Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Đánh giá vai trò của phụ nữ trong việc phát triển nông nghiệp tại xã Mai Đình, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (493.93 KB, 65 trang )




I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM





NGUYN TH THU




Tờn ti:
Đánh giá vai trò của phụ nữ trong việc phát triển nông nghiệp


tại xã
Mai
Đình
,
huyện
H
iệp
H

,
tỉnh
B


ắc
G
iang




KhóA LUậN tốt nghiệp ĐạI HọC





H o to : Chớnh quy
Chuyờn ngnh : Khuyn nụng
Khoa : Kinh t & PTNT
Khoỏ hc : 2010-2014




Thỏi Nguyờn, nm 2014



I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM






NGUYN TH THU




Tờn ti:
Đánh giá vai trò của phụ nữ trong việc phát triển nông nghiệp


tại xã
Mai
Đình
,
huyện
H
iệp
H

,
tỉnh
B
ắc
G
iang





KhóA LUậN tốt nghiệp ĐạI HọC




H o to : Chớnh quy
Chuyờn ngnh : Khuyn nụng
Lp : K42 - Khuyn nụng
Khoa : Kinh t & PTNT
Khoỏ hc : 2010-2014
Ging viờn hng dn : ThS. V c Hi




Thỏi Nguyờn, nm 2014


LỜI CẢM ƠN

Qua thời gian học tập và rèn luyện ở trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên và thực tập tại xã Mai Đình, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo trong trường nói
chung và các thầy cô giáo trong khoa Kinh Tế & PTNT nói riêng cũng như
các cán bộ xã Mai Đình. Đến nay, tôi đã thực tập xong và hoàn thành khoá
luận: “Đánh giá vai trò của phụ nữ trong việc phát triển nông nghiệp tại xã
Mai Đình, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang”
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn đến thầy giáo ThS. Vũ Đức Hải
cùng các thầy cô giáo trong khoa đã tận tình giúp đỡ hướng dẫn tôi trong suốt
thời gian thực tập khoá luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn UBND, các trưởng thôn xã Mai Đình, phòng
Nông nghiệp, hội liên hiệp phụ nữ huyện Hiệp Hoà đã tạo điều kiện giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu. Qua đây tôi cũng bày tỏ lòng cảm ơn sâu
sắc tới gia đình, bạn bè và người thân đã động viên giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập.
Mọi số liệu có được một các khách quan chính xác là nhờ sự nỗ lực của
bản thân, đồng nghiệp và sự giúp đỡ nhiệt tình của các trưởng khu,UBND xã;
hội liên hiệp phụ nữ, phòng nông nghiệp huyện.
Tôi xin kính chúc các thầy cô giáo mạnh khoẻ, hạnh phúc đạt nhiều
thành tích trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học, chúc các bạn đồng nghiệp
thành công trên con đường sự nghiệp.
Thái Nguyên, ngày….tháng….năm 2014
Sinh viên


Nguyễn Thị Thu



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BCH : Ban chấp hành
CC : Cơ cấu
CGFED : Trung tâm nghiên cứu về giới, gia đình và môi trường
trong phát triển
CN - TTCN : Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
CNH -
HĐH
: Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
ĐVT Đơn vị tính

HDI : Chỉ số phát triển con người
HĐND : Hội đồng nhân dân
ILO : Tổ chức lao động quốc tế
KCN : Khu công nghiệp
KHHGĐ : Kế hoạch hóa gia đình
KT - XH : Kinh tế - xã hội
LĐ : Lao động
LĐ -TB- XH : Lao động - Thương binh - Xã hội
ND : Nông dân
NN : Nông nghiệp
PN : Phụ nữ
SL : Số lượng
TN : Thanh niên
UBND : Ủy ban nhân dân










DANH MỤC CÁC BẢNG


Trang

Bảng 4.1: Người thực hiện các khâu công việc trong hoạt động trong trọt,

chăn nuôi (n = 60) 30
Bảng 4.2: Người ra quyết định các khâu trong trồng trọt, chăn nuôi (n=60) . 32
Bảng 4.3: Vai trò của phụ nữ trong sản xuất kinh doanh dịch vụ trong nông
nghiệp (n =20) 33
Bảng 4.4: Khả năng tiếp cận thông tin của phụ nữ 35
Bảng 4.5: Người ra quyết định các công việc lớn trong gia đình 37
Bảng 4.6: Phụ nữ tham gia các tổ chức Chính quyền, đoàn thể 45




DANH MỤC CÁC HÌNH

Trang
Hình 4.1: Biểu đồ thời gian chăm sóc nuôi dạy con cái 40
Hình 4.2: Biểu đồ thời gian lao động sản xuất của phụ nữ 42




MỤC LỤC


Trang
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu chung 2
1.3. Mục tiêu cụ thể 2
1.4. Ý nghĩa của đề tài 3
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập 3

1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn 3
Phần 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Cơ sở khoa học 4
2.1.1. Một số khái niệm 4
2.1.2. Vai trò của phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam 5
2.1.2.1. Khái quát về vai trò của phụ nữ ở một số nước trên thế giới 5
2.1.2.2. Thực trạng phụ nữ nông thôn Việt Nam 7
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 11
2.2.1. Phụ nữ trong tiếp cận một số vấn đề ở gia đình Nông thôn Việt Nam . 11
2.2.2. Vị trí, vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất Nông nghiệp 12
2.2.2.1. Vị trí của phụ nữ trong gia đình và xã hội 12
2.2.2.2. Vai trò của phụ nữ trong phát triển nông nghiệp 13
2.2.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong phát triển
Nông nghiệp 14
2.2.2.4. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước: 16
Phần 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
22
3.1. Đối tượng nghiên cứu 22
3.2. Phạm vi nghiên cứu: 22
3.3.Thời gian nghiên cứu 22
3.4. Nội dung nghiên cứu 22
3.5. Phương pháp nghiên cứu 22
3.5.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu 22
3.5.1.1. Chọn vùng nghiên cứu 22
3.5.1.2. Chọn hộ nghiên cứu 23


3.5.2. Phương pháp thu thập số liệu 23
3.5.2.1. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: 23
3.5.2.2. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp 24

