ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
HOÀNG QÚY NHÂN
Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ LÊ LAI,
HUYỆN THẠCH AN, TỈNH CAO BẰNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : Kinh tế & Phát triển nông thôn
Khóa học : 2010 - 2014
Thái Nguyên, năm 2014
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
HOÀNG QÚY NHÂN
Tên đề tài:
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
KINH TẾ NÔNG HỘ TRÊN ĐỊA BÀN XÃ LÊ LAI,
HUYỆN THẠCH AN, TỈNH CAO BẰNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo : Chính quy
Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp
Khoa : Kinh tế & Phát triển nông thôn
Khóa học : 2010 - 2014
Người hướng dẫn khoa học: Th.S. Đỗ Hoàng Sơn
Khoa Kinh tế & Phát triển nông thôn
Tr
ường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên
Thái Nguyên, năm 2014
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
tận tình của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Tôi xin trân trọng bày tỏ lời
cảm ơn với tất cả tập thể và các cá nhân đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu.
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo ThS. Đỗ
Hoàng Sơn, đã trực tiếp hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn thành khóa luận.
Tôi xin chân trọng cảm ơn sự giúp đỡ của Uỷ ban nhân dân xã Lê Lai và
các hộ dân tại đây đã giúp đỡ tôi trong quá trình thu thập số liệu và kiểm nghiệm
kết quả nghiên cứu trong đề tài: “Đánh giá thực trạng phát triển kinh tế nông
hộ trên địa bàn xã Lê Lai – huyện Thạch An – tỉnh Cao Bằng”.
Thái Nguyên, ngày tháng 05 năm 2014
Sinh viên
Hoàng Quý Nhân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu 4
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu 5
4. Bố cục của khoá luận 5
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 6
1.1. Cơ sở lí luận 6
1.1.1. Khái niệm về hộ và kinh tế nông hộ 6
1.1.2. Vai trò của kinh tế nông hộ 8
1.1.3. Đặc trưng của kinh tế nông hộ 9
1.1.4. Phân loại hộ nông dân 9
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông hộ 11
1.2. Cơ sở thực tiến 14
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở một số nước trên thế giới 14
1.2.2. Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở một số địa phương ở Việt Nam 17
1.2.3. Các bài học kinh nghiệm rút ra đối với phát triển kinh tế nông hộ
ở Việt Nam nói chung và cho xã Lê Lai nói riêng 19
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
2.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 21
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu đề tài 21
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài 21
2.2. Nội dung nghiên cứu 21
2.3. Phương pháp nghiên cứu 21
2.3.1. Phương pháp thu thập số liệu 21
2.3.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 24
2.4. Hệ thống chỉ tiêu nghiên cứu 24
2.4.1. Hệ thống chỉ tiêu phản ánh điều kiện sản xuất kinh doanh của nông hộ 24
2.4.2. Các chỉ tiêu phản ánh đời sống thu chi của nông hộ 25
2.4.3. Các chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất và các công thức tính 25
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 27
3.1. Khái quát về địa bàn xã Lê Lai 27
3.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên 27
3.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 32
3.1.3. Điều kiện hạ tầng cơ sở 36
3.1.4. Đánh giá chung về điều kiện xã Lê Lai 40
3.2. Khái quát về phát triển kinh tế nông hộ tại xã Lê Lai 42
3.2.1. Các chính sách, chương trình dự án có liên quan đến phát triển kinh tế 42
3.2.2. Đặc điểm cơ bản của các nhóm kinh tế nông hộ tại các địa bàn xã
Lê Lai 43
3.2.3. Các dạng mô hình kinh tế nông hộ chủ yếu tại địa phương 44
3.2.4. Những tồn tại cơ bản trong phát triển kinh tế nông hộ tại địa phương 48
3.3. Thực trạng tình hình sản xuất của các hộ điều tra 49
3.3.1. Khái quát chung về nhóm hộ điều tra 49
3.3.2. Phân tích điều kiện nguồn lực của các nhóm hộ điều tra 51
3.3.3. Phân tích các mô hình phát triển kinh tế hộ chủ yếu 56
3.4. Kết quả nghiên cứu một số mô điển hình 60
3.4.1. Mô hình trồng lúa 60
3.4.2. Mô hình trồng ngô 62
3.4.3. Mô hình chăn nuôi lợn 64
3.4.4. Mô hình chăn nuôi gà 67
3.5. Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông hộ
của xã Lê Lai 70
3.5.1. Trình độ văn hoá của chủ hộ 70
3.5.2. Vốn đầu tư cho sản xuất 71
3.5.3. Đất đai 72
3.5.4. Lao động 72
3.5.5. Về thị trường 73
Chương 4: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG HỘ
TRÊN ĐỊA BÀN XÃ LÊ LAI 74
4.1. Định hướng phát triển kinh tế hộ tại xã Lê lai 74
4.1.1. Định hướng trong quy hoạch đất 74
4.1.2. Định hướng phát triển kinh tế hộ theo hệ thống 74
4.1.3. Tổ chức sản xuất có hiệu quả 75
4.2. Một số giải pháp cho phát triển kinh tế nông hộ 76
4.2.1. Những giải pháp chung 76
