Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Quản lý hoạt động bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (997.26 KB, 116 trang )

1
B GIO DC V O TO
HC VIN QUN Lí GIO DC
_________________

______________
NGUYN TH THU HNG
QUảN Lý HOạT ĐộNG BồI DƯỡNG CHứC DANH BIÊN TậP VIÊN,
PHóNG VIÊN TạI TRƯờNG ĐàO TạO, BồI DƯỡNG CáN Bộ
QUảN Lý THÔNG TIN Và TRUYềN THÔNG
CHUYấN NGNH: QUN Lí GIO DC
M S: 60 14 01 01
LUN VN THC S QUN Lí GIO DC
Ngi hng dn khoa hc: GS.TSKH. NGUYN MNH HNG
H NI - 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tác giả xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Học
viện Quản lý giáo dục, các Giáo sư - Phó giáo sư, các Tiến sĩ khoa học,Tiến
sĩ, các thầy cô giáo của Học viện Quản lý Giáo dục đã tận tình giảng dạy, đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất giúp đỡ lớp cao học khoá K7C
chuyên ngành QLGD trong suốt quá trình học tập và làm luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Trường, các phòng, đơn vị, khoa chức
năng và giảng viên Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền
thông đã cung cấp các tư liệu trong quá trình khảo sát, điều tra giúp tác giả
hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tác giả cảm ơn và bày tỏ lòng nhớ ơn sâu sắc đến thầy
GS.TSKH. Nguyễn Mạnh Hùng đã mang lại cho tác giả những tri thức, những
kinh nghiệm quý báu về phương pháp tư duy, các kiến thức khoa học về quản
lý, đã tận tình hướng dẫn chỉ bảo và giúp đỡ để tác giả hoàn thành luận văn
đúng thời hạn.


Do điều kiện về thời gian và năng lực bản thân còn hạn chế nên chắc
chắn luận văn có nhiều khiếm khuyết. Do vậy, tác giả kính mong các thầy,
cô giáo, các đồng nghiệp góp ý, bổ sung để giúp cho luận văn được hoàn
chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 6 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Thị Thu Hương
3
KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Trường BDCBTT&TT Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản
lý Thông tin và Truyền thông
Bộ TT&TT Bộ Thông tin và Truyền thông
BDCD Bồi dưỡng chức danh
BTV, PV Biên tập viên, Phóng viên
QLGD Quản lý Giáo dục
QLĐT Quản lý đào tạo
QLCSVC Quản lý cơ sở vật chất
PPĐT Phương pháp đào tạo
CBCNV Cán bộ Công nhân viên
QLQTĐT Quản lý quá trình đào tạo
QTGD Quá trình giáo dục
QTĐT Quá trình đào tạo
CSVC&TBDH Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học
Bộ GD&ĐT Bộ Giáo dục và Đào tạo
CBQL Cán bộ quản lý
4
MỤC LỤC
5
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH

6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã chuyển từ xã hội công nghiệp
sang xã hội thông tin, từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Trong xu
thế đó, Chính phủ Việt Nam đã có quan điểm và định hướng về phát triển các
lĩnh vực thông tin và truyền thông. Trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác
phát triển nguồn nhân lực nói chung cũng như nguồn nhân lực thông tin và
truyền thông nói riêng. Đây là yếu tố then chốt có ý nghĩAa quyết định đối
với việc phát triển, ứng dụng thông tin và truyền thông vào mọi mặt của đời
sống xã hội. Nhưng phát triển nguồn nhân lực thông tin và truyền thông phải
đảm bảo chất lượng, đồng bộ, chuyển dịch nhanh về cơ cấu theo hướng tăng
nhanh tỷ lệ nguồn nhân lực có trình độ cao, tăng cường năng lực công nghệ
thông tin và truyền thông quốc gia.
Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền thông
là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông (sau đây gọi tắt
là Trường); Trường thực hiện chức năng: tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức tham gia quản lý, hoạt động trong lĩnh vực thông tin và
truyền thông; tập huấn, phổ biến kiến thức pháp luật về lĩnh vực thông tin và
truyền thông; tổ chức nghiên cứu và ứng dụng các cơ chế chính sách, tiến bộ
kỹ thuật, khoa học công nghệ, khoa học quản lý trong các lĩnh vực (báo chí;
xuất bản; bưu chính; viễn thông; tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin,
điện tử; phát thanh và truyền hình; thông tấn, thông tin đối ngoại; thông tin cơ
sở hạ tầng ) thuộc chức năng quản lý của Bộ Thông tin và Truyền thông do
Chính phủ qui định.
Đối tượng học viên của Trường là các cán bộ công chức, viên chức đã
có trình độ chuyên môn. Do nhu cầu của công việc và lĩnh vực đang công tác
nên họ cần được học các lớp đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ lý luận
7
chính trị, kỹ năng lãnh đạo, quản lý nhà nước và kiến thức chuyên môn