3.5.3. Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu 24
3.5.3.1. Phương pháp thống kê mô tả 24
3.5.3.2. Phương pháp so sánh 24
3.5.3.3. Phương pháp phân tích thông tin 25
4.1. Điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội tại xã Mai Đình 26
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 26
4.1.1.1. Vị Trí địa lý 26
4.1.1.2. Đặc điểm thời tiết khí hậu: 26
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 26
4.1.2.1. Tình hình đất đai của xã 26
4.1.2.2. Tình hình văn hóa xã hội 27
4.1.2.3. Tình hình kinh tế 28
4.2. Vai trò của phụ nữ trong phát triển Nông nghiệp xã Mai Đình 29
4.2.1. Vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất trồng trọt, chăn nuôi 29
4.2.2. Vai trò của phụ nữ trong sản xuất kinh doanh dịch vụ trong nông nghiệp . 33
4.2.3. Vai trò của phụ nữ trong tiếp cận các kênh thông tin Nông nghiệp,
Nông thôn 34
4.2.4. Những hoạt động trong đời sống ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ
trong phát triển Nông nghiệp 37
4.2.4.1. Vai trò của phụ nữ trong gia đình 37
4.2.4.2. Thời gian lao động sản xuất hàng ngày của phụ nữ 41
4.2.4.3. Vai trò của phụ nữ trong các tổ chức Chính quyền, đoàn thể tác
động tới nông nghiệp 43
4.3. Nhận xét chung: 48
Phần 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 53
5.1. Kết luận 53
5.2. Kiến nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56





1

Phần 1
MỞ ĐẦU

1.1. Đặt vấn đề
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.
trong hàng ngàn năm lịch sử ấy phụ nữ Việt Nam giữ vai trò trọng yếu và
hiển nhiên trong sự tồn tại của dân tộc.
Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, Phụ nữ là lớp người bị áp bức bóc
lột, chịu nhiều bất công với sự phân chia giai cấp, sự bất bình đẳng nam nữ
trước hết trong gia đình, sau đó trở thành vấn đề của xã hội. Đặc biệt từ khi có
sự lãnh đạo của của Đảng Cộng Sản Việt Nam, các tầng lớp phụ nữ đã đoàn
kết phụ nữ hành động, góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trong xã hội Việt Nam hiện nay phụ nữ đóng góp một phần rất lớn vào
quá trình phát triển của đất nước, thể hiện ở số nữ chiếm tỉ lệ cao trong lực
lượng lao động. Với hơn 50% dân số và gần 50% lực lượng lao động xã hội,
ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã
hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy Nhà nước. Bằng lao động
sáng tạo của mình, họ đã góp phần làm giàu cho xã hội, làm phong phú cuộc
sống con người. Phụ nữ luôn thể hiện vai trò của mình trong các lĩnh vực đời
sống xã hội, cụ thể là trong lĩnh vực hoạt động vật chất, phụ nữ là một lực
lượng trực tiếp sản xuất ra của cải để nuôi sống con người. Không chỉ sản
xuất ra của cải vật chất, phụ nữ còn tái sản xuất ra con người để duy trì và
phát triển xã hội. Trong lĩnh vực hoạt động tinh thần, phụ nữ có vai trò sáng
tạo nền văn hoá nhân loại. Nền văn hoá dân gian của bất cứ nước nào, dân tộc
nào cũng có sự tham gia bằng nhiều hình thức của đông đảo phụ nữ.
Ở Việt Nam, bạo lực gia đình không phải là mới, chế độ phụ hệ, tư

tưởng trọng nam, khinh nữ đã kéo theo sự bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam
giới. Trước đây những người phụ nữ bị hành hạ chủ yếu là sống phụ thuộc
vào chồng. Khi chuyển sang kinh tế thị trường, vai trò của phụ nữ cũng thay
đổi, song thực tế đã ghi nhận rất nhiều trường hợp phụ nữ kiếm được nhiều
tiền hơn lại bị chồng đánh. Theo nghiên cứu của Hội liên hiệp phụ nữ Việt
Nam thì những trường hợp này chiếm 72% trong số những vụ xung đột gia



2

đình. Không những vai trò của phụ nữ cũng thay đổi mà phụ nữ nông thôn đã
nhận thức rõ và phát huy vai trò của mình trong sản xuất nông nghiệp, các
hoạt động phi nông nghiệp, các hoạt động xã hội và cộng đồng nông thôn.
Phát triển kinh tế thị trường đã đem lại nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ, đồng
thời cũng nảy sinh những tác động tiêu cực cho phụ nữ, họ phải lo toan nhiều
hơn cho cuộc sống gia đình, ít được tham gia các hoạt động xã hội. Một số
phụ nữ chưa hiểu rõ các quyền về mặt pháp lý của mình do học vấn thấp, thời
gian đồng áng và việc nội trợ cao, ít thời gian để tham gia hội họp cộng đồng,
ít tiếp cận thông tin để nâng cao kiến thức và hiểu biết. Từ đó, đòi hỏi phải có
những nghiên cứu để đánh giá đúng vai trò của phụ nữ trong nông nghiệp,
nông thôn, qua đó đề xuất những giải pháp nhằm phát huy nâng cao năng lực
của phụ nữ nông thôn, tạo điều kiện thuận lợi để họ hoàn thành tốt trách
nhiệm của mình trong sản xuất, đời sống và các hoạt động xã hội. Xuất phát
từ lý do trên, và sự nhận thức sâu sắc về những tiềm năng to lớn của phụ nữ,
những cản trở sự tiến bộ của phụ nữ trong quá trình đổi mới và phát triển
nông nghiệp,nông thôn tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá vai trò của
phụ nữ trong việc phát triển Nông nghiệp tại xã Mai Đình, huyện Hiệp
Hoà, tỉnh Bắc Giang”.
1.2. Mục tiêu chung

Xác định vị trí, vai trò của phụ nữ trong việc phát triển nông nghiệp, đưa
ra giải pháp và kiến nghị nhằm tạo cơ hội cho phụ nữ phát huy tiềm năng về
mọi mặt để họ hoàn thành tốt trách nhiệm của mình trong sản xuất, đời sống
và các hoạt động xã hội, góp phần vào sự phát triển nông nghiệp tại xã Mai
Đình, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang.
1.3. Mục tiêu cụ thể
Đánh giá thực trạng về vai trò của phụ nữ trong việc phát triển nông
nghiệp tại xã Mai Đình, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang.
Tìm hiểu sự phân công giữa vợ và chồng trong công việc sản xuất.
Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong việc phát
triển Nông nghiệp ở địa phương.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nữ trong việc phát triển
nông nghiệp tại xã Mai Đình, huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang.



