1
I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM
NGUYN TH VN
Tờn ti:
Đánh giá thực trạng nghèo thông qua phơng pháp
tiếp cận nghèo đa chiều và giải pháp giảm nghèo bền vững
tại xã Quế Tân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
KhóA LUậN tốt nghiệp ĐạI HọC
H o to : Chớnh quy
Chuyờn ngnh : Kinh t Nụng nghip
Khoa : KT - PTNT
Khoỏ hc : 2010 - 2014
Thỏi Nguyờn, nm 2014
2
I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM
NGUYN TH VN
Tờn ti:
Đánh giá thực trạng nghèo thông qua phơng pháp
tiếp cận nghèo đa chiều và giải pháp giảm nghèo bền vững
tại xã Quế Tân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
KhóA LUậN tốt nghiệp ĐạI HọC
H o to : Chớnh quy
Chuyờn ngnh : Kinh t Nụng nghip
Lp : K42 - KTNN - N02
Khoa : KT - PTNT
Khoỏ hc : 2010-2014
Ging viờn hng dn : Ths. Nguyn Mnh Thng
Thỏi Nguyờn, nm 2014
3
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước tiên tôi xin trân trọng
cảm ơn Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa Kinh Tế & Phát Triển
Nông Thôn, cảm ơn các thầy cô giáo đã truyền đạt cho tôi những kiến thức
quý báu trong xuốt quá trình học tập và rèn luyện tại Trường Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên.
Tôi đặc biệt xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của Th.s
Nguyễn Mạnh Thắng - Giảng viên khoa Kinh Tế & Phát Triển Nông Thôn
đã giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập để hoàn thành tốt Khóa luận tốt
nghiệp này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng chí cán bộ, Đảng viên,
UBND xã Quế Tân cùng các hộ nông dân xã Quế Tân đã tạo điều kiện thuận
lợi cho tôi hoàn thành công việc trong thời gian thực tập tại địa phương.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới gia đình, bạn bè và người thân
đã giúp đỡ tôi trong xuốt quá trình thực tập.
Trong quá trình nghiên cứu vì nhiều lý do chủ quan và khách quan cho
nên Khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên.
Xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 1 tháng 6 năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Vân
4
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp: “Đánh giá thực trạng nghèo
thông qua phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều và giải pháp giảm nghèo
bền vững tại xã Quế Tân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh”, là Khóa luận do
chính bản thân tôi thực hiện trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kiến thức chuyên
ngành, nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa
học của Ths. Nguyễn Mạnh Thắng. Các số liệu, bảng và những kết quả
trong khóa luận là trung thực, các nhận xét, phương hướng đưa ra xuất phát từ
thực tiễn và kinh nghiệm hiện có. Một lần nữa tôi xin khẳng định về sự trung
thực của lời cam đoan trên.
Thái nguyên, ngày…tháng…năm 2014
Sinh viên
Nguyễn Thị Vân
5
DANH MỤC CÁC TỪ VÀ CỤM TỪ VIẾT TẮT
BQ : Bình quân
BVTV : Bảo vệ thực vật
CC : Cơ cấu
CN - XD : Công nghiệp - Xây dựng
CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
CS : Cộng sự
DT : Diện tích
GD - ĐT : Giáo dục - Đào tạo
GTSX : Giá trị sản xuất
KH - CN : Khoa học - Công nghệ
KH - KT : Khoa học - Kĩ thuật
KH - XH : Khoa học - Xã hội
KT : Kinh tế
KV : Khu vực
LĐ : Lao động
LĐ - TB&XH : Lao động - Thương binh và Xã hội
NN : Nông nghiệp
NN&PTNN : Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
NSBQ : Năng suất bình quân
SX : Sản xuất
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TM - DV : Thương mại - Dịch vụ
UBND : Ủy ban nhân dân
XĐGN : Xóa đói giảm nghèo
UNDP : Phát triển liên hợp quốc
WB : Ngân hàng thế giới
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.2: Kích thước sử dụng trong chỉ số nghèo đa chiều 11
Bảng 3.1: Chỉ tiêu số lượng mẫu điều tra. 22
Bảng 4.1: Tình hình sử dụng đất đai của xã Quế Tân năm 2011 - 2013 25
Bảng 4.2: Tình hình dân số và lao động xã Quế Tân năm 2011 - 2013 27
Bảng 4.3: Kết quả sản xuất các ngành kinh tế ở xã Quế Tân năm 2011 - 2013
30
Bảng 4.4: Tình hình thu nhập bình quân của xã Quế Tân các năm 2011 - 2013
31
Bảng 4.5: Tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo trong xã các năm 2011 - 2013: 33
Bảng 4.6: Tình hình nhân khẩu, lao động và dân tộc của các hộ năm 2013 35
Bảng 4.7: Đặc điểm bằng cấp cao nhất của 1 thành viên trong gia đình của các
hộ điều tra năm 2013: 37
Bảng 4.8: Tình hình giáo dục của các hộ điều tra năm 2013 38
Bảng 4.9: Tình hình sức khỏe các hộ điều tra năm 2013 39
Bảng 4.10: Đặc điểm về tiếp cận nguồn vốn của 60 hộ điều tra: 40
Bảng 4.11: Số hộ thuê đất canh tác nông nghiệp năm 2013 41
Bảng 4.12: Đặc điểm về kiểu nhà của các hộ điều tra năm 2013 42
Bảng 4.13: Đặc điểm về chỉ báo vốn vật chất của các hộ điều tra
năm2013……………….…………………………………………………….43
Bảng 4.14: Đặc điểm nhu cầu sinh hoạt của các hộ điều tra năm 2013 44
Bảng 4.15: Tình hình vốn tài chính năm 2013 45
Bảng 4.16: Đặc điểm vốn tâm lý của các hộ gia đình 2013 46
Bảng 4.17: Tỷ lệ hộ nghèo tính theo thu nhập năm 2013 47
Bảng 4.18: Tỷ lệ hộ nghèo qua tiếp cận đa chiều năm 2013 49
Bảng 4.19: So sánh tỷ lệ hộ nghèo qua tiếp cận nghèo đa chiều so với nghèo
đơn chiều năm 2013 50
Bảng 4.20: Tỷ lệ các nhóm đối tượng nghèo đa chiều năm 2013 51
7
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu của đề tài nghiên cứu 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài 3
1.4. Bố cục của đề tài 3
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 4
2.1. Cơ sở lý luận 4
2.1.1. Khái niệm nghèo 4
2.1.2. Chuẩn mực xác định nghèo đói 5
2.1.3. Khái niệm nghèo đa chiều 8