nghiệp vụ. Việc đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng là nhiệm vụ bắt buộc và
cũng là để hoàn thiện các văn bằng chứng chỉ nhằm thực hiện tốt việc chuẩn
hóa cán bộ, công chức, viên chức. Đặc biệt là việc chuẩn hóa chức danh
ngạch Biên tập viên, Phóng viên cho các đối tượng hoạt động trong lĩnh vực
Báo chí, Xuất bản. Theo thống kế thống kê của Vụ Tổ chức cán bộ, Cục Báo
chí, Cục Xuất bản Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện nay lực lượng làm việc
trong lĩnh vực báo chí, xuất bản chiếm khá đông trong toàn ngành, cụ thể:
Trong lĩnh vực Báo chí: tính đến nay, cả nước có gần 16.000 người
làm báo chuyên nghiệp được cấp thẻ nhà báo, hàng ngàn cán bộ, kỹ sư, nghệ
sỹ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí và hàng chục ngàn người
khác làm cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia các công đoạn in ấn tiếp
thị quảng cáo, phát hành, sống chủ yếu bằng dịch vụ nghề báo; có trên 720 cơ
quan báo chí với trên 800 ấn phẩm, kênh sóng, chương trình, bao gồm: 174
báo (trung ương 73, địa phương 101); trên 470 tạp chí (trung ương 360, địa
phương trên 100); 01 hãng thông tấn quốc gia; 02 đài phát thanh, truyền hình
quốc gia, 01 đài truyền hình của VTC, 63 đài phát thanh và truyền hình tỉnh,
thành phố, trên 500 truyền thanh, truyền hình cấp huyện, hàng ngàn trạm
truyền thanh, truyền hình cấp xã; 05 tờ báo điện tử lớn, hàng chục trang báo
điện tử là cánh tay nối dài của các báo in, hàng trăm trang thông tin điện tử,
hàng ngàn website.
Nhìn chung, đội ngũ làm công tác báo chí ở nước ta được đào tạo bồi
dưỡng, sử dụng từ nhiều nguồn khác nhau. Khoảng 35% tốt nghiệp các
trường đại học về báo chí, số còn lại từ các trường khác. Ở trong các trường
đại học có đào tạo ngành báo chí, sinh viên học lý thuyết là chủ yếu, ít có điều
kiện thực hành do thiếu nhà xưởng, máy móc và ít thực tập tại các tòa soạn
báo, các đài phát thanh, truyền hình. Vốn kiến thức, tri thức về nghề báo còn
8
một khoảng cách khá xa so với thực tiễn đời sống báo chí. Sau khi ra trường,
nhiều sinh viên trở thành phóng viên rồi trưởng thành thành biên tập viên, cán
bộ lãnh đạo, quản lý, tuy nhiên, họ ít được đào tạo, bồi dưỡng lại hoặc bồi