3

1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa trong học tập
Qua nghiên cứu đề tài giúp cho tôi tổng hợp lại những kiến thức đã
được học và vận dụng được những kiến thức vào thực tế. Làm quen với môi
trường công việc, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm, củng cố thêm kiến
thức thực tế cho bản thân để đạt được hiệu quả cao nhất.
Những nghiên cứu của sinh viên trong đề tài sẽ là cơ sở cho các nghiên
cứu tiếp theo.
Bổ sung thêm tài liệu cho các ban ngành liên quan ở địa phương, khoa
Kinh tế & PTNT, cho Nhà trường.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp một phần nào vào việc đánh giá

được sự tham gia của phụ nữ trong các hoạt động phát triển Nông nghiệp tại
địa phương.
Kết quả nghiên cứu là cơ sở cho các cán bộ, ban ngành liên quan có
thêm những căn cứ để xây dựng các chương trình, dự án nhằm thúc đẩy vai
trò phụ nữ trong sản xuất phát triển nông nghiệp.
Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy nâng cao năng lực của phụ nữ,
tạo điều kiện thuận lợi để họ hoàn thành tốt trách nhiệm của mình trong sản
xuất, đời sống và các hoạt động xã hội.
Đề tài được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho địa phương.



4

Phần 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Một số khái niệm
- Khái niệm về phụ nữ:
“Phụ nữ chỉ một, một nhóm hay tất cả nữ giới đã trưởng thành, hoặc
được cho là đã trưởng thành về mặt xã hội. Nó cho thấy một cái nhìn ít nhất là
trung lập, hoặc thể hiện thiện cảm, sự trân trọng nhất định từ phía người sử
dụng. Nó đề cập đến, hoặc hướng người ta đến những mặt tốt, hoặc ít nhất là
không xấu, đến những giá trị, những đóng góp, những ảnh hưởng tích cực từ
những nữ giới này.”[17].
“Phụ nữ gồm những xét về mặt sinh học thuộc giống cái (phân biệt đối
lập với giống đực) xét về mặt khoa học tự nhiên, nếu ở góc độ khoa học xã
hội thì liên quan đến nam giới và nữ giới”[19].
- Khái niệm về phát triển

“Phát triển là một quá trình chuyển biến xã hội mà qua đó con người dần
dần có khả năng kiểm soát được điều kiện vật chất xã hội và môi trường quyết
định đến cuộc sống, công việc và lợi ích mà họ có được do sự kiểm soát đó
tạo nên. Đồng thời giúp họ có khả năng tự quyết định và tổ chức thực
hiện”[5].
“Phát triển là quá trình thay đổi toàn diện nền kinh tế, bao gồm sự tăng
thêm về quy mô sản lượng, cải thiện về cơ cấu, hoàn thiện thể chế nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống” [14].
- Khái niệm về nông nghiệp
Nông nghiệp là quá trình sản xuất lương thực, thực phẩm, thức ăn gia
súc, tơ, sợi và sản phẩm mong muốn khác bởi trồng trọt những cây trồng
chính và chăn nuôi đàn gia súc (nuôi trong nhà). Công việc nông nghiệp cũng
được biết đến bởi những người nông dân, trong khi đó các nhà khoa học,
những nhà phát minh thì tìm cách cải tiến phương pháp, công nghệ và kỹ
thuật để làm tăng năng suất cây trồng và vật nuôi[18].



5

Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một
số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn, bao
gồm nhiều chuyên ngành: Trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản; theo nghĩa
rộng, còn bao gồm cả Lâm nghiệp, Thủy sản.[1]
Nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng và phức tạp trong nền kinh tế
Quốc dân. Theo nghĩa hẹp: Gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ trong Nông
nghiệp. Theo nghĩa rộng: Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản [17].
- Khái niệm giới: Là thuật ngữ đề cập đến các đặc điểm, vị trí, vai trò,

mối quan hệ về mặt xã hội giữa nam giới - nữ giới (trẻ em trai - trẻ em gái).
- Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo
điều kiện và cơ hội để phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau của sự phát triển đó (Luật bình
đẳng giới 2006)[20].
2.1.2. Vai trò của phụ nữ trên thế giới và ở Việt Nam
2.1.2.1. Khái quát về vai trò của phụ nữ ở một số nước trên thế giới
Trên toàn Thế giới, phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong gia đình cả về
khả năng sản xuất và tái sản xuất, họ chiếm trên 50% trong tổng số lao động;
số giờ lao động chiếm 2/3 tổng số giờ lao động cuả xã hội và sản xuất ra 1/2
trong tổng sản lượng Nông nghiệp. cùng với việc đảm nhiệm nhiều công việc
khác nhau, lao động nữ chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong các ngành Công
nghiệp, dịch vụ với trình độ không ngừng được nâng cao.
* Phụ nữ chiếm một tỷ trọng lớn trong lực lượng lao động: Tỷ lệ nữ tham
gia hoạt động kinh tế theo các nhóm tuổi rất cao:
- Tại Bangladesh: có 67,3% phụ nữ Nông thôn tham gia lực lượng lao
động so với 82,5% nam giới. Tỷ lệ này của phụ nữ Nông thôn cao gấp 2 lần
phụ nữ thành thị (28,9%). Theo nhóm tuổi, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
nhiều nhất ở độ tuổi 30-49, tiếp đó là các nhóm tuổi 25-29, 50-54. Đáng chú ý
rằng, gần 61% phụ nữ Nông thôn ở độ tuổi 60-64 vẫn tham gia lực lượng lao
động, cao gần gấp 2 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi. Đặc biệt phụ nữ
Nông thôn trên 65 tuổi vẫn có 36% tham gia lực lượng lao động [2].