4.2.2. Những giải pháp cụ thể 79
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 81
1. Kết luận 81
2. Kiến nghị 82
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
PHIẾU ĐIỀU TRA 35
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 3.1: Tình hình sử dụng đất đai của xã Lê Lai qua 3 năm 2011 – 2013 31
Bảng 3.2: Phân bố dân số theo thành phần dân tộc 32
Bảng 3.3: Tình hình dân số và lao động của xã Lê Lai qua 3 năm 2011 - 2013 34
Bảng 3.4: Giá trị sản xuất kinh doanh của xã Lê Lai qua 3 năm 2011 - 2013 35
Bảng 3.5: Bảng diện tích, năng suất, sản lượng của một số cây trồng chính
của xã qua 3 năm 2011 - 2013 45
Bảng 3.6: Số lượng vật nuôi trên địa bàn xã qua 3 năm 2011 – 2013 46
Bảng 3.7: Những tồn tại cơ bản trong phát triển kinh tế nông hộ tại địa phương 48
Bảng 3.8: Một số thông tin chung về các hộ điều tra 49
Bảng 3.9: Tình hình sử dụng đất đai của nhóm hộ điều tra năm 2013 51
Bảng 3.10: Tình hình lao động và nhân khẩu của các nhóm hộ điều tra
năm 2013 53
Bảng 3.11: Bảng tình hình vốn của nhóm hộ điều tra năm 2013 54
Bảng 3.12: Bảng tư liệu sản xuất chủ yếu bình quân của hộ năm 2013 55
Bảng 3.13: Diện tích, năng suất, sản lượng một số cây trồng chính của
nhóm hộ điều tra năm 2013 56
Bảng 3.14: Kết quả sản xuất một số cây trồng chính của các nhóm hộ điều
tra năm 2013 57
Bảng 3.15: Kết quả sản xuất của một số vật nuôi chính của các nhóm hộ
điều tra năm 2013 59
Bảng 3.16 : Chi phí cho 1 sào lúa của chủ hộ năm 2013 60
Bảng 3.17: Bảng chi phí cho 1 sào ngô của chủ hộ năm 2013 62
Bảng 3.18 : Chi phí cho chăn nuôi lợn đến khi xuất chuồng 64
Bảng 3.19: Chi phí chăn nuôi gà của hộ năm 2013 68
DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang
Hình 3.1: Biểu đồ thể hiện giá trị sản xuất kinh doanh của xã qua 3 năm
2011- 2013 36
Hình 3.2: Biểu đồ thể hiện số lao động và nhân khẩu bình quân trên hộ
năm 2013 50
Hình 3.3: Biểu đồ thể hiện tình hình sử dụng đất đai của nhóm hộ điều tra
năm 2013 52
Hình 3.4: Biểu đồ thể hiện tình hình sử dụng vốn của nhóm hộ điều tra
năm 2013 54
Hình 3.5: Biểu đồ thể hiện kết quả sản xuất ngành trồng trọt của nhóm hộ
điều tra năm 2013 58
Hình 3.6: Biểu đồ thể hiện kết quả sản xuất ngành chăn nuôi của nhóm hộ
điều tra năm 2013 59
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Diễn giải
BQC Bình quân chung
CC Cơ cấu
CN Công nghiệp
CNH – HĐH Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
CP Chính phủ
ĐVT Đơn vị tính
Ha Hecta
KHKT Khoa học kỹ thuật
KH Kế hoạch
KTXH Kinh tế xã hội
LĐ Lao động
NQ Nghị quyết
NN & PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
QL Quốc lộ
TH – THCS Tiểu học – Trung học cơ sở
SX - KD Sản xuất kinh doanh
UBND Ủy ban nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu, giữ vị trí
quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó càng trở nên quan trọng đối với một
quốc gia với gần 80% dân số sống ở nông thôn và gần 70% lao động làm việc
trong các ngành thuộc lĩnh vực nông nghiệp như đất nước Việt Nam ta [2].
Từ một nước thường xuyên thiếu và đói, hàng năm phải nhập hàng
triệu tấn lương thực của nước ngoài, hơn thập niên qua đã trở thành nước xuất
khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). GDP trong lĩnh vực nông
nghiệp bình quân hàng năm tăng 3,3%; thu nhập và đời sống nhân dân ngày
càng cải thiện hơn, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân 1,5% năm; bộ
mặt nông thôn thay đổi theo hướng văn minh, trình độ văn hoá, khoa học, kỹ
thuật của nhiều nông dân được nâng lên cao hơn trước.
Cao Bằng có diện tích tự nhiên 6.690,72 km², chiếm 2,12% diện tích cả
nước. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc), có đường
biên giới dài 311 km, phía Tây giáp tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, phía
Nam giáp tỉnh Bắc Kạn, phía Đông Nam giáp tỉnh Lạng Sơn. Là tỉnh miền núi
vùng cao biên giới, xa các trung tâm kinh tế lớn của vùng Đông Bắc và cả
nước nhưng Cao Bằng lại có ba cửa khẩu là Tà Lùng, Hùng Quốc và Sóc Hà.
Đây là lợi thế quan trọng, tạo điều kiện cho tỉnh giao lưu kinh tế với bên
ngoài, nhất là Trung Quốc. Địa hình Cao Bằng chia cắt mạnh và phức tạp,
hình thành 4 tiểu vùng kinh tế sinh thái: Tiểu vùng núi đá vôi ở phía bắc và
đông bắc chiếm 32%, tiểu vùng núi đất ở phía tây và tây nam chiếm 18% tiểu
vùng núi đất thuộc thượng nguồn sông Hiến chiếm 38%, tiểu vùng bồn địa thị
xã Cao Bằng và huyện Hoà An dọc sông Bằng chiếm 12% diện tích tự nhiên
của tỉnh, giao thông giữa các huyện trong tỉnh bị hạn chế. Cao Bằng có gần
95.000 ha (chiếm 14,12% đất tự nhiên toàn tỉnh) đất dành cho sản xuất nông
nghiệp, trên 534.000 ha (trên 80% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh) đất lâm
nghiệp có rừng và trên 400 ha đất nuôi trồng thủy sản [15].