dưỡng nâng cao kiến thức một cách bài bản. 57% còn lại không được đào tạo
chính quy về nghề báo. Điểm yếu kém rõ nhất của đội ngũ phóng viên, biên
tập viên, phát thanh viên, đạo diễn, họa sỹ, kỹ thuật viên các báo, đài, tạp chí
là nhận thức, tư duy chính trị của khá nhiều người còn đơn giản, sơ sài, bản
lĩnh chính trị còn chưa vững vàng, ngại học chính trị, ít am tường về luật
pháp; một cố người coi nghề báo chỉ để lập thân thuần túy như các nghề khác.
Đối với lĩnh vực xuất bản: đến nay, cả nước có lao động toàn ngành là
5.497 người, trong đó: Trình độ trên đại học: 306 người; trình độ đại học:
2.162 người; Số lượng biên tập viên: 1.233 người, trong đó: trình độ trên đại
học: 215 người; trình độ đại học: 1.018 người; có 55 nhà xuất bản, trong đó
có một nhà xuất bản thuộc diện Ban bí thư quản lý, 25 nhà xuất bản thuộc các
bộ ngành; 10 nhà xuất bản trực thuộc các tổ chức chính trị -xã hội, tổ chức
chính trị - xã hội - nghề nghiệp; 7 nhà xuất bản trực thuộc các trườmg đại học;
11 nhà xuất bản trực thuộc chính quyền các tỉnh, thành phố; 01 nhà xuất bản
trực thuộc doanh nghiệp.
Với đánh giá của các chuyên gia trong ngành thì đội ngũ lao động này
mới chỉ đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các nhà xuất bản ở mức độ trung
bình. Đặc biệt, đội ngũ biên tập viên còn thiếu và yếu về chuyên môn nghiệp
vụ, trình độ lý luận và bản lĩnh chính trị do hụt hẫng, thiếu vắng những biên
tập viên đầu đàn có thực lực, mặc dù chưa bao giờ xét về bằng cấp lại có tỷ lệ
đại học và trên đại học cao như hiện nay. 98% biên tập viên các nhà xuất bản
có trình độ đại học, trên đại học, nhưng chưa đầy 40% trong số đó được đào
tạo đúng chuyên ngành xuất bản. Phần lớn cán bộ cấp phòng, ban và đội ngũ
biên tập viên chưa được đào tạo, bồi dưỡng đúng mức về chuyên môn.
9
Xuất phát từ việc học tập, nghiên cứu lý luận về khoa học quản lý giáo
dục, từ thực tiễn quản lý công tác bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức nói
chung và bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên nói riêng còn nhiều
tồn tại, tôi nhận thấy sự cần thiết của việc nghiên cứu thực trạng quản lý công
tác bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên tại Trường Đào tạo, Bồi

dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền thông, Bộ Thông tin và Truyền
thông để từ đó đưa ra các biên pháp nâng cao chất lượng công tác này.
Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Quản lý hoạt động bồi dưỡng
chức danh Biên tập viên, Phóng viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán
bộ quản lý Thông tin và Truyền thông” nhằm đánh giá hiện trạng hoạt động
bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên của Trường. Từ đó, đề xuất
các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của công tác này, góp phần nâng cao
chất lượng bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức của ngành Thông tin và
Truyền thông nói chung và chất lượng quản lý công tác bồi dưỡngchức danh
Biên tập viên, Phóng viên của Trường nói riêng.
2. Mục đích nghiên cứu
Công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng
viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền
thông của Bộ Thông tin và Truyền thông tuy đã diễn ra nhiều năm (từ năm
2009 đến nay) nhưng kết quả chưa được như mong muốn. Với việc nghiên
cứu đề tài “Quản lý hoạt động bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng
viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền
thông” tôi hy vọng sẽ đưa ra được các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng
của công tác bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên của Trường nói
riêng và chất lượng bồi dưỡng cán bộ quản lý của Bộ Thông tin và Truyền
thông nói chung.
10
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên tại Trường
Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền thông.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chức danh Biên tập viên,
Phóng viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và
Truyền thông.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý; quản lý hoạt động bồi dưỡng cán
bộ.
Nghiên cứu thực trạng hoạt động bồi dưỡng chức danh Biên tập viên,
Phóng viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và
Truyền thông hiện nay.
Đề xuất biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng chức Biên tập viên,
Phóng viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và
Truyền thông.
5. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng
viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền
thông, Bộ Thông tin và Truyền thông hiện nay còn một số hạn chế làm ảnh
hưởng đến chất lượng bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên.
Vì vậy, nếu đề xuất và thực thi được những biện pháp quản lý hoạt
động bồi dưỡng có cơ sở khoa học, phù hợp với đặc điểm điều kiện Nhà
trường thì chất lượng bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên tại
Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền thông, Bộ
Thông tin và Truyền thông sẽ được nâng cao.
11
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hoạt động bồi dưỡng chức danh Biên tập viên,
Phóng viên theo chương trình và nhu cầu thực tế của đội ngũ cán bộ biên tập
viên, phóng viên trong lĩnh vực Báo chí, Xuất bản. Từ đó sẽ đưa ra các biện
pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng của công tác này.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp chuyên gia
Tham khảo ý kiến chuyên môn của những nhà khoa học đang công tác
tại các đơn vị như: Vụ Tổ chức cán bộ của Bộ Thông tin và Truyền thông; Cục
Báo chí; Cục quản lý phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử; Cục Xuất