6

- Tại Trung Quốc tỷ lệ nữ trong quốc hội giảm dần trong thập niên vừa
qua. Trong số 9 người đứng đầu các ủy ban của quốc hội, chỉ có 1 là nữ. Số
phụ nữ trong các cơ quan quan trọng nhất của Đảng như Bộ Chính chị, Ban

chấp hành trung ương và Ban bí thư còn rất thấp (chỉ có 2 nữ trong số 16 ủy
viên Bộ Chính trị). Về phía chính quyền, tuy tỉ lệ nữ công chức lớn, nhưng tỉ
lệ lãnh đạo nữ lại khá thấp và ở cấp thấp: Tỉ lệ lãnh đạo nữ cấp phòng là 11%,
cấp sở là 5% và cấp bộ là 3% (UNDP, 2012). Nhóm phụ nữ Nông thôn tham
gia lực lượng lao động cao nhất từ 20-29 tuổi, tiếp đó là nhóm 30-39 tuổi, và
giảm dần theo các nhóm tuổi cao hơn. Giống như ở Bangladesh, ở Nông thôn
Trung Quốc phụ nữ ở độ tuổi 60-64 vẫn còn 32,53% tham gia lực lượng lao
động, con số này cao gấp 2 lần phụ nữ thành thị cùng nhóm tuổi [2].
* Trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp: Nhìn chung, trình độ chuyên môn
kỹ thuật của lao động nữ nông thôn ở các nước đang phát triển còn rất thấp. Ở
các nước đang phát triển cho đến nay có tới 31,6% lao động nữ không được
học hành, 5,2% mới chỉ học xong phổ thông và 0,4% mới tốt nghiệp cấp hai.
Vì ít có điều kiện học hành nên những người phụ nữ này không có điều kiện
tiếp cận một cách bài bản với các kiến thức về công nghệ trồng trọt và chăn
nuôi theo phương thức tiên tiến, những kiến thức họ có được chủ yếu là do tự
học từ họ hàng, bạn bè hay từ kinh nghiệm của những người thân của mình.
Một hạn chế lớn là những loại kinh nghiệm được truyền đạt theo phương pháp
này thường ít khi làm thay đổi được mô hình, cách thức sản xuất của họ [2].
* Bất bình đẳng giới mang tính phổ biến: Bất bình đẳng giới tồn tại ở
hầu hết các nước đang phát triển. Điều đó trước hết bắt nguồn từ tình trạng
phụ nữ có trình độ học vấn thấp. Một nguyên nhân khác không kém phần
quan trọng là những định kiến xã hội không coi trọng phụ nữ đã được hình
thành ở hầu hết các nước đang phát triển. Do vậy, ngay cả khi phụ nữ có bằng
cấp cao và kỹ năng tốt thì những công việc họ làm vẫn không được ghi nhận
một cách xứng đáng.
Đấu tranh để đạt được sự bình đẳng thực sự giữa nam và nữ trong xã hội
ta nói riêng và trên thế giới nói chung là vấn đề lâu dài và còn nhiều khó
khăn, thử thách. Đây là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, cái tiến bộ và
lạc hậu. Đất nước ta đã trải qua hàng ngàn năm phong kiến, tư tưởng “Trọng




7

nam khinh nữ” vẫn còn ăn sâu trong tiềm thức của một bộ phận dân chúng,
nhất là ở những vùng, miền còn nặng nề về hủ tục lạc hậu… Ngay tại các bộ,
ngành và những đơn vị hành chính, kinh tế lớn, vấn đề bình đẳng giới vẫn còn
gặp những khó khăn nhất định. Việc bồi dưỡng phát triển cán bộ nữ có lúc, có
nơi còn bị hạn chế, một số đơn vị kinh tế thậm chí không muốn nhận lao động
nữ… Như vậy, mặc dù đã đạt được những thành quả nhất định nhưng vấn đề
bình đẳng về giới vẫn còn những bất cập mà chúng ta còn phải tiếp tục phấn
đấu để đạt được mục tiêu bình đẳng thật sự.
2.1.2.2. Thực trạng phụ nữ nông thôn Việt Nam
* Thực trạng phụ nữ Việt Nam: Chiếm 50,1% lao động khu vực nông
thôn, phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới. Chị em đã kiên trì vượt khó, thi đua sản xuất giỏi,
mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, góp phần quan trọng vào phát triển nông nghiệp, duy trì tốc độ
tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia, giữ vững vị trí là nước có sản lượng nông sản xuất
khẩu cao, đặc biệt xuất khẩu gạo đứng thứ 2 trên thế giới. Tuy nhiên họ là
nhóm người yếu thế và thiệt thòi nhất trong xã hội, không được như đội ngũ
công nhân, trí thức, phụ nữ nông thôn bị hạn chế bởi trình độ nhận thức.
Nhưng họ lại là lực lượng chính tham gia vào hầu hết các khâu trong sản xuất
nông nghiệp như: cấy lúa, nhổ mạ, chăm sóc cây lúa, sát gạo[9].
Hiện tượng tăng tương đối của lực lượng lao động nữ nông thôn những
năm gần đây là do một số nguyên nhân chính sau:
- Do sự gia tăng tự nhiên số người trong độ tuổi lao động, hiện nay hàng
năm nước ta có khoảng 80 - 90 vạn người bước vào tuổi lao động, trong đó:
lao động nữ chiếm 55% [3].

- Do quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, sắp xếp lại cơ cấu tổ
chức của các ngành doanh nghiệp, đa số lao động nữ ở các cơ quan, xí nghiệp
bị giảm biên chế, không có việc làm phải quay về nông thôn làm việc.
- Do sự tan rã của thị trường Đông Âu, Nga vào đầu những năm 90,
khiến cho các nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn Việt Nam mất nguồn tiêu
thụ hàng hoá, đa số phụ nữ làm nghề này lại chuyển về làm nghề nông nghiệp.



8

- Ngoài ra, trong cơ chế thị trường, do sức cạnh tranh yếu nên nhiều hợp
tác xã thủ công nghiệp trên địa bàn nông thôn cũng lâm vào tình trạng phá
sản. Kết quả là công nhân chủ yếu là nữ công nhân thuộc các hợp tác xã thủ
công này phải trở về nghề nông.
2.1.3. Chủ trương, Chính sách của Nhà nước với sự phát triển của phụ nữ
và sự bình đẳng giới
Bản Luận cương năm 1930 - cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam - đã khẳng định mục tiêu đấu tranh cho nam nữ bình
quyền. Cùng năm đó, Hội Phụ nữ cứu quốc (tiền thân của Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam) đã được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập, trở thành một trong
những tổ chức xã hội của phụ nữ lâu đời nhất trên thế giới.
Từ khi giành được độc lập (1945), việc bảo đảm quyền bình đẳng nam
nữ và giải phóng phụ nữ luôn là chính sách nhất quán của Đảng Cộng sản
Việt Nam, được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật của Nhà nước ta. Ngay
trong Sắc lệnh số 14, ngày 18/9/1945 - một trong những văn bản pháp luật
đầu tiên của nhà nước Việt Nam mới, đã quy định quyền bình đẳng của phụ
nữ trong vấn đề bầu cử. Hiến pháp năm 1946 khẳng định nguyên tắc bình
đẳng nam nữ trên tất cả các lĩnh vực khi quy định: "Đàn bà ngang quyền với
đàn ông về mọi phương diện" (Điều 9); "Mọi công dân đều bình đẳng về