2
Để phát triển và có được những thành tựu đó thì một loại hình kinh tế
được sản xuất phổ biến đó là kinh tế hộ gia đình, do có điều kiện địa hình
không thuận lợi, các nguồn đầu tư còn hạn hẹp nên các trang trại chưa được
hình thành nhiều vì vậy kinh tế hộ nông dân vẫn là loại hình sản xuất chủ yếu
của người dân trên địa bàn tỉnh. Nó đã góp phần vào nâng cao đời sống của
người dân, đóng góp vào GDP của tỉnh và của cả nước.
Cây trồng chủ yếu của tỉnh gồm các cây lương thực (lúa, ngô, khoai,
sắn); cây công nghiệp ngắn ngày (đỗ tương, lạc, mía, thuốc lá); cây ăn quả (lê,
mận, cam, hạt dẻ); cây rau, đậu và gia vị; và cây công nghiệp (chè đắng).
Ngành chăn nuôi của Cao Bằng tập trung vào các loại gia súc lớn như
trâu, bò, ngựa; gia súc nhỏ như lợn, dê, và các loại gia cầm. Cao Bằng có 2
giống bò địa phương là bò Cỏ và bò U H’Mông, trong đó bò U H’Mông có
trọng lượng lớn, chất lượng tốt.
Trong thời gian tới, tỉnh có dự án phát triển hơn nữa về kinh tế hộ như:
Đầu tư vốn cho người dân sản xuất, tập huấn cho người dân về kỹ thuật sản
xuất,áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ mới vào thực tế nhằm góp phần
tăng năng xuất cây trồng vật nuôi và thu nhập của người dân cũng tăng
theo.Từ đó đời sống của người dân dần đi vào vào ổn định và được nâng cao.
Huyện Thạch An là huyện miền núi phía Đông Nam của tỉnh Cao Bằng,
có tọa độ địa lý nằm trong khoảng 106
o
05’ – 106
o
50’ vĩ độ bắc và 22
o
20 –
22
o
50’ độ kinh đông. Toàn huyện có 16 đơn vị hành chính cấp xã gồm 15 xã và
01 thị trấn với tổng diện tích tự nhiên theo ranh giới hành chính là 69.079,56
ha. Huyện Thạch An có vị trí thuận lợi trong việc giao lưu phát triển kinh tế -
xã hội, khoa học kỹ thuật với trung tâm tỉnh Cao Bằng và các huyện trong tỉnh,
lưu thông với các tỉnh bạn (Lạng Sơn, Bắc Kạn) và nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa qua cửa khẩu Đức Long. Kinh tế nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất
chính của huyện, là nguồn thu nhập chính của đại bộ phận dân cư trong huyện.
3
Trong những năm qua, nông nghiệp vẫn là ngành được đầu tư lớn về cả cơ sở
vật chất lẫn khoa học kỹ thuật, trong những năm gần đây ngành nông nghiệp đã
có những bước tăng trưởng tương đối ấn tượng [16].
Sản lượng lương thực có hạt (lúa, ngô, lạc, đậu tương ) là cây sản
xuất chủ lực đảm bảo an ninh lương thực cho nhân dân trong huyện. Nhờ
có biện pháp thâm canh, xen canh hợp lý, trong những năm qua, diện tích
và sản lượng lương thực có hạt không ngừng tăng lên.
Ngoài ra, tùy theo điều kiện địa hình và khí hậu của các xã phù hợp
với các loại cây khác nhau, người dân trong huyện còn trồng các loại cây khác
như: Thạch đen, mía, sắn, hồi, cây ăn quả để tăng thu nhập.
Chăn nuôi cũng là ngành sản xuất đem lại thu nhập chính cho đại bộ
phận nhân dân trong huyện, gia súc phổ biến là lợn thịt, tuy nhiên người dân
chăn nuôi với quy mô nhỏ lẻ nên ngành có sự tăng trưởng khá nhưng chưa
đồng đều và chưa vững chắc.
Chăn nuôi gia cầm cũng không ngừng phát triển, tổng đàn gia cầm năm
2013 đạt 197.996 con, ngoài ra còn chăn nuôi các loại khác như dê, ngựa,
nuôi cá
Lâm nghiệp có diện tích khá lớn (59.619,49 ha) về cơ bản đã được giao
cho các hộ dân quản lý, tích cực thực hiện công tác trồng rừng phủ xanh đồi
núi trọc, trồng giữ rừng đầu nguồn.