2.1.4. Chuẩn nghèo đa chiều 10
2.1.5. Các quan niện về giảm nghèo bền vững 13
2.1.6. Các khía cạnh của đói nghèo 15
2.2. Cơ sở thực tiễn 17
2.2.1. Đặc điểm nghèo đói ở nước ta 17
CHƯƠNG 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU 20
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 20
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 20
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 20
3.2. Nội dung nghiên cứu 20
3.3. Câu hỏi nghiên cứu 20
3.4. Phương pháp nghiên cứu 21
3.4.1. Chọn điểm nghiên cứu 21
3.4.2. Phương pháp thu thập số liệu 21
3.4.3. Phương pháp phân tích số liệu 23
CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 24
4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 24
4.1.1. Điều kiện tự nhiên của xã Quế Tân 24
4.1.2. Điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội của xã Quế Tân 26
8
4.1.3. Thuận lợi và khó khăn điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội
trong quá trình giảm nghèo của xã Quế Tân 32
4.2. Thực trạng nghèo của xã Quế Tân 33
4.2.1. Tình hình nghèo đói của xã Quế Tân 33
4.2.2. Tình hình nghèo của các hộ điều tra 34
4.2.3. Đánh giá nghèo thông qua tiếp cận đơn chiều 47
4.2.5. So sánh tỷ lệ hộ nghèo của phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều với
nghèo đơn chiều 49
4.2.6. Phân loại các nhóm đối tượng nghèo đa chiều và nguyên nhân nghèo
50
4.2.7. Phân tích SWOT đối với quá trình giảm nghèo bền vững 54
4.2.8. Giải pháp giảm nghèo bền vững tại xã Quế Tân, huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh 56
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 61
1. Kết luận 61
2. Kiến nghị 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 64
1
CHƯƠNG 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghèo là một trong những vấn đề gay gắt và mang tính toàn cầu, còn
trầm trọng hơn khi nó vẫn còn tồn tại trên phạm vi vô cùng rộng lớn. Nghèo
là nỗi bất hạnh của nhiều người, là nghịch lý trên con đường phát triển chung
của xã hội. Trong một thời gian khá dài chúng ta thường nói về nghèo như là
một bộ phận dân chúng, những người có mức thu nhập trung bình thấp hơn
1USD (quy đổi)/ngày vào những năm 90 của thế kỷ 20 và hiện giờ là nhỏ hơn
2USD/ngày/người theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB). Như vậy,
rõ ràng chúng ta chỉ nhìn vào các con số để đánh giá nghèo mà đã vô tình
quên đi các nguyên nhân gây ra nghèo, trong đó quan trọng nhất là “sự bất
bình đẳng” và “chênh lệch quyền lực” giữa các cá nhân và giữa các nhóm
người trong xã hội. Nếu nghĩ nghèo dưới góc độ kinh tế, tài chính thì phải
chăng để xoá nghèo, chúng ta chỉ việc tập trung nâng cao vốn kinh tế, tài
chính làm cho người nghèo tăng trưởng về thu nhập?
Dựa trên quan điểm này, khái niệm “nghèo đa chiều” đã ra đời trong
đó xác định rõ nghèo không hẳn chỉ là đói ăn, thiếu uống hoặc thiếu các điều
kiện sống, sinh hoạt khác mà nghèo đói còn được gây ra bởi các rào cản về xã
hội và các tác nhân khác ngăn chặn những cá nhân hoặc cộng đồng tiếp cận
đến sức khỏe, giáo dục và mức sống.
Trong những năm gần đây xã Quế Tân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đã áp
dụng nhiều các giải pháp giảm nghèo nhằm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và
đạt được những thành tựu nhất định. Tỷ lệ người dân được tiếp cận với các dịch
vụ xã hội cơ bản, cơ sở hạ tầng được cải thiện rõ rệt, đời sống người nghèo được
nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể. Kết quả giảm nghèo tuy đạt được những
mục tiêu đề ra nhưng chưa thực sự bền vững. Tỷ lệ hộ cận nghèo, hộ phát sinh còn
lớn, tư tưởng trông chờ, ỷ lại không muốn thoát nghèo còn diễn ra phổ biến ở một
bộ phận người dân, chênh lệch người nghèo giữa các vùng và giữa các đối tượng
còn lớn, số hộ đã thoát nghèo nhưng mức thu nhập nằm sát với mức chuẩn nghèo,
nguy cơ tái nghèo cao. Do vậy, cần có một chương trình thoát nghèo một cách
2
nghiêm túc và khoa học. Chúng ta không nên nhìn nghèo chỉ với một khía cạnh
đó là theo thu nhập, không xem nghèo là một hiện tượng đơn lẻ mà là hiện tượng
đa khía cạnh, phức tạp, chồng chéo bao gồm nhiều yếu tố khác nhau. Phương
pháp đo lường nghèo đổi từ đơn chiều (theo thu nhập) sang đa chiều để tăng độ
bao phủ chính sách tới các đối tượng. Trong thời kì đổi mới, hội nhập kinh tế thế
giới, nền kinh tế Bắc Ninh, nền kinh tế huyện Quế Võ, cũng như nền kinh tế xã
Quế Tân có những chuyển đổi rất mạnh theo hướng CNH - HĐH. Vấn đề cấp
thiết cần được đề ra là nghiên cứu, phân tích, đánh giá nghèo một cách đúng đắn,
từ đó đưa ra các phương pháp để phát huy các thế mạnh và hạn chế các thế yếu,
nhằm đưa xã Quế Tân thoát nghèo bền vững có hiệu quả. Hiện nay, các nghiên
cứu về nghèo đa chiều hầu như chưa có. Vì vậy, để hệ thống hóa cũng như đánh
giá được thực trạng nghèo theo hướng đa chiều là rất cần thiết.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá thực trạng
nghèo thông qua phương pháp tiếp cận nghèo đa chiều và giải pháp giảm
nghèo bền vững tại xã Quế Tân, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh”.
1.2. Mục tiêu của đề tài nghiên cứu
* Mục tiêu chung:
Trên cơ sở đánh giá thực trạng nghèo tại địa bàn xã Quế Tân, thông
qua tiếp cận nghèo đa chiều đưa ra phân tích, đánh giá nghèo một cách chính
xác. Từ đó rút ra các giải pháp cụ thể nhằm giảm nghèo bền vững tại xã Quế
Tân. Góp phần cho việc giảm nghèo, thoát nghèo và tránh tái nghèo.
* Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá được thực trạng nghèo của xã Quế Tân thông qua phương
pháp tiếp cận nghèo đơn chiều và đa chiều.