quyền trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa" (Điều 6) và "Mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật" (Điều 7)
Những quy định kể trên đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ đại về địa vị
pháp lý của phụ nữ Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, phụ nữ Việt Nam
được pháp luật thừa nhận và bảo đảm có những quyền bình đẳng với nam giới
trên tất cả các lĩnh vực. Những quy định đó cũng cho thấy tính chất tiến bộ
của pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực này, nếu so sánh với pháp luật quốc tế.
Bình đẳng nam nữ (trên tất cả các phương diện) được khẳng định ngay từ
Hiến pháp năm 1946, khi nước Việt Nam mới được thành lập. Trong khi đó,
tính từ thời điểm Hiến pháp Mỹ được ban hành (1789), phải 133 năm sau
(1920) phụ nữ Mỹ mới được ghi nhận có quyền bình đẳng với nam giới về
bầu cử và ứng cử. Phụ nữ ở Thụy Sỹ đến năm 1971, phụ nữ ở Cô-oét mãi đến
năm 1991 mới được quyền bầu cử. Đó là chưa kể một số quốc gia, cho đến



9

thời điểm hiện nay, pháp luật vẫn chưa ghi nhận phụ nữ có các quyền bình
đẳng quan trọng này
Các Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 của nước ta đã kế thừa những
nguyên tắc tiến bộ của Hiến pháp năm 1946 và liên tục bổ sung những nội
dung mới nhằm bảo đảm và thúc đẩy hơn nữa vị thế, việc hưởng thụ các
quyền con người của phụ nữ. Không những vậy, rất nhiều đạo luật quan trọng
như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân - Gia
đình, Luật Bình đẳng giới… cũng được Nhà nước ban hành và sửa đổi, bổ
sung qua các thời kỳ, nhằm cụ thể hóa các nguyên tắc về bình đẳng nam nữ
trong Hiến pháp.
Ngày 10/01/1967, ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành nghị quyết số
152 - NQ/TW về một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ nữ “Tư tưởng

phong kiến đối với phụ nữ còn tồn tại khá sâu sắc trong một số cán bộ, Đảng
viên kể cả cán bộ lãnh đạo. Thể hiện rõ nhất lý tưởng hẹp hòi, trọng nam
khinh nữ, chưa tin vào khả năng lãnh đạo và khả năng quản lý kinh tế của phụ
nữ, chưa thấy hết khó khăn trở ngại của phụ nữ”.
Chỉ thị số 44 - CT/TW ngày 07/06/1984 của Ban bí thư chỉ ra rằng
“Nhiều cấp ủy Đảng và lãnh đạo các ngành buông lỏng việc chỉ đạo thực hiện
các Nghị quyết của Đảng về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ…vẫn còn
tư tưởng phong kiến, coi thường phụ nữ, đối xử thiếu công bằng với chị em”.
Ngày 12/07/1993, Ban chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 04 -
NQ/TW đổi mới tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới.
Ngày 25/12/2001, quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến
lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010, với mục tiêu nâng
cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho phụ nữ. Tạo mọi điều kiện
để thực hiện có hiệu quả các quyền cơ bản và phát huy vai trò phụ nữ trong
mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX chỉ rõ “ Đối với phụ
nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng đào tạo
nghề, nâng cao học vấn, có cơ chế chính sách để phụ nữ tham gia nhiều vào
các cơ quan lãnh đạo quản lý ở các cấp, các ngành; bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ



10
em tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ, xây dựng gia
đình no ấm, bình đẳng, độc lập, hạnh phúc”.
Luật bình đẳng giới được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa XI thông qua tại kỳ họp ngày 29/11/2006. Ngày 2/12/2006,
lệnh công bố được Chủ tịch Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký
và có hiệu lực thi hành từ 01/07/2007.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 Của Bộ Chính trị Về công tác

phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với mục
tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có
trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về
đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc
xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội
và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình
đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực.
Ngày 15/07/2010, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bộ LĐ - TB và XH tổ
chức Hội thảo Dự thảo chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 -
2020 và Chương trình mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới. Tại hội thảo Bộ
LĐ - TB - XH đã tổng kết Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng về
bình đẳng giới nhưng các đại biểu cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề bạo lực
trong gia đình, buôn bán phụ nữ trẻ em. Và Chính phủ đã giao cho Bộ LĐ -
TB - XH chủ trì xây dựng chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011 - 2020.
Đặc biệt bình đẳng giới trong Hiến pháp (sửa đổi) 2013 cơ bản tiếp tục
kế thừa các quy định của Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp mới quy định các
vấn đề chung, có tính nguyên tắc liên quan đến gia đình tại Điều 16 (mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật; không ai bị phân biệt đối xử trong đời
sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội) và Điều 26 (công dân nam nữ
bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền và cơ hội bình
đẳng giới; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển
toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội). Các quy định trực tiếp về
hôn nhân, gia đình được Hiến định tại Điều 36: nam nữ có quyền kết hôn, ly