bản, In và phát hành; Các đơn vị chức năng trực thuộc Đào tạo, Bồi dưỡng cán
bộ quản lý Thông tin và Truyền thông Bộ Thông tin và Truyền thông như:
Phòng Đào tạo, Bồi dưỡng; Trung tâm Đào tạo, Tư vấn và Dịch vụ; Khoa bồi
dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành và kỹ năng quản lý của Trường
7.2. Phương pháp thu thập thông tin
Văn kiện, Nghị quyết của Đảng, các văn bản quy định của Nhà nước và
của Bộ Thông tin và Truyền thông về công tác bồi dưỡng cán bộ nói chung và
bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên nói riêng; các tài liệu lý luận
về giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động bồi dưỡng, các công trình, đề tài,
các tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
7.3. Phương pháp điều tra
Sử dụng phiếu điều tra chia theo các nhóm: Cán bộ quản lý, giảng viên,
học viên trong việc nghiên cứu đánh giá thực trạng và tính khả thi của giải
pháp nâng cao công tác bồi dưỡng chức danh Biên tập viên, Phóng viên tại
Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền thông.
7.4. Phương pháp thống kê
12
Sử dụng phương pháp toán học thống kê để xử lý các dữ liệu, các thông
tin liên quan trong quá trình nghiên cứu, điều tra thu thập được để xác định
kết quả một cách khách quan về chất lượng hoạt động bồi dưỡng chức danh
Biên tập viên, Phóng viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý
Thông tin và Truyền thông Bộ Thông tin và Truyền thông.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn có 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý bồi dưỡng trong các trường bồi
dưỡng cán bộ
Chương 2. Thực trạng quản lý hoạt động bồi dưỡng chức danh Biên tập
viên, Phóng viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và
Truyền thông.

Chương 3. Biện pháp nâng cao chất lượng quản lý hoạt động bồi dưỡng
chức danh Biên tập viên, Phóng viên tại Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ
quản lý Thông tin và Truyền thông.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ BỒI DƯỠNG
TRONG CÁC TRƯỜNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Kinh tế tri thức là mục tiêu then chốt trong chiến lược phát triển kinh
tế, xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới, bởi vì tri thức là một sức mạnh
kinh tế tạo ra tăng trưởng, phát triển và thay đổi đối với xã hội. Tri thức được
biểu hiện bởi các yếu tố chính là con người và khoa học công nghệ. Trong bối
cảnh hiện nay khoa học công nghệ được nghiên cứu và phát triển theo nhiều
hướng, ngành và lĩnh vực khác nhau, trong đó có các lĩnh vực của thông tin
và truyền thông được phát triển và lan truyền rộng rãi trên toàn thế giới.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới đã chuyển từ xã hội công nghiệp
sang xã hội thông tin