẻ thì giá lại rất cao, thiếu những nhà cung cấp tin cậy và ổn định, và
còn thiếu cả thông tin để có cơ hội lựa chọn phương án tối ưu. Vì thế để thúc đẩy
kinh tế hộ nông dân phát triển nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho người nông
dân về giá vật tư nông nghiệp và thông tin về nhu cầu của thị trường.