Lê Lai là xã vùng 2 của huyện Thạch An, với 728 hộ 3.004 nhân khẩu
gồm các dân tộc Tày, Nùng, Kinh và một số ít dân tộc Dao cùng sinh sống ở
14 thôn bản. Người dân sống chủ yếu bằng sản xuất nông nghiệp và lâm
nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực trồng trọt cây lương thực, cây công nghiệp,
nhưng sản xuất một các nhỏ lẻ, manh mún chưa tập chung, diện tích đất
nông nghiệp của xã chưa được sử dụng hợp lí nhiều nơi đất còn bỏ trống,
việc tổ chức lập kế hoạch cho sản xuất ở xã chưa khoa học, bên cạnh đó
4
thiếu đi sự liên kết, hỗ trợ giữa các hộ nông dân trong sản xuất việc tiếp thu
học hỏi khoa học kỹ thuật của người dân còn hạn chế nên dẫn tới kinh tế của
người dân còn gặp nhiều khó khăn. Những sản phẩm làm ra của người dân
đa dạng nhưng với số lượng ít và chất lượng không đồng đều nên nhiều sản
phẩm hay bị các thương lái ép giá, thị trường không ổn định. Xuất phát từ
thực trạng đó tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá thực trạng phát
triển kinh tế nông hộ trên địa bàn xã Lê Lai - huyện Thạch An - tỉnh Cao
Bằng”. Thông qua việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ thực trạng những vấn
đề tồn tại trong phát triển kinh tế nông hộ tại địa phương. Trên cơ sở phân
tích thực trạng đánh giá tiềm năng, đề tài có thể đưa ra được những giải pháp
cho phát triển kinh tế nông hộ hiệu quả [11].
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Thông qua việc đánh giá đề tài sẽ làm sáng tỏ thực trạng kinh tế nông
hộ tại xã Lê Lai. Phân tích cụ thể những tiềm năng, những thành công và
những hạn chế trong quá trình kinh tế nông hộ làm nền tảng cho việc đề xuất
những giải pháp phát triển có hiệu quả, bền vững kinh tế hộ tại địa phương.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Đánh giá phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa bàn
nghiên cứu.
- Khái quát về phát triển kinh tế nông hộ tại địa phương.
- Thực trạng tình hình sản xuất của các hộ điều tra.
- Kết quả nghiên cứu một số mô hình điển hình.
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông hộ
tại địa phương.
- Đề xuất một số giải pháp chung nhằm phát triển kinh tế nông hộ
tại địa phương.
5
3. Ý nghĩa khoa học của đề tài nghiên cứu
3.1. Trong học tập
Giúp cho bản thân tôi có những kiến thức hiểu biết cần thiết về tình
hình phát triển kinh tế nông hộ trên địa bàn xã. Có cách đánh giá nhìn nhận
bao quát về tình hình phát triển của địa phương.
Giúp cho tôi có sự liên hệ giữa lý thuyết và thực tế, củng cố kiến thức đã
được học, được nghiên cứu. Rèn luyện những kỹ năng cần thiết cho bản thân.
Nâng cao kiến thức, kỹ năng và rút ra nhiều kinh nghiệm thực tế
cho công tác sau này.
Vận dụng và phát huy được kiến thức đã học vào trong thực tiễn.
Đề tài cũng được coi là một tài liệu tham khảo cho Trường, Khoa, các
cơ quan trong ngành và sinh viên các khóa tiếp theo.
3.2. Trong thực tiễn
Nghiên cứu điều kiện kinh tế - xã hội xã Lê Lai từ đó đưa ra các số
liệu trong các lĩnh vực nông - lâm - ngư - nghiệp làm cơ sở cho các nhà
chuyên môn và người dân có những phương hướng và biện pháp nhằm nâng
cao hiệu quả của hoạt động trong trồng trọt, chăn nuôi, cải thiện các công
trình phúc lợi xã hội.
4. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, phụ lục, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn gồm 4 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4: Các giải pháp nhằm phát triển kinh tế nông hộ trên địa bàn
xã Lê Lai – Huyện Thạch An – Tỉnh Cao Bằng
6
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Khái niệm về hộ và kinh tế nông hộ
1.1.1.1. Khái niệm hộ
Trong một số từ điển chuyên ngành kinh tế cũng như từ điển ngôn ngữ,
hộ là tất cả những người cùng sống trong một mái nhà - nhóm người đó bao
gồm những người cùng chung huyết tộc và những người làm công.
Liên hợp quốc cho rằng: “Hộ là những người cùng sống chung dưới
một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ”.
Tại cuộc thảo luận quốc tế lần thứ tư về quản lý nông trại tại Hà Lan năm
1980, các đại biểu nhất trí rằng: “Hộ là một đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan
đến sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác” [7].
Giáo sư T.G.Mc Gee (1989), Giám đốc Viện nghiên cứu Châu á thuộc
trường Đại học Tổng hợp Britiah Columbia, khi khảo sát “kinh tế hộ trong
quá trình phát triển” ở một số nước Châu á đã nêu lên rằng: “Ở các nước
Châu á hầu hết người ta quan niệm hộ là một nhóm người cùng chung huyết
tộc, hay không cùng chung huyết tộc ở chung một mái nhà, ăn chung một
mâm cơm và có chung một ngân quỹ” [13].
1.1.1.2. Khái niệm hộ nông dân
Tác giả Frank Ellis định nghĩa "Hộ nông dân là các hộ gia đình
làm nông nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của mình, sử
dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm trong
hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục
bộ vào các thị trường và có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn
hảo cao" [6].
V.I.Lênin cho rằng: “cải tạo tiểu nông không phải là tước đoạt của
họ mà phải tôn trọng sở hữu cá nhân của họ, khuyến khích họ liên kết
7
với nhau một cách tự nguyện để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của chính họ” [3].
Hayami và Kikuchi (1981) nghiên cứu sự thay đổi của kinh tế nông
thôn Đông Nam Á và thấy rằng, áp lực dân số trên ruộng đất ngày càng tăng,
lãi do đầu tư thêm lao động ngày càng giảm mặc dù có cải tiến kỹ thuật,
nhưng giá ruộng đất (địa tô) ngày càng tăng.