- Phân tích được các nhân tố ảnh hưởng tới nghèo trong địa bàn xã Quế Tân.
- So sánh được tỷ lệ hộ nghèo của phương pháp tiếp cận đa chiều so với
phương pháp tiếp cận đơn chiều.
- Phân tích được những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trong
quá trình thoát nghèo tại xã Quế Tân.
- Đề xuất được các giải pháp nhằm thoát nghèo bền vững.
3
1.3. Ý nghĩa của đề tài
* Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Nghiên cứu đề tài là cơ sở cho sinh viên vận dụng sáng tạo những
kiến thức đã học vào thực tiễn và là tiền đề quan trọng để sinh viên thấy được
những kiến thức cơ bản cần bổ sung để phù hợp với thực tế công việc sau này.
- Nghiên cứu đề tài nhằm phát huy cao tính tự giác, chủ động học tập,
nghiên cứu của sinh viên. Nâng cao tinh thần tìm tòi, học hỏi, sáng tạo và khả
năng vận dụng kiến thức vào tổng hợp, phân tích, đánh giá tình hình và định
hướng những ý tưởng trong điều kiện thực tế.
- Đây là khoảng thời gian để mỗi sinh viên có cơ hội được thực tế vận
dụng kiến thức đã học vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học và là bàn đạp cho
việc xuất phát những ý tưởng nghiên cứu khoa học sau này.
* Ý nghĩa trong thực tiễn.
- Từ kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp một phần vào bản báo cáo đánh giá
thực trạng nghèo của địa phương thông qua phương pháp tiếp cận nghèo đa
chiều và giải pháp giảm nghèo bền vững của xã Quế Tân. Ngoài ra, từ những
phát hiện trong quá trình nghiên cứu có thể cho địa phương có một cái nhìn
tổng thể cũng như chi tiết hơn về thực trạng nghèo của xã. Qua đó, phần nào
giúp định hướng những kiến nghị lên cơ quan quản lý cấp trên kịp thời đưa ra
những giải pháp nhằm giúp địa phương giảm nghèo bền vững.
- Xác định được các yếu tố gây ảnh hưởng đến nghèo của các hộ trong
xã. Từ đó, nắm bắt được nhu cầu, mong muốn của các hộ và đề ra các giải
pháp giải quyết các nhu cầu trước mắt của người dân. Góp phần thúc đẩy kinh
tế, văn hóa, giáo dục của địa phương, góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời
sống người dân trên địa bàn xã.
1.4. Bố cục của đề tài
Chương 1: Đặt vấn đề
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Chương 3: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Kết luận và kiến nghị
4
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm nghèo
Việt Nam thừa nhận quan điểm về đói nghèo của Hội nghị chống đói
nghèo khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức tại Băng Kok -
Thái Lan vào tháng 9/1993. Khái niệm đói nghèo được thể hiện như sau:
“Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà các nhu cầu này đã được
xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập
quán của từng địa phương” (Nguyễn Thị Bình và cs, 2006) [1].
Nói một cách cụ thể hơn, nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư có
mức sống ở mức tối thiểu, không thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người.
Nhu cầu cơ bản ở đây chính là cái thiết yếu, cái tối thiểu để duy trì sự tồn tại
của con người. Nhu cầu ăn, mặc, ở, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp, v.v…
“Đói là một bộ phận của những người nghèo có mức sống dưới mức tối
thiểu như: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thu nhập không duy trì cuộc sống”
(Nguyễn Thị Bình và cs, 2006) [1].
“Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không có khả năng
thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu để duy trì cuộc sống. Trên thực tế một bộ phận
lớn dân cư nghèo tuyệt đối rơi vào tình trạng đói và thiếu ăn” (Nguyễn Thị
Bình và cs, 2006) [1].
“Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương” (Nguyễn Thị Bình và cs,
2006) [1].
Nghèo còn được nhận diện ở bốn khía cạnh là không gian, thời gian,
môi trường và giới.
5
Về thời gian: Phần lớn người nghèo có mức sống dưới mức được xác
định như một chuẩn thấp nhất có thể chấp nhận trong một thời gian dài (cũng
cần phải bổ sung vào số người này những người nghèo tình thế do thất nghiệp
do thiên tai, rủi do hay do con người gây ra) (Nguyễn Vũ Phúc, 2012) [3].
Vể giới: Phần lớn người nghèo ở các nước đều là phụ nữ. Mặc dù trong
gia đình, nam giới là chủ nhưng phụ nữ vẫn phải gánh chịu nhiều hơn gánh
nặng của nghèo (Nguyễn Vũ Phúc, 2012) [3].
Về không gian: Nghèo diễn ra chủ yếu ở nông thôn, miền núi, vùng
sâu, vùng xa, v.v… Dù nền kinh tế có phát triển đến thế nào chăng nữa, dân
cư ở các vùng kể trên vẫn dễ bị rơi vào nghèo (Nguyễn Vũ Phúc, 2012) [3].
Về môi trường: Hầu hết những người nghèo đều phải sống trong môi
trường khắc nhiệt và xuống cấp nghiêm trọng, bởi vì những người nghèo không
đủ khả năng và điều kiện gìn giữ, đảm bảo và cải thiện môi trường sống (Nguyễn
Vũ Phúc, 2012) [3].
Tóm lại: Những quan niệm về nghèo đói do các cách tiếp cận khác nhau nên
có những ý kiến khác nhau, nghèo là một khái niệm tương đối và có tính biến đổi.
Các chỉ số xác định giới hạn nghèo không phải là cứng nhắc và bất biến. Nó biến
đổi tùy theo sự chênh lệch, sự khác biệt giữa các vùng, miền, quốc gia.
2.1.2. Chuẩn mực xác định nghèo đói
* Chuẩn mực xác định nghèo đói trên thế giới:
Để đánh giá nghèo đói Liên hợp quốc (UNDP) dùng cách tính dựa trên
cơ sở phân phối thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong
thời gian nhất định. Nó không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi
trường sống của dân cư mà chia đều cho mọi thành phần dân cư. Phương
pháp tính là: Đem chia dân số của 1 nước, 1 châu lục hoặc toàn cầu ra làm 5
nhóm, mỗi nhóm có 20% dân số bao gồm: rất giàu, giàu, trung bình, nghèo,
rất nghèo. Theo cách tính này vào những năm 1990 thì 20% dân số giàu nhất
6
chiếm 82,7% thu nhập toàn thế giới, trong khi 20% người nghèo nhất chỉ
chiếm 1,4% thu nhập toàn thế giới.