11
hôn; hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng, vợ

chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình,
bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em. Điều 60 quy định: Nhà nước, xã hội
tạo môi trường xây dựng gia đình Việt Nam ấm no, tiến bộ, hạnh phúc Bên
cạnh đó, một số nội dung liên quan đến gia đình, bình đẳng giới cũng đã được
Hiến định trong một số điều, khoản của các Chương II Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và Chương III Kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường.
Có thể thấy, Hiến pháp mới đã quy định sự bình đẳng nam - nữ một
cách toàn diện hơn, tổng quát hơn và tiến bộ hơn. Quy định nam - nữ bình
đẳng về mọi mặt trong tất cả các lĩnh vực. Đây không chỉ là bình đẳng về
quyền lợi mà còn là bình đẳng về trách nhiệm, nghĩa vụ trong mọi lĩnh vực.
So với Hiến pháp năm 1992, nội dung không phân biệt đối xử chuyển từ
không phân biệt đối xử với phụ nữ đã mở rộng sang không phân biệt đối xử
về giới. Các quy định này đã bảo đảm được các nguyên tắc của Công ước loại
bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Phụ nữ trong tiếp cận một số vấn đề ở gia đình Nông thôn Việt Nam
Những chính sách cải cách nhằm củng cố kinh tế hộ gia đình như phân
bổ quyền sử dụng đất, xác định vị thế và quy định pháp lý của các giao dịch
dân sự liên quan đến tài sản chung của hộ gia đình, cấp tín dụng, cung cấp
dịch vụ khuyến nông cho hộ gia đình nhưng đối tượng chính tiếp nhận thông
tin lại là nam giới, thường là với tư cách chủ hộ.
Trong gia đình thì phụ nữ ít có kiến thức nhưng lại có kinh nghiệm và kỹ
năng sản xuất tốt. Nam giới thường hưởng thụ những thành quả từ sự cải cách
kinh tế hơn là phụ nữ .
Phụ nữ luôn phải tỏ ra kính trọng với nam giới. Thái độ xã hội về vai trò
của người phụ nữ trong gia đình đã làm cho việc xử lý những vấn đề như
ngược đãi, bạo hành, ly hôn và phụ nữ nuôi con trở nên khó khăn.
Phụ nữ thiếu những kỹ năng lao động và thiếu tự tin ngay cả trong gia
đình của mình. Điều này lại càng củng cố thêm định kiến về phụ nữ. Tuy




12
những định kiến giới tác động với cả hai giới nhưng nhìn chung phụ nữ vẫn
chịu ảnh hưởng nhiều hơn.
2.2.2. Vị trí, vai trò của phụ nữ trong hoạt động sản xuất Nông nghiệp
2.2.2.1. Vị trí của phụ nữ trong gia đình và xã hội
Theo kết quả của những công trình nghiên cứu trước cho biết: Phụ nữ là
người tạo ra phần lớn lương thực tiêu dùng cho gia đình. 1/4 số hộ gia đình
trên thế giới do nữ làm chủ hộ và nhiều hộ gia đình khác phải phụ thuộc vào
thu nhập của lao động nữ . Tuy vậy, sự bất bình đẳng vẫn còn tồn tại ở rất
nhiều nước trên thế giới. Đặc biệt là ở các vùng Nông thôn, phụ nữ bị hạn chế
về mọi mặt, đời sống, điều kiện sống và làm việc tồi tàn, địa vị trong xã hội
thấp. Trong số hơn 1,3 tỷ người trên Thế giới ở trong tình trạng nghèo khổ thì
có đến 70% là nữ. Có ít nhất 1/2 triệu phụ nữ tử vong do các biến chứng về
mang thai, sinh đẻ…
Ở Việt Nam ngày nay, phụ nữ chiếm trên 50% dân số và gần 50% lực
lượng lao động xã hội, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các
lĩnh vực của đời sống xã hội và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy
nhà nước. Hiện có tới 27,3% đại biểu nữ trong quốc hội (cao nhất ở Châu Á
và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu quốc hội cao nhất thế giới); tỷ
lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%; thạc sỹ 33,95%; tiến sỹ 25,69% [15].
Tuy nhiên, so với con số trung bình theo quy định của quốc tế tỷ lệ lao
động nữ là đại biểu quốc hội của Việt Nam chưa đạt và có xu hướng giảm
dần. Theo số liệu của Văn phòng Quốc hội thì tỷ lệ nữ Việt Nam tham gia vào
quốc hội giai đoạn 1975 - 1976 là 32%; 1976 - 1981 là 27%; 1992 -1997 chỉ
còn 18,5%; 2002 - 2007 tăng lên là 27,31% [15].
Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ ngày càng tích cực, chủ động thực hiện
quyền công dân, tham gia các hình thức dân chủ trực tiếp ở cộng đồng. Đội

ngũ cán bộ nữ trên một số lĩnh vực phát triển về số lượng, chất lượng ngày
càng được nâng lên. Nữ đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp đều tăng; nữ đại
biểu quốc hội khóa XIII đạt 24,4%; nữ công chức trong cơ quan hành chính
nhà nước từ cấp huyện đến trung ương chiếm 31%. Cán bộ nữ tham gia cấp
ủy Đảng, cơ quan dân cử, cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã đóng góp
tích cực vào việc lãnh đạo, quản lý đất nước, ngành, địa phương. Nữ cán bộ,



13
công chức, viên chức phấn đấu giỏi việc nước, đảm việc nhà, tích cực nâng
cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, trau dồi bản lĩnh chính trị và
phẩm chất đạo đức, hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Phụ nữ luôn là nhân tố quan trọng đối với sự phát triển của gia đình và
xã hội. Nghĩa vụ công dân và thiên chức làm vợ, làm mẹ của phụ nữ được
thực hiện tốt là một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự ổn định và
phát triển lâu dài của đất nước. Ngày càng có nhiều phụ nữ thành đạt trong
các lĩnh vực kinh tế, khoa học, chính trị và xã hội. Điều đó cho thấy phụ nữ
ngày càng có vai trò quan trọng hơn trong các lĩnh vực của xã hội.
2.2.2.2.Vai trò của phụ nữ trong phát triển nông nghiệp
Trong các gia đình Việt Nam thì phụ nữ tham gia trồng trọt, chăn nuôi,
chế biến và bán sản phẩm nhiều hơn so với nam giới. Phụ nữ chỉ có thể tham
gia nhiều hơn vào việc ra quyết định trong các công việc đồng áng (Fyles và
cộng sự, 2001).
Trong công việc sản xuất lúa thì nam giới là người làm đất còn phụ nữ
đóng vai trò gieo cấy, thu hoạch, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Phụ nữ là
người làm ra phần lớn lương thực, thực phẩm tiêu dùng cho gia đình. Vai trò
của người phụ nữ trong gia đình, nhất là gia đình nông thôn được thể hiện rất
rõ trong một câu nói tiếng Anh: Women grow the rice, harvest the rice, cook
the rice and wash the bowl. (Phụ nữ trồng lúa, thu hoạch lúa gạo, nấu cơm và

rửa bát).
Ngoài việc tham gia vào lao động sản xuất đóng góp thu nhập cho gia
đình, phụ nữ còn đảm nhận chức năng người vợ, người mẹ. Họ phải làm hầu
hết các công việc nội trợ chăm sóc con cái, các công việc này rất quan trọng
đối với sự tồn tại, phát triển của gia đình và xã hội.
Trong sinh hoạt cộng đồng: Phụ nữ tham gia hầu hết các hoạt động cộng
đồng tại xóm, thôn bản.
Có thể thấy những người nữ nông dân đang có vai trò hết sức quan trọng
trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù vậy, sản xuất của họ chỉ nhỏ lẻ thu hẹp
trong kinh tế hộ, họ thiếu kỹ thuật canh tác chăn nuôi, chủ yếu dựa trên kinh
nghiệm riêng của mỗi cá nhân. Họ cũng không có cơ hội học tập - đào tạo và
không được tiếp cận với thông tin thị trường và công nghệ. Vì thế mà năng