Năm 1989, Lipton cho rằng trong khoa học xã hội về phát triển
nông thôn hiện nay, phổ biến ba cách tiếp cận, đó là cách tiếp cận macxit
phân tích (Roemer - 1985); tiếp cận cổ điển mới (Krueger, 1974) và tiếp
cận hàng hoá tập thể (Olson, 1982). Ba tiếp cận trên về mặt lý luận, trong
thực tiễn đều thuộc về quan hệ giữa nhà nước và nông dân. Mối quan hệ
đó, thường theo các hướng là tăng thặng dư kinh tế của nông thôn; chuyển
thặng dư từ ngành này sang ngành khác; rút thặng dư và thúc đẩy việc
luân chuyển. Nhìn chung bất cứ một quá trình phát triển nào cũng phải
tăng thặng dư, quá trình này cần sự tác động của Nhà nước.
Ở nước ta, có nhiều tác giả đề cập đến khái niệm hộ nông dân. Theo
nhà khoa học Lê Đình Thắng (năm 1993) cho rằng: "Nông hộ là tế bào kinh tế
xã hội, là hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn" [9]. Đào
Thế Tuấn (1997) cho rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động
nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động
phi nông nghiệp ở nông thôn”. Còn theo nhà khoa học Nguyễn Sinh Cúc,
trong phân tích điều tra nông thôn năm 2001 cho rằng: "Hộ nông nghiệp là
những hộ có toàn bộ hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm
đất, thuỷ nông, giống cây trồng, bảo vệ thực vật, ) và thông thường nguồn
sống chính của hộ dựa vào nông nghiệp" [4] .
8
1.1.1.3. Khái niệm kinh tế nông hộ
Theo giáo sư Trần Văn Hà thì: “Kinh tế nông hộ là đơn vị khai thác
kinh doanh nông nghiệp của những người cùng sống chung một mái nhà.
Người chủ sản xuất là trưởng gia, là chủ hộ cùng những thân nhân sử dụng
tổng hợp những yếu tố lao động, đất, vốn, phương tiện sản xuất tác động vào
môi trường sinh thái để làm ra sản phẩm nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống
vật chất của gia đình và cộng đồng xã hội”.
Theo Trần Công Quân thì: “Kinh tế hộ nông dân là một hình thức
kinh tế cơ bản và tự chủ trong nông - lâm nghiệp được hình thành và tồn
tại trên cơ sở sử dụng đất đai, sức lao động, tiền vốn của gia đình mình
là chính”.
Tóm lại, có thể thấy kinh tế nông hộ là một hình thức cơ bản và tự chủ
trong nông nghiệp. Nó được hình thành và phát triển một cách khách quan, lâu
dài, dựa trên sự tư hữu các yếu tố sản xuất, là loại hình kinh tế có hiệu quả, phù
hợp với sản xuất nông nghiệp, thích ứng, tồn tại và phát triển trong mọi chế độ
kinh tế xã hội.
1.1.2. Vai trò của kinh tế nông hộ
Kinh tế nông hộ đã có từ lâu đời cho đến nay nó vẫn tồn tại và phát
triển. Trải qua mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau thì kinh tế nông hộ biểu hiện
dưới nhiều hình thức khác nhau, càng ngày nó càng khẳng định được tầm
quan trọng và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
Kinh tế nông hộ là tế bào của xã hội, sự phát triển của nó trước tiên giúp
nâng cao đời sống của người dân và góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Kinh tế nông hộ đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần đổi mới
công nghệ sản xuất. Hộ là nơi tích lũy kinh nghiệm sản xuất truyền thống cũng
là nơi áp dụng công nghệ mới vào sản xuất. Khi chuyển sang sản xuất hàng
hóa, xuất hiện cạnh tranh thị trường, hộ buộc phải đổi mới công nghệ nhằm tạo
9
ra sản phẩm có chất lượng tốt hơn với giá rẻ hơn. Việc đổi mới công nghệ
trước hết phải nhằm khai thác tốt kinh nghiệm truyền thống từ lâu đời [7].
1.1.3. Đặc trưng của kinh tế nông hộ
Kinh tế nông hộ mặc dù có những bước đi thăng trầm song thực tế hộ
nông dân và kinh tế nông hộ vẫn tồn tại bền vững, thúc đẩy xã hội phát triển.
Các thành viên trong hộ được gắn bó chặt chẽ với nhau bởi quan hệ huyết
thống, quan hệ hôn nhân. Hơn nữa sống trong điều kiện tình làng nghĩa xóm
chịu ảnh hưởng của phong tục tập quán nối tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Về mặt kinh tế: Các thành viên trong nông hộ được gắn bó với nhau
dựa trên những quan hệ thật sự bình đẳng đó là quan hệ sở hữu về tài sản,
quan hệ phân phối các nguồn thu nhập và chi tiêu. Đó chính là những lợi ích
về kinh tế cho nên trong gia đình mọi người gắn bó và cảm thông với nhau.
- Về quản lý phân công lao động: Trong nông hộ việc quản lý và phân
công lao động khác hẳn với các ngành nghề khác là người quản lý cũng là
người trực tiếp lao động. Do đó việc phân công lao động hết sức thuận lợi,
hợp lý vì mọi người hiểu nhau về năng lực và trình độ. Hơn nữa vì mục đích
của mỗi thành viên trong nông hộ cũng thống nhất là làm thế nào để gia đình
giàu có, động lực đó cũng thúc đẩy mọi người làm hết mình và có tính tự giác
cao, điều mà không có hình thức kinh doanh nào có được.