Hiện nay, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra các chỉ tiêu đánh giá mức độ
giàu nghèo của các quốc gia dựa vào thu nhập quốc dân bình quân tính theo
đầu người trong một năm với cách tính đó là: Phương pháp Atlas tức là tính
theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD.
Theo phương pháp Atlas, năm 1990 người ta chia mức bình quân của
các nước trên toàn thế giới làm 6 loại:
+ Trên 25.000USD/người/năm là nước cực giàu.
+ Từ 20.000 dến dưới 25.000UDS/người/năm là nước giàu.
+ Từ 10.000 đến dưới 20.000USD/người/năm là nước khá giàu.
+ Từ 2.500 đến dưới 10.000USD/người/năm là nước trung bình.
+ Từ 500 đến dưới 2.500USD/người/năm là nước nghèo.
+ Dưới 500USD/người/năm là nước cực nghèo.
Theo quan điểm chung của nhiều nước, hộ nghèo là hộ có thu nhập
dưới 1/3 mức trung bình của xã hội. Do đặc điểm của nền KT - XH và sức
mua của đồng tiền khác nhau, chuẩn nghèo theo thu nhập (tính theo USD)
cũng khác nhau ở từng quốc gia. Ở một số nước có thu nhập cao, chuẩn nghèo
được xác định là 14USD/người/ngày. Trong khi đó chuẩn nghèo của Malaixia
là 28USD/người/tháng, Srilanca là 17USD/người/tháng, v.v… Ở Việt Nam,
GDP bình quân khoảng 600USD/người/năm, nên so diện chung của thế giới
nước ta là nước nghèo khó. Do đó, không thể lấy mức nghèo của WB để xác
định nghèo của Việt Nam (Nguyễn Vũ Phúc, 2012) [3].
* Xác định tiêu trí chuẩn nghèo của Việt Nam:
- Phương pháp xác định chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thường trực của
chương trình XĐGN đã tiến hành rà soát chuẩn nghèo qua các thời kì. Lúc
đầu, nghèo được xác định dựa trên các chỉ tiêu nhu cầu, sau đó chuyển sang
7
chỉ tiêu thu nhập, kết quả là đã 5 lần công bố chuẩn nghèo đói cho từng giai
đoạn khác nhau (bảng 2.1):
Bảng 2.1: Quy định về chuẩn nghèo đói (theo tiêu chuẩn quốc gia)
Chuẩn nghèo
đói qua các giai
đoạn
Phân loại nghèo đói
Mức thu nhập bình
quân/người/tháng
1993 - 1995
(Mức thu nhập
quy ra gạo)
Đói (KV nông thôn) Dưới 8 KG
Đói (KV thành thị) Dưới 13 KG
Nghèo (KV nông thôn) Dưới 15 KG
Nghèo (KV thành thị) Dưới 20 KG
1996 - 2000
(Mức thu nhập
quy ra gạo tương
đương với số
tiền)
Đói (tính cho mọi KV) Dưới 13 KG ( 45.000 đồng)
Nghèo (KV nông thôn,
miền núi, hải đảo)
Dưới 15 KG (55.000 đồng)
Nghèo (KV nông thôn,
đồng bằng trung du)
Dưới 20 KG (70.000 đồng)
Nghèo (KV thành thị) Dưới 25 KG (90.000 đồng)
2001 - 2005
(Mức thu nhập
tính bằng tiền)
Nghèo (KV nông thôn,
miền núi hải đảo)
Dưới 80.000 đồng
Nghèo (KV nông thôn,
đồng bằng trung du)
Dưới 100.000 đồng
Nghèo (KV thành thị) Dưới 150.000 đồng
2006 - 2010
(Mức thu nhập
tính bằng tiền)
Nghèo (KV nông thôn) Dưới 200.000 đồng
Nghèo (KV thành thị) Dưới 260.000 đồng
2011 – 2015
(Mức thu nhập
tính bằng tiền)
Nghèo (KV thành thị) Dưới 500.000 đồng
Cận nghèo (KV thành thị) Từ 501.000 - 650.000 đồng
Nghèo (KV nông thôn) Dưới 400.000 đồng
Cận nghèo (KV nông thôn) Từ 401.000 - 520.000 đồng
(Nguồn: Bộ LĐ-TB và XH, chương tình mục tiêu quốc gia về XĐGN)
8
Đầu năm 1998, cả nước có 2,65 triệu hộ với khoảng 14 triệu dân nghèo
đói, chiếm 17,7% dân số. Trong đó có 300.000 hộ thường xuyên nghèo đói;
có 1.498 xã có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên và 1.168 xã thiếu cơ sở hạ tầng
thiết yếu (điện, đường, trường, trạm xá, chợ, nước sạch, v.v…), 2/3 số xã
nghèo là các xã miền núi, khoảng 1,2 triệu người ở 978 xã cần được định
canh, định cư và 15 vạn đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn cần được
hỗ trợ phát triển. Đến cuối năm 2000, tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị còn 6% và
nông thôn 11,2%. Đầu năm 2001 khi thay đổi chuẩn nghèo đói, nước ta còn
khoảng 2,8 triệu hộ nghèo (chiếm 17,11%) đến cuối năm 2005 còn khoảng
1,6 triệu hộ nghèo, chiếm khoảng 9,5% (Nguyễn Vũ Phúc, 2012) [3].
2.1.3. Khái niệm nghèo đa chiều
Nghĩ đến nghèo, chắc hẳn mỗi chúng ta nghĩ đến đầu tiên sự thiếu thốn
về tiền và thu nhập. Và đó là cách nghĩ phổ biến, vậy nghèo đa chiều là gì?
Nghèo đa chiều (multidimensional poverty): Đã ra đời trong đó xác
định rõ nghèo không hẳn chỉ là đói ăn, thiếu uống hoặc thiếu các điều kiện
sống, sinh hoạt khác mà nghèo đói còn được gây ra bởi các rào cản về xã hội
và các tác nhân khác ngăn chặn những cá nhân hoặc cộng đồng tiếp cận với
các dịch vụ về: sức khỏe, giáo dục và mức sống. Như vậy, sự nghèo khó
không chỉ đơn thuần là một cá thể mà nó bao gồm các yếu tố kìm hãm cá thể
đó không tiếp cận được các nguồn lực hoặc không biết và không thể tìm ra
các giải pháp cho bản thân để thoát ra khỏi tình trạng hiện có [13].