14
suất sản xuất không cao và kết quả phụ thuộc vào từng mùa vụ. Bên cạnh đó,
những người phụ nữ nông thôn còn đang phải đối diện với những vấn đề về
sức khoẻ như phải làm việc nhiều giờ trong ngày, lao động vất vả, kết hôn
sớm, sinh đẻ và nạo hút thai nhiều, dinh dưỡng kém, Mặc dù thu nhập từ sản
xuất nông nghiệp ít hơn nhiều so thu nhập của nam giới làm việc bên ngoài,
nhưng những người nữ nông dân ở đây vẫn ý thức được sự quan trọng của cây
lúa. Do vậy, họ vẫn mong muốn, hy vọng được tiếp cận với các giống cây
trồng mới và kỹ thuật canh tác tiên tiến để có thể nâng cao năng suất và sản
lượng của cây trồng.
Như vậy, dù được thừa nhận hay không thừa nhận, thực tế cuộc sống và
những gì phụ nữ làm đã khẳng định vai trò và vị trí của họ trong gia đình,
trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong bước tiến của nhân
loại. Phụ nữ cùng lúc phải thực hiện nhiều vai trò, cho nên họ cần được chia
sẻ, thông cảm cả về hành động lẫn tinh thần, gia đình và xã hội cũng cần có

những trợ giúp để họ thực hiện tốt hơn vai trò của mình.
2.2.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến vai trò của phụ nữ trong phát triển
Nông nghiệp
* Quan niệm về giới, những phong tục tập quán ở Việt Nam và một số
nước Á Đông: Phụ nữ trước hết phải lo việc gia đình, con cái. Dù làm bất kỳ
công việc gì, thì việc nội trợ vẫn là trách nhiệm của họ, đây là một quan niệm
ngự trị ở nước ta từ nhiều năm nay. Sự tồn tại những hủ tục lạc hậu, trọng
nam khinh nữ đã kìm hãm tài năng sáng tạo của phụ nữ, hạn chế sự cống hiến
của họ cho xã hội và cho gia đình. Việc mang thai, sinh đẻ, nuôi dưỡng con
nhỏ và làm nội trợ gia đình đè nặng lên đôi vai người phụ nữ. Đây là trở ngại
lớn cho họ tập trung sức lực, thời gian, trí tuệ vào sản xuất và các hoạt động
chính trị, xã hội. Vì vậy, nhiều chị em trở nên không mạnh bạo, không năng
động sáng tạo bằng nam giới và gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp xã hội.
Phong tục tập quán là một nguyên nhân cơ bản cản trở phụ nữ tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế [2].
* Trình độ học vấn, chuyên môn, khoa học kỹ thuật của lao động nữ còn
nhiều hạn chế: Ở nông thôn, đặc biệt là miền núi phương tiện thông tin nghe
nhìn và sách báo đến với người dân còn rất nhiều hạn chế, do vậy việc lao



15
động nữ tiếp cận và nắm bắt các thông tin kỹ thuật về chăn nuôi, trồng trọt
còn gặp nhiều khó khăn. Ngoài thời gian lao động sản xuất, người phụ nữ
dường như ít có thời gian dành cho nghỉ ngơi hoặc hưởng thụ văn hoá tinh
thần, học hỏi nâng cao hiểu biết kiến thức xã hội mà họ phải giành phần lớn
thời gian còn lại cho công việc gia đình. Do vậy, phụ nữ bị hạn chế về kỹ
thuật chuyên môn và sự hiểu biết xã hội. Phụ nữ ở độ tuổi lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật là 6%, còn ở nam giới tỷ lệ này là 10% [10]. Theo
thông báo của Liên hiệp quốc thì hiện nay trên thế giới còn hơn 840 triệu

người bị mù chữ, trong đó nữ giới chiếm 2/3; trong số hơn 180 triệu trẻ em
không được đi học thì có tới 70% là trẻ em gái. Còn ở Việt Nam, theo thống
kê cho thấy tỷ lệ lao động nữ không qua đào tạo là rất cao, chiếm tới gần 90%
tổng số lao động không qua đào tạo trong cả nước; chỉ có 0,63 % công nhân
kỹ thuật có bằng là nữ, trong khi chỉ tiêu này của nam giới là 3,46%. Tỷ lệ lao
động nữ có trình độ đại học và trên đại học 0,016%, tỷ lệ này ở nam giới là
0,077% (gấp 5 lần so với nữ giới) [4]. Điều đó cho thấy trình độ học vấn và
chuyên môn nghề nghiệp của phụ nữ là rất thấp và thấp hơn so với nam giới.
Phụ nữ bị hạn chế về kỹ thuật, chuyên môn và sự hiểu biết nên gặp
không ít khó khăn trong việc nắm bắt kiến thức pháp luật, tìm nguồn vốn, tìm
kiếm thị trường, khó khăn trong việc tiếp cận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất và đời sống. Do vậy, hiệu quả công việc và năng suất lao
động của họ thấp.
* Yếu tố về sức khoẻ: Với phụ nữ nông thôn vừa phải lao động nặng vừa
phải thực hiện thiên chức của mình là phải mang thai, sinh con và cho con bú
bằng bầu sữa của mình, cùng với điều kiện sinh hoạt thấp kém đã làm cho sức
khoẻ của họ bị giảm sút. Điều này không những ảnh hưởng đến khả năng lao
động mà còn làm vai trò của phụ nữ trong gia đình cũng như trong việc phát
triển kinh tế gia đình trở nên thấp hơn.
* Khả năng tiếp nhận thông tin: Do phụ nữ phải đảm nhận một khối
lượng công việc lớn nên cơ hội để họ giao tiếp rộng rãi, tham gia hoạt động
cộng đồng để nắm thông tin rất hiếm. Ở nhiều vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh
người dân còn chưa hề được tiếp xúc với báo chí và các hình thức truyền tải
thông tin khác.