- Về tài sản và tư liệu sản xuất: Các thành viên trong hộ đều bình đẳng, sử
dụng chung mọi tài sản phục vụ cho sản xuất và đời sống của gia đình, mọi người
đều hiểu rõ tính chất giá trị của tài sản cho nên họ đều có ý thức sử dụng và bảo
quản cao nhất. Bởi vì chúng cũng là những yếu tố kinh tế của gia đình [14].
1.1.4. Phân loại hộ nông dân
Trong sản xuất nông hộ kinh tế hộ gia đình là loại hình kinh tế được phát
triển từ thấp đến cao, từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa. Vì vậy nếu căn cứ
vào mức độ phát triển kinh tế nông hộ ta có thể chia ra các nhóm sau
10
• Nhóm kinh tế hộ sinh tồn: Là dạng phát triển thấp của kinh tế nông
hộ, các hộ thuộc nhóm này chỉ sản xuất một số loại cây trồng vật nuôi chủ yếu
nhằm duy trì cuộc sống của gia đình họ. Họ hầu như không có hoặc có rất ít
vốn, công cụ sản xuất thì thô sơ, lạc hậu dẫn đến năng suất lao động thấp và
họ tiến hành sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm.
• Nhóm kinh tế hộ tự túc: Nhóm này sản xuất ra lương thực thực
phẩm cung cấp cho nhu cầu hàng ngày, sản xuất còn manh mún, lạc hậu
không chịu tìm tòi, học hỏi, luôn bằng lòng với bản thân nên hiệu quả trong
sản xuất của nhóm hộ này rất thấp.
• Nhóm hộ sản xuất nhỏ: Trong quá trình sản xuất có một bộ phận
nông dân làm ăn khá giả, ngoài phần sản xuất để cung cấp cho bản thân gia
đình còn có phần dư thừa để bán ra ngoài thi trường. Đây là nhóm họ phần
nào biết làm ăn, chịu khó học hỏi nhưng vẫn chưa thực sự mạnh dạn đầu tư,
thuê vốn để làm ăn.
• Nhóm kinh tế hộ sản xuất hàng hóa lớn: Đây chính là những loại hộ
sản xuất hàng hóa, nên các hộ thuộc nhóm này đã biết đầu tư phát triển loại
hình kinh tế mang đặc trưng của mô hình kinh tế trang trại.
Trên đây là các nhóm hộ thuần nông. Các hộ có thu nhập chủ yếu từ
ngành trồng trọt và chăn nuôi. Đặc trưng của hộ này là chịu ảnh hưởng lớn
của điều kiện tự nhiên.
Ngoài loại hộ thuần nông còn có nhóm hộ kiêm ngành nghề, dịch vụ:
Đây là loại hộ ngoài sản xuất nông nghiệp, họ còn biết tận dụng những cái có
sẵn của ông cha để lại như: Các ngành nghề truyền thống được kế thừa từ đời
này sang đời khác nhằm nâng cao thu nhập cho gia đình và tận dụng lao động
lúc nông nhàn ở nông thôn. Vì vậy loại hộ này có vốn để đầu tư cho sản xuất
kinh doanh và các kiến thức về thị trường.
11
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông hộ
1.1.5.1. Nhóm yếu tố thuộc điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý và đất đai:
Vị trí địa lý có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và sự
phát triển của kinh tế nông hộ. Những hộ nông dân có vị trí thuận lợi như:
Gần đường giao thông, gần các cơ sở chế biến nông sản, gần thị trường
tiêu thụ sản phẩm, gần trung tâm các khu công nghiệp, đô thị lớn sẽ có
điều kiện phát triển kinh tế.
Sản xuất chủ yếu của hộ nông dân là nông nghiệp. Đất đai là yếu tố
quan trọng nhất trong các tư liệu sản xuất của hộ nông dân. Cuộc sống của họ
gắn liền với ruộng đất. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt và không thể thay
thế trong quá trình sản xuất. Do vậy quy mô đất đai, địa hình và tính chất
nông hoá thổ nhưỡng có liên quan mật thiết tới từng loại nông sản phẩm, tới
số lượng và chất lượng sản phẩm, tới giá trị sản phẩm và lợi nhuận thu được
- Khí hậu thời tiết và môi trường sinh thái:
Khí hậu thời tiết có ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Điều
kiện thời tiết, khí hậu, lượng mưa, độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng có mối quan hệ
chặt chẽ đến sự hình thành và sử dụng các loại đất. Thực tế cho thấy ở những nơi
thời tiết khí hậu thuận lợi, được thiên nhiên ưu đãi sẽ hạn chế những bất lợi và
rủi ro, có cơ hội để phát triển kinh tế.
Môi trường sinh thái cũng ảnh hưởng đến phát triển hộ nông dân, nhất
là nguồn nước. Bởi vì những loại cây trồng và gia súc tồn tại theo quy luật
sinh học, nếu môi trường thuận lợi cây trồng, con gia súc phát triển tốt, năng
suất cao, còn ngược lại sẽ phát triển chậm, năng suất chất lượng giảm từ đó
dẫn đến hiệu quả sản xuất thấp kém.
1.1.5.2. Nhóm nhân tố thuộc kinh tế và tổ chức, quản lý
Đây là nhóm yếu tố có liên quan đến thị trường và các nguồn lực chủ
yếu có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung và phát
triển kinh tế nông hộ nói riêng.