Chưa có định nghĩa thống nhất về khái niệm nghèo đa chiều, nhưng nó có
đặc tính cơ bản là: không nhìn nghèo với con mắt một chiều mà nhiều chiều;
không xem nghèo là một hiện tượng đơn lẻ mà là hiện tượng đa khía cạnh, phức
tạp, chồng chéo, bao gồm nhiều yếu tố khác nhau. Nghèo đa chiều là sự thiếu
hụt tổng hợp của hai hay nhiều loại vốn khác nhau của một người hoặc nhóm
người: vốn sức khoẻ, vốn tâm lý, vốn thông tin, vốn con người, vốn tài chính,
vốn vật chất, vốn tự nhiên…. Ta sẽ đi tìm hiểu về từng loại vốn để thấy được tầm
quan trọng của chúng và có các biện pháp giảm nghèo thích hợp [13].
* Vốn tự nhiên (natural capital): NN chính là hoạt động chủ yếu
trong nông thôn. Vì vậy, vốn tự nhiên là tài sản vô cùng quan trọng. Bao gồm
9
đất đai và nguồn nước tưới tiêu. Thiếu vốn tự nhiên có nghĩa là thiếu hoặc
không có đất hoặc có nhưng đất đai cằn cỗi, không thể canh tác được. Thiếu
vốn tự nhiên tức là thiếu tư liệu sản xuất và kìm hãm sự phát triển kinh tế
(Trần Tiến Danh, Nguyễn Ngọc Danh, 12/2012) [2].
* Vốn vật chất (physical capital): Vốn vật chất của hộ được chia làm
3 nhóm là tài sản sản xuất, tài sản tiêu dùng và một số chỉ số khác như điều
kiện nhà ở, điện nước sạch và nhà vệ sinh. Diện tích nhà ở, giá trị nhà ở và
kiểu nhà là các biến đại diện cho điều kiện nhà ở. Sự hiện diện của vườn
cây lâu năm, gia súc cày kéo, chuồng trại chăn nuôi, máy cày, máy kéo,
thuyền máy, máy bơm nước, máy say, máy sát, v.v… được coi là chỉ báo
của tài sản sản xuất. Trong khi sở hữu các phương tiện khác như xe ô tô, xe
máy, điện thắp sáng, điện thoại, máy vi tính, tủ lạnh, máy giặt, điều hòa,
v.v… là những chỉ báo cho tài sản tiêu dùng. Vốn vật chất thể hiện quy mô
làm ăn, nếu thiếu các phương tiện SX cũng làm giảm thu nhập trong gia
đình (Trần Tiến Danh, Nguyễn Ngọc Danh, 12/2012) [2].
* Vốn tài chính (financial capital): Có 3 chỉ báo có thể phản ánh vốn tài
chính là giá trị nhà, giá trị món vay tín dụng và số tiền gửi nhận được trong năm.
Từ nguồn vốn tài chính ta có thể đánh giá lượng tiền luân chuyển trong năm
(Trần Tiến Danh, Nguyễn Ngọc Danh, 12/2012) [2].
* Vốn sức khoẻ (capital health): Sức khoẻ là yếu tố vô cùng quan
trọng đối với sự thành công của mỗi con người. Nếu không có sức khoẻ, thì
con người sẽ không thể lao động, sáng tạo và làm việc được. Hiện nay, nhiều
tổ chức đã đo lường chỉ số dinh dưỡng và tỉ lệ tử vong của trẻ em, tỷ lệ người
lớn và trẻ em mắc các bệnh hiểm nghèo để xem xét vấn đề nghèo đa chiều.
Thực tế, việc suy dinh dưỡng và bệnh tật ở trẻ em đã làm ảnh hưởng xấu tới
gia đình. Chi phí khám chữa bệnh và thuốc thang chiếm một phần rất lớn nhu
cầu chi tiêu của gia đình. Bên cạnh đó, điều này cũng ảnh hưởng lớn tới sức
khoẻ của thế hệ tương lai. Một cộng đồng yếu kém về sức khoẻ thì nguy cơ
nghèo là rất cao. Do vậy, sức khoẻ kém cũng chính là nghèo (Trần Tiến Danh,
Nguyễn Ngọc Danh, 12/2012) [2].
* Vốn con người (human capital): Là một nguồn vốn đạt được trong
quá trình giáo dục và các hoạt động trong cuộc sống. Các giá trị, chuẩn mực
10
của xã hội, các mô hình ứng xử, các thói quen tốt, các kiến thức, kinh nghiệm,
kỹ năng để thực hiện các hoạt động kinh tế là những nội dung cực kỳ quan
trọng mà vốn này mang lại cho con người. Một con người thiếu vốn giáo dục
là thiếu hụt đi nền tảng để thích ứng được với cuộc sống của xã hội (Trần Tiến
Danh, Nguyễn Ngọc Danh, 12/2012) [2].
* Vốn tâm lý (psychological capital):
Tâm lý cũng là một loại vốn. Điều
này có vẻ mới lạ. Chúng ta thường nghĩ vốn là tiền bạc, là vật chất, là đất đai.
Nhưng không nghĩ rằng tâm lý là một loại vốn. Chính những chuyên gia của
Ngân hàng Thế giới như Alsop và Đồng sự (2005) cũng công nhận tâm lý đóng
vai trò rất quan trọng trong “khả năng nhận biết thay đổi”. Thiếu hụt tâm lý,
dẫn tới đánh mất sự tự tin, khả năng dám tham gia, dám thay đổi những cái lạc
hậu hay khả năng chuyển đổi những sự lựa chọn của mình thành hiện thực
(Trần Tiến Danh, Nguyễn Ngọc Danh, 12/2012) [2].
* Vốn thông tin (capital information): Cũng như vốn tâm lý, thông tin
thường không được xem là một tài sản. Nhưng đó là một sai lầm. Thông tin là
sức mạnh. Nó càng quan trọng hơn trong thời đại công nghệ thông tin, nơi mà
thông tin được bán như các hàng hoá khác. Vốn thông tin ở một người, nhóm
người chính là ở khả năng được nghe, biết thông tin từ các kênh truyền thông
như radio, loa phát thanh của xã, huyện, tờ thông tin, ti vi, mạng internet,
v.v, Có được thông tin chính là có được khả năng để hiểu và tham gia vào
chương trình, dự án
(Trần Tiến Danh, Nguyễn Ngọc Danh, 12/2012) [2].
2.1.4. Chuẩn nghèo đa chiều
Chỉ số nghèo đa chiều (Multidimensional Poverty Index - MPI) được tổ
chức Sáng kiến phát triển con người và nghèo đói của Đại học Oxford (OPHI)
cùng UNDP sử dụng trong Báo cáo Phát triển Con người (Human
Development Report), công bố vào ngày 02/11/2011. Chỉ số MPI được xây
dựng dựa trên phương pháp luận của Alkire và Foster (2007) bao gồm ba
chiều đo lường là sức khỏe, giáo dục và mức sống với 10 chỉ báo với các
trọng số khác nhau [10].
Chỉ số sử dụng cùng ba kích thước là: sức khỏe, giáo dục và mức sống.
Đây là những thước đo bằng cách sử dụng các chỉ số 10 [10].
11
Bảng 2.2: Kích thước sử dụng trong chỉ số nghèo đa chiều
Kích thước Chỉ số
Sức khỏe
•
Tỷ lệ tử vong trẻ em
•
Dinh dưỡng
Giáo dục
•
Năm học
•
Trẻ em đi học
Mức sống
•
Nhiên liệu nấu ăn
•
Nhà vệ sinh
•
Nước
•
Điện
•
Nhà
•
Tài sản
(Nguồn: Báo cáo Phát triển Con người, 2011)
Mỗi chỉ số trong một chiều hướng là bằng nhau tương ứng với mỗi
trọng số trong chiều khác nhau.
Công thức tính chỉ số MPI: MPI = H x A
H: Tỷ lệ % những người nghèo đa chiều trong một cộng đồng (tỷ lệ nghèo
đói đa chiều).
A: Cường độ trung bình thiếu hụt các chỉ số của những người nghèo đa
chiều (%). Biểu thị tỷ lệ các chỉ số trong đó bị thiếu hụt. A càng lớn thì tỷ lệ thiếu
hụt các chỉ số càng cao.
Các chỉ số mười sau đây được sử dụng để tính chỉ số MPI:
* Giáo dục (mỗi chỉ số có trọng số bằng nhau ở 1/6):
1. Năm học: Bị thiếu 1/6 trọng số nếu không có thành viên nào trong hộ
gia đình đã hoàn thành cấp độ tiểu học.
2. Trẻ em đi học: Bị thiếu 1/6 trọng số nếu trong gia đình có độ tuổi đi
học ở trẻ em không được đi học đến lớp 9.
* Sức khỏe (mỗi chỉ số có trọng số bằng nhau ở 1/6):
12
3. Tỷ lệ tử vong trẻ em: Bị thiếu 1/6 trọng số nếu có trẻ em đã chết
trong gia đình.
4. Dinh dưỡng: Bị thiếu1/6 trọng số nếu trong gia đình có trẻ em
hoặc người lớn mắc các bệnh hiểm nghèo hoặc trong gia đình có trẻ em bị
suy dinh dưỡng.
* Mức sống (mỗi chỉ số có trọng số bằng nhau ở 1/18):
5. Điện: Bị thiếu 1/18 trọng số nếu hộ gia đình không có điện.
6. Nhà vệ sinh: Bị thiếu 1/18 trọng số nếu nhà vệ sinh của hộ gia
đình chưa được cải thiện hoặc cải thiện nhưng không đảm bảo. Nhà vệ sinh
đảm bảo theo quy định của Bộ Y tế (QĐ 08/2005/QD-BYT), bao gồm các
yêu cầu về cách ly chất thải chưa xử lý, tiêu diệt các kí sinh trùng gây bệnh
trong phân và tránh ô nhiễm môi trường. Nhà tiêu hợp lý gồm các nhà vệ
sinh tự hoại, nhà vệ sinh 2 ngăn. Nhà tiêu không hợp lý là các nhà xí chất
thải chưa được cách ly và xử lý gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con
người và môi trường.
7. Nước uống: Bị thiếu 1/18 trọng số nếu hộ gia đình không được tiếp
cận với nước uống an toàn, hợp vệ sinh. Hiện nay, nhiều hộ sử dụng giếng
khoan, giếng đào để lấy nước ăn uống và sinh hoạt rất phổ biến. Hầu hết hộ
sử dụng nước chỉ dựa vào mắt thường để đánh giá chất lượng nước, chỉ cần
thấy nước trong, không mùi, không vị là được. Hiện nay, mạch nước ngầm ở
một số nơi đã bị ô nhiễm nặng, nên nước giếng khoan, nước máy cũng chưa
hợp vệ sinh và tiêu chuẩn nước sạch được. Nước bơm lên phải qua các công
đoạn xử lý ngiêm ngặt, đạt tiêu chuẩn (QCVN 01/2009) của Bộ Y tế. Do vậy,
hộ sử dụng nước uống được đánh giá là hợp vệ sinh là hộ được tiếp cận với
các loại nước lọc đã qua các công đoạn xử lý, hộ có máy lọc nước tại gia đình
hoặc mua nước ở các cơ sở sản xuất để lấy nước ăn uống và sinh hoạt. Các
nguồn nước từ sông, suối, ao, hồ, nước giếng đào, nước giếng khoan, nước
máy chưa được qua các công đoạn xử lý theo têu chuẩn là nước chưa an toàn
và chưa hợp vệ sinh có thể ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe con người.
13
8. Nhà: Bị thiếu 1/18 trọng số nếu nhà của hộ gia đình không đảm bảo
chất lượng sinh hoạt. Các hộ sử dụng nhà tạm, nhà bán kiên cố được xây với
kiến trúc giảm đơn, không sạch sẽ là hộ có nhà ở chưa đảm bảo.
9. Nhiên liệu nấu ăn: Bị thiếu 1/18 trọng số nếu gia đình vẫn nấu ăn
bằng rác, gỗ hoặc than chưa đảm bảo vệ sinh và chất lượng trong ăn uống,
chưa được tiếp cận với các loại bếp như bếp từ, bếp điện, bếp ga… trong sinh hoạt.
10. Tài sản sở hữu: Bị thiếu 1/18 trọng số nếu gia đình không sở hữu
nhiều hơn một tivi, điện thoại, xe đạp, xe máy, v.v… hoặc tủ lạnh, máy giặt và
không sở hữu một chiếc xe hơi hoặc xe tải nào. Là những hộ rất nghèo nàn về
tài sản tiêu dùng, tài sản của hộ rất thô sơ và kém chất lượng, nhu cầu sinh
hoạt rất thấp và vô cùng thiếu thốn.
Tổng thiếu hụt của tất cả các chỉ số trong nghèo đa chiều là 100%, một
người được coi là nghèo đa chiều nếu họ bị thiếu trong ít nhất 33,33% của các
chỉ số có trọng số.
Cường độ nghèo đa chiều biểu thị tỷ lệ của các chỉ số trong
đó họ bị thiếu hụt [10].
Chỉ số nghèo đa chiều bao quát được trực tiếp hơn sự túng thiếu, tổn
thất trong các tác động đến sức khỏe, giáo dục và mức sống thiết yếu như
nước sạch, vệ sinh, điện, năng lượng…. Ở một số nước các nguồn này được
cung cấp miễn phí hoặc với một giá rất thấp trong khi một số nơi chúng trở
nên vượt quá mức so với thu nhập của người lao động [10].
Các nhà nghiên cứu của OPHI (Oxford Poverty and Human Development
Initiative) đã thống kê số liệu từ 104 nước với dân số khoảng 5,2 tỷ người
(chiếm 78% tổng dân số toàn cầu), có khoảng 1,7 tỷ người đang sống trong tình
trạng nghèo khổ đa chiều (chiếm khoảng 1/3 tổng dân số). Con số này vượt quá
1,3 tỷ người cùng ở các nước này nếu tính theo ngưỡng 1,25USD/ngày - phương
pháp được chấp nhận phổ biến đo lường nghèo cùng cực [12].
2.1.5. Các quan niện về giảm nghèo bền vững
Nghèo bền vững (sustainable poverty): Khi đã có thế xác định được
các vấn đề của nghèo khó hay của “những người sống trong nghèo khó” thì
các Quốc gia, trong nỗ lực XĐGN của mình thường áp dụng các giải pháp
cho các nhóm đối tượng cụ thể sau đây:
14
Nhóm thứ nhất: Những người có trong tay nhiều tài nguyên hơn, chấp
nhận các mạo hiểm, bóc lột tài nguyên và lờ đi các rủi ro để đạt được lợi nhuận
lớn trong một thời gian rất ngắn đưa cá nhân hay cộng đồng thoát khỏi tình trạng
nghèo khó - đây chính là phát triển không bền vững mà các nước đang phát triển
(trong đó có Việt Nam) thường mắc phải. Nạn phá rừng bừa bãi, giúp cho người
dân có lợi nhuận lớn ở mức độ hiện tại. Họ không biết hoặc biết nhưng cố tình
làm, tác hại của nó vô cùng lớn gây sạt lở đất, lũ lụt, hạn hán khắp nơi, ảnh
hưởng môi trường, mất mùa dẫn đến đói nghèo. Tuy nhiên họ không chấp nhận
đi theo hướng khác mà vẫn tiếp tục tìm kiếm cơ hội bằng cách thức này [11].
- Nhóm thứ hai: Do một phần bị hạn chế về nguồn lực và tài nguyên
nên nhóm này thường chọn giải pháp an toàn cho mình thông qua các loại
hình sinh kế it rủi ro và đầu tư cũng ít hơn. Chăn nuôi quy mô nhỏ và sản xuất
lúa gạo (với diện tích đất vừa và nhỏ) là một ví dụ điển hình của cách thức
này. Do không có các đột biến lớn nên điều kiện sống có thể được cải thiện
đôi chút nhưng vẫn luôn ngấp nghé cái ngưỡng “nghèo” nên nhóm này có thể
gọi là “nghèo bền vững” với rất ít các rủi ro và vì vậy cái sự nghèo này có
tính bền vững cao. Để cân bằng cả hai cách tiếp cận này cho cả hai nhóm đối
tượng, người ta đang đi tìm một cách tiếp cận phù hợp hơn cho các bên, được
gọi là các chính sách giảm nghèo bền vững [11].
Theo nhận xét của nhiều chuyên gia và theo đánh giá trong nhiều báo cáo
của Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), thì trong khoảng 20 năm mở cửa vừa qua,
tuy Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào về phát triển kinh tế và
XĐGN, nhưng phần lớn “hàm lượng tăng trưởng” đều có sự đóng góp rất đáng kể
của các nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn đang bị khai thác một cách ồ ạt và thiếu
sự kiểm soát. Đất nước chúng ta đang đi trên một con đường gập ghềnh và thiếu
tính bền vững. Nếu chúng ta không thay đổi nhanh và đi theo hướng dùng hàm
lượng trí tuệ để đầu tư cho các sản phẩm trong nước thì chỉ ít năm tới chúng ta sẽ
nhìn thấy ngay sự đổ vỡ của nền kinh tế [11].
Đi theo hướng thứ hai nghĩa là không mạo hiểm, ít rủi ro và đầu tư
thấp, chúng ta sẽ ít nhiều có khả năng đảm bảo an ninh lương thực và nâng
lên chút ít đời sống của nhân dân theo hướng lâu dài và ổn định. Tuy nhiên,
nếu xét trong bối cảnh thế giới ngày nay khi mà KH - CN tiến nhanh như vũ
15
bão thì mô hình này sẽ dần dần bị phá sản bởi một lý do rất đơn giản. Do các
nước khác tiến quá nhanh nên nếu bạn tiến chậm hoặc không tiến thì bạn sẽ
giống như đi thụt lùi và trở nên tụt hậu [11].
Cần phải có một giải pháp dung hòa để đảm bảo đất nước ta vẫn tiến
lên theo hướng bền vững hơn, nhưng tài nguyên không bị cạn kiệt nhanh
chóng và khái niệm bền vững sẽ có thể được hiểu như là đích đến của quá
trình thoát nghèo. Khi một cộng đồng hay một cá thể nào đó thoát khỏi tình
trạng nghèo khó thì sự thoát nghèo đó phải thực sự bền vững thông qua việc
nâng cao khả năng chống chịu trước các cú sốc của thị trường trong bất cứ
hoàn cảnh nào, thoát nghèo 1 cách bền vững, khó có thể tái nghèo trở lại. Các
hộ thoát nghèo phải vươn lên ở mức khá, tỷ lệ hộ cận nghèo giảm, khoảng
cách giàu nghèo được thu hẹp. Có như vậy các nỗ lực thoát nghèo mới thực
sự hữu ích và người dân sẽ không bị quay trở lại ranh giới nghèo một cách dễ
dàng khi thiên tai, dịch bệnh xảy ra.
2.1.6. Các khía cạnh của đói nghèo
* Về thu nhập: Đa số những người nghèo thường có cuộc sống khó
khăn cực khổ, mức thu nhập thấp, điều này do tính chất công việc đem lại.
Người nghèo thường làm những công việc đơn giản, lao động chân tay nhiều,
công việc cực nhọc nhưng thu nhập lại thấp. Hơn thế nữa, công việc thường
bấp bênh, không ổn định, công việc phụ thuộc vào thời vụ và có tính rủi ro
cao, liên quan đến thời tiết (chẳng hạn mưa, lũ lụt, hạn hán, v.v…). Các nghề
thuộc về nông, lâm, ngư nghiệp là những ví dụ cho vấn đề này. Do thu nhập
thấp, việc chi tiêu trong cuộc sống gia đình trở nên hạn chế. Hầu hết, các nhu
cầu cơ bản tối thiểu của con người như ăn, mặc, ở chỉ được đáp ứng với mức
độ rất thấp, thậm trí là không đủ. Điều này đã kéo theo hàng loạt các vấn đề
khác như làm giảm sức khỏe, do đó làm giảm năng xuất lao động, giảm thu
nhập. Cứ như thế, nó đã tạo nên vòng luẩn quẩn của đói nghèo, mà người
nghèo rất khó thoát ra được. Thu nhập thấp đã tạo nên tình trạng thiếu tài sản.
Thiếu tài sản, người nghèo sẽ dần bị cô lập và khó có thể hòa nhập vào cộng
đồng và khó có thể nhận được các khoản viện trợ, từ các nhóm xã hội, tổ chức
khi gặp khó khăn (Nguyễn Vũ Phúc) [3].
16
* Y tế - giáo dục:
Người nghèo thường mắc phải các căn bệnh như ốm đau, bệnh hiểm
nghèo, tình trạng sức khỏe không tốt, do ăn uống không đảm bảo và lao động
cực nhọc. Do điều kiện không tốt nên người nghèo thường sống trong những
vùng có điều kiện vệ sinh, y tế hạn chế. Dẫn đến tỷ lệ chết của trẻ sơ sinh
trong nhóm hộ nghèo, số trẻ bị suy dinh dưỡng và số bà mẹ mang thai thiếu
máu rất cao. Những điều này là do họ không có đủ khoản tiền chi cho những
khoản có chi phí lớn cũng như các chi phí thuốc men khác. Thêm vào đó, do
đối xử bất bình đẳng trong xã hội, người nghèo không được quan tâm chữa trị
nên tỷ lệ tiếp xúc với các dịch vụ y tế rất thấp. Bên cạnh đó, họ thường không
quan tâm tới sức khỏe của mình, khiến bệnh càng trở nên trầm trọng hơn.
Tình trạng giáo dục đối với người nghèo cũng là vấn đề đáng quan
tâm. Hầu hết, người nghèo không đủ điều kiện học đến nơi đến chốn. Tỷ lệ
thất học ở hộ nghèo rất cao. Tình trạng này cho thấy: Thứ nhất là do gia đình
không thể trang trải được các khoản phí về học tập của con cái như tiền học
phí, tiền sách vở; Thứ 2 là do tâm lý của 1 số người nghèo vẫn còn cổ hủ, lạc
hậu không cho con cái của họ đến trường vì như vậy sẽ mất đi một lao động
trong gia đình; Thứ 3 là do hiện nay một số hộ nghèo đã nhận thức được tầm
quan trọng của việc đến trường, việc học thức ảnh hưởng tới nghèo đói, tuy
nhiên, vấn đề học phí của con em họ quả là vấn đề khó khăn tình hình tài
chính của gia đình (Nguyễn Vũ Phúc) [3].
Tóm lại, y tế - giáo dục là một vấn đề được nhiều người nghèo quan
tâm, họ cũng đã hiểu được tầm quan trọng của các yếu tố này ảnh hưởng lớn
tới bản thân cũng như gia đình của họ trong tương lai. Nhưng do thu nhập
quá thấp, không đủ trang trải học phí, viện phí đành phải chấp nhận để con
cái thôi học, người bệnh không được khám chữa chạy kịp thời và đúng mức.
Ở người nghèo, nguy cơ dễ bị tổn thương là nhân tố luôn đi kèm với
sự khó khăn về vật chất lẫn con người. Nguy cơ đó là họ phải đối mặt với
nhiều loại rủi do, bị đánh đập, thiên tai, bị thôi học, bị thôi việc. Nói cách
khác, những rủi do mà người nghèo phải đối mặt do tình trạng nghèo hèn
của họ chính là nguyên nhân khiến họ dễ bị tổn thương. Khi có rủi do như
17
mất mùa, gia đình có người ốm đau, phải chạy chữa một khoản tiền lớn hay
bị thất nghiệp, v.v… họ dễ rơi vào tình trạng khủng hoảng làm đảo lộn cuộc
sống gia đình phải mất một thời gian sau mới có thể khắc phục được. Nguy
cơ dễ bị tổn thương đã tạo nên 1 tâm lý chung của người nghèo là sự đối mặt
với rủi do. Vì vậy, người nghèo luôn né tránh với những vấn đề mang tính
rủi ro cao, kể cả khi điều đó có thể đem lại nhiều lợi ích cho họ nếu thành
công (ví dụ như khi đầu tư vào giống lúa mới, áp dụng KH – CN vào sản
xuất NN, v.v…), chính vì điều này làm cho người nghèo tách biệt với xã hội,
bị cô lập với guồng quay của thị trường và làm cho cuộc sống của họ càng
trở nên bần cùng hơn (Nguyễn Vũ Phúc) [3].
* Không có tiếng nói và quyền lực
Người nghèo thường bị đối xử không công bằng, bị gạt ra ngoài lề của
xã hội, do vậy họ thường không có tiếng nói quyết định trong các công việc
chung của cộng đồng cũng như các công việc liên quan đến chính bản thân.
Thường có tâm lý sống phụ thuộc, nơm nớp lo sợ mọi thứ, trở nên tự ty
không kiểm soát được cuộc sống của mình. Đó chính là nguyên nhân không
có tiếng nói và quyền lực đem lại. Không có tiếng nói còn thể hiện ở những
người phụ nữ bị đối xử bất bình đẳng trong chính gia đình (Nguyễn Vũ
Phúc) [3].
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Đặc điểm nghèo đói ở nước ta
* Giảm nghèo bấp bênh:
Bộ trưởng Bộ LĐ - TB&XH thừa nhận: "Việt Nam đang đứng trước
những thách thức lớn. Đó là tốc độ giảm nghèo không đồng đều, chưa bền
vững và thiếu tính tập chung cao”. Tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh ở các huyện
nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc nhưng nhiều nơi tỷ lệ
nghèo vẫn còn trên 50%, cá biệt còn trên 60 - 70%; tỷ trọng hộ nghèo dân tộc
thiểu số chiếm 47% tổng số hộ nghèo trong cả nước, thu nhập bình quân của
hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập bình quân của cả nước; khoảng
cách chênh lệch giàu nghèo tăng 9,2 lần (năm 2010) lên khoảng 9,4 - 9,5 lần
(năm 2012) [11].