16
* Các yếu tố chủ quan: Một yếu tố khác không thể không nhắc đến đó là
nguyên nhân chủ quan do chính phụ nữ gây ra, đó chính là quan niệm lệch lạc

về giới, ngay cả phụ nữ cũng có cái nhìn không đúng về những vấn đề đó. Họ
cũng cho rằng, những công việc nội trợ, chăm sóc gia đình, con cái…là việc
của phụ nữ. Họ tỏ ra không hài lòng về người đàn ông thạo việc bếp núc, nội
trợ. Trong khi họ lên tiếng đòi quyền bình đẳng thì họ vô tình ràng buộc thêm
trách nhiệm cho mình. Vậy nên, toàn bộ công việc gia đình, sản xuất càng đè
nặng lên đôi vai phụ nữ khiến họ mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần.
Ta có thể khẳng định rằng, phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển của nhân loại. Song, có nhiều nguyên nhân gây cản trở sự tiến bộ
của họ trong cuộc sống. Các yếu tố khách quan và chủ quan đã tác động
không tốt khiến cho phụ nữ đặc biệt là phụ nữ nông thôn bị lâm vào vòng
luẩn quẩn của sự nghèo đói và bất bình đẳng. Vì vậy, cần phải tiến tới quyền
bình đẳng đối với nữ trên toàn thế giới. Bình đẳng nam nữ nhằm giải phóng
sức lao động xã hội, xây dựng và củng cố thêm nền văn minh nhân loại.
2.2.2.4. Tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước:
a. Tình hình nghiên cứu trên toàn thế giới
* Na Uy là đất nước dân số ít (4,5 triệu người) nhưng chỉ số phát triển
con người (HDI) và (GDI) xếp thứ nhất thế giới. Na Uy có một hệ thống luật
pháp đồng bộ hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền và lợi cho người phụ nữ.
Chính phủ Na Uy rất quan tâm đến vấn đề bình đẳng giới và coi đó là một
trong bốn vấn đề trọng tâm phát triển. Là quốc gia đầu tiên trên thế giới cho
phép phụ nữ được tham gia bầu cử vào năm 1913 và có quyền ứng cử quốc
hội từ năm 1930. Na Uy cũng có Luật bình đẳng giới ban hành từ năm 1979
với các điều khoản bảo đảm cho cả phụ nữ và nam giới được bình đẳng trong
phát triển.
Trong luật Bình đẳng giới, Na Uy quy định: Việc phân biệt đối xử trực
tiếp hoặc gián tiếp với phụ nữ và nam giới đều không được phép.
Với lĩnh vực lao động và việc làm, luật quy định: tuyển dụng không
được hạn chế tuyển một giới. Khi đề bạt, cách chức hoặc sa thải người lao
động cũng không được phân biệt nam nữ. Lao động nam và nữ trong cùng




17
một doanh nghiệp phải được trả lương như nhau cho cùng một công việc như
nhau hoặc công việc có giá trị như nhau.
Trong giáo dục, Luật bình đẳng giới đề ra phụ nữ và nam giới có quyền
bình đẳng trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Đặc biệt Luật bình đẳng giới có 1 mục quy định: “Khi thành lập và bổ
nhiệm, bầu cử các thành viên của một cơ quan nhà nước, uỷ ban, hội đồng,
ban, có từ 4 thành viên trở lên thì mỗi giới phải có đại diện với tỷ lệ ít nhất là
40%”. Nếu cơ quan, đơn vị nào không đạt tỷ lệ đã quy định thì chính phủ
không cho phép thành lập. Do vậy, đến nay cơ quan các cấp ở Na Uy đã đạt
được tỷ lệ trung bình 43% nữ. Bên cạnh đó, một cơ quan thanh tra về bình
đẳng giới và chống phân biệt đối xử trực thuộc Bộ Gia đình và bình đẳng giới
cũng ra đời giúp chính phủ nhận đơn khiếu nại hoặc phát hiện những vấn đề
bất bình đẳng giới trình lên trên để cùng giải quyết.
Chế độ nghỉ thai sản và chăm sóc con cái cũng được Luật đề ra rất tốt.
Khi mang thai, nếu người phụ nữ đã đi làm ít nhất là 6 tháng trong vòng 10
tháng thai nghén sẽ được nghỉ chế độ và hưởng lương với số tiền không quá 6
lần số tiền bảo hiểm quốc gia cơ bản. Khi sinh nở, người mẹ được nghỉ 52
tuần hưởng 80% hoặc nghỉ 42 tuần hưởng 100% lương. Trong thời gian này,
mẹ phải nghỉ 3 tuần trước khi sinh, bố phải nghỉ bốn tuần theo chế độ người
cha. Ngoài ra, bố và mẹ được nghỉ từ 10 đến 20 ngày/năm chăm con ốm (kể
cả với con nuôi). Quỹ thời gian này người bố và mẹ tuỳ ý sử dụng trong thời
gian 2 năm. Nếu người phụ nữ không đi làm và không được hưởng chế độ
nghỉ đẻ thì được hưởng 32.138 NOK khi sinh con (tương đương 80.500.000
đồng Việt Nam). Từ năm 1992, bố mẹ không đi làm mà phải nuôi con dưới 7
tuổi đều được hưởng ba khoản trợ cấp một năm của Chính phủ.
Tuy nhiên, Luật bình đẳng giới tiến bộ nhưng chỉ nhằm tăng cường
quyền lực của phụ nữ ngoài xã hội chứ không bênh vực họ trong gia đình vì

không áp dụng trong gia đình. Trong lĩnh vực công việc nhà không được trả
lương phụ nữ vẫn làm việc nhiều hơn nam giới; trong lĩnh vực quản lý nhà
nước, nam giới vẫn chiếm 86% và trong chính quyền địa phương lãnh đạo
nam vẫn trên 70% ; nạn bạo lực vẫn xảy ra; mại dâm được phép hoạt động
nhưng vẫn nhiều tình trạng xâm hại tình dục.

×