12
- Trình độ học vấn và kỹ năng lao động:
Người lao động phải có trình độ học vấn và kỹ năng lao động để
tiếp thu những tiến hộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất tiên
tiến. Trong sản xuất, phải giỏi chuyên môn, kỹ thuật, trình độ quản lý mới
mạnh dạn áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất nhằm mang
lại lợi nhuận cao. Điều này là rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả trong sản xuất kinh doanh của hộ, ngoài ra còn phải có những tố chất
của một người dám làm kinh doanh [5].
- Vốn:
Trong sản xuất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng, vốn là
điều kiện đảm bảo cho các hộ nông dân về tư liệu sản xuất, vật tư nguyên liệu
cũng như thuê nhân công để tiến hành sản xuất. Vốn là điều kiện không thể
thiếu, là yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa
- Công cụ sản xuất:
Công cụ lao động có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các biện
pháp kỹ thuật sản xuất. Muốn sản xuất có hiệu quả, năng suất cao cần phải sử
dụng công cụ phù hợp. Ngày nay với kỹ thuật canh tác tiên tiến, công cụ sản
xuất nông nghiệp đã không ngừng được cải tiến và đem lại hiệu quả cao trong
sản xuất. Năng suất cây trồng, vật nuôi không ngừng tăng lên, chất lượng sản
phẩm tốt hơn. Do đó, công cụ sản xuất có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả và
hiệu quả trong sản xuất của các nông hộ.
- Cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng chủ yếu trong nông nghiệp nông thôn bao gồm:
Đường giao thông, hệ thống thuỷ lợi, hệ thống điện, nhà xưởng, trang
thiết bị nông nghiệp , đây là những yếu tố quan trọng trong phát triển
sản xuất của kinh tế nông hộ, thực tế cho thấy, nơi nào cơ sở hạ tầng phát
triển nơi đó sản xuất phát triển, thu nhập tăng, đời sống của các nông hộ
được ổn định và cải thiện.
13
- Thị trường:
Nhu cầu thị trường sẽ quyết định hộ sản xuất sản phẩm gì? với số
lượng bao nhiêu và theo tiêu chuẩn chất lượng như thế nào? Trong cơ chế
thị trường, các hộ nông dân hoàn toàn tự do lựa chọn loại sản phẩm mà thị
trường cần trong điều kiện sản xuất của họ. Từ đó, kinh tế nông hộ mới có
điều kiện phát triển.
- Hình thức và mức độ liên kết hợp tác trong mối quan hệ sản xuất
kinh doanh:
Để đáp ứng yêu cầu của thị trường về sản phẩm hàng hoá, các hộ
nông dân phải liên kết hợp tác với nhau để sản xuất, hỗ trợ nhau về vốn,
kỹ thuật và giúp nhau tiêu thụ sản phẩm. Nhờ có các hình thức liên kết,
hợp tác mà các hộ nông dân có điều kiện áp dụng các thành tựu khoa học
kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất cây
trồng, con gia súc và năng suất lao động.
1.1.5.3. Nhóm nhân tố thuộc khoa học kỹ thuật và công nghệ
- Kỹ thuật canh tác:
Do điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi vùng khác nhau, với
yêu cầu giống cây, con khác nhau đòi hỏi phải có kỹ thuật canh tác khác
nhau. Trong nông nghiệp, tập quán, kỹ thuật canh tác của từng vùng, từng
địa phương có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp và
phát triển kinh tế nông hộ.
- Ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ:
Sản xuất của hộ nông dân không thể tách rời những tiến bộ khoa
học kỹ thuật, vì nó đã tạo ra cây trồng vật nuôi có năng suất cao, chất
lượng tốt. Thực tế cho thấy những hộ nhạy cảm với tiến bộ kỹ thuật về
giống, công nghệ sản xuất, hiểu biết thị trường, dám đầu tư lớn và chấp
nhận những rủi ro trong sản xuất nông nghiệp, họ giàu lên rất nhanh. Nhờ
14
có công nghệ mà các yếu tố sản xuất như lao động, đất đai, sinh vật, máy
móc và thời tiết khí hậu kinh tế kết hợp với nhau để tạo ra sản phẩm nông
nghiệp. Như vậy, ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất nông
nghiệp có tác dụng thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển, thậm chí những
tiến bộ kỹ thuật làm thay đổi hẳn bằng sản xuất hàng hoá.
1.1.5.4. Nhóm nhân tố thuộc quản lý vĩ mô của Nhà nước
Nhóm nhân tố này bao gồm chính sách, chủ trương của Đảng và
Nhà nước như: Chính sách thuế, chính sách ruộng đất, chính sách bảo hộ,
trợ giá nông sản phẩm, miễn thuế cho sản phẩm mới, chính sách cho vay
vốn, giải quyết việc làm, chính sách đối với đồng bào đi xây dựng vùng
kinh tế mới Các chính sách này có ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế
nông hộ và là công cụ đắc lực để Nhà nước can thiệp có hiệu quả vào sản
xuất nông nghiệp, tạo điều kiện cho các hộ nông dân phát triển kinh tế.
Tóm lại: Từ các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế nông hộ, có
thể khẳng định: Hộ nông dân sản xuất tự cấp tự túc muốn phát triển kinh
tế cần phải phá vỡ kết cấu kinh tế khép kín của hộ để chuyển sang sản
xuất với quy mô lớn và chính sách kinh tế là tiền đề, là môi trường để đầu
tư, đưa tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất để kinh tế hộ nông dân hoạt
động có hiệu quả.
1.2. Cơ sở thực tiến
1.2.1. Kinh nghiệm phát triển kinh tế nông hộ ở một số nước trên thế giới
Thực tiễn cho thấy, quá trình xây dựng. và phát triển kinh tế của các
nước nhất là lĩnh vực nông nghiệp, nông dân, trang trại, nông thôn đã có
nhiều kinh nghiệm quý báu để chúng ta học tập.
- Thái Lan: Một nước trong khu vực Đông Nam châu Á, Chính phủ Thái
Lan đã thực hiện nhiều chính sách để đưa từ một nước lạc hậu trở thành nước có
nền khoa học kỹ thuật tiên tiến. Một số chính sách có liên quan đến việc phát triển
15
kinh tế vùng núi ban hành (từ 1950 đến năm 1980). Thứ nhất: Xây dựng nhiều cơ
sở hạ tầng ở nông thôn. Mạng lưới đường bộ bổ sung cho mạng lưới đường sắt,
phá thế cô lập các vùng ở xa (Bắc, Đông Bắc, Nam ), đầu tư xây dựng đập nước
ở các vùng. Thứ hai: Chính sách mở rộng diện tích canh tác và đa dạng hoá sản
phẩm như cao su ở vùng đồi phía Nam, ngô, mía, bông, sắn, cây lấy sợi ở vùng
núi phía Đông Bắc. Thứ ba: Đẩy mạnh công nghiệp hoá chế biên nông sản để
xuất khẩu như ngô, sắn sang các thị trường châu Âu và Nhật Bản. Thứ tư: Thực
hiện chính sách đầu tư nước ngoài và chính sách thay thế nhập khẩu trong lĩnh
vực công nghiệp nhẹ. Nhà nước cũng thực hiện chính sách trợ giúp tài chính cho
nông dân như: Cho nông dân vay tiền với lãi suất thấp, ứng trước tiền cho nông
dân và cam kết mua sản phẩm với giá định trước cùng với nhiều chính sách khác
đã thúc đẩy vùng núi Thái Lan phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá. Hàng
năm có 95% sản lượng cao su, hơn 4 triệu tấn dầu cọ do nông dân sản xuất ra.
Song trong quá trình thực hiện có bộc lộ một số vấn đề còn tồn tại: Đó là việc mất
cân bằng sinh thái, là hậu quả của một nền nông nghiệp làm nghèo kiệt đất đai.
Kinh tế vẫn mất cân đối giữa các vùng, xu hướng nông dân rời bỏ nông thôn ra
thành thị lâu dài hoặc rời bỏ nông thôn theo mùa vụ ngày càng gia tăng [17].
- Đài Loan: Ý thức được xuất phát điểm của mình có vị trí quan
trọng là nông nghiệp nhưng ở trình độ thấp, nên ngay từ đầu Đài Loan đã
coi trọng và chú ý đầu tư cho nông nghiệp. Trong những năm 1950 đến
1960 chủ trương "Lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp
phát triển nông nghiệp". Từ năm 1951 đã có chương trình cải cách ruộng
đất theo 3 bước: Giảm tô, giải phóng đất công, bán đất cho tá điền, thực
hiện người cày có ruộng (1953 - 1954).
Theo đạo luật cải cách ruộng đất của Đài Loan, địa chủ chỉ được
giữ lại 3 ha nếu là ruộng thấp và 6 ha nếu là ruộng cao, số còn lại Nhà
nước mua và bán lại cho tá điền với giá thấp và được trả dần, trả góp.
16
Chính sách phát triển nông nghiệp của Đài Loan trong thời kỳ này đã làm
cho nông dân phấn khởi, lực lượng sản xuất trong nông thôn được giải
phóng, sản xuất đã tăng với tốc độ nhanh.
Tại Đài Loan hiện có 30 vạn người dân tộc thiểu số sinh sống ở
vùng cao, song đã có đường đi lên núi là đường nhựa, nhà có đủ điện
nước, có ô tô riêng. Từ 1974 họ thành lập nông trường, nông hội, trồng
những sản phẩm quý hiếm như "cao sơn trà", bán các mặt hàng sản phẩm
của rừng như cao các loại, thịt hươu, nai khô ,cùng các sản phẩm nông
dân sản xuất được trong vùng. Về chính sách thuế và ruộng đất của chính
quyền có sự phân biệt giữa 2 đối tượng "nông mại nông" thì miễn thuế
(nông dân bán đất cho nông dân khác), "nông mại bất nông" thì phải đóng
thuế gấp 3 lần tiền mua (bán đất cho đối tượng phi nông nghiệp). Nguồn
lao động trẻ ở nông thôn rất dồi dào nhưng không di chuyển ra thành thị,
mà dịch vụ tại chỗ theo kiểu "ly nông bất ly hương". Các cơ quan khoa
học ở Đài Loan rất mạnh dạn nghiên cứu cải tạo giống mới cho nông dân
và họ không phải trả tiền [8].
- Trung Quốc: Trong những năm qua phát triển rất mạnh trong lĩnh vực
đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Một trong những thành tựu của Trung Quốc
trong cải cách mở cửa là phát triển nông nghiệp hương trấn, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông thôn, từ đó tăng trưởng với tốc độ cao. Nguyên nhân của
thành tựu đó có nhiều, trong đó điều chỉnh chính sách đầu tư rất quan trọng,
tăng vốn đầu tư trực tiếp cho nông nghiệp để tạo ra tiền đề vật chất cho sự tăng
trưởng trước hết là đầu tư xây dựng công trình thuỷ lợi, mở rộng sản xuất
lương thực, xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, nghiên cứu ứng dụng cây trồng,
vật nuôi, cây con vào sản xuất nhất là lúa, ngô, bông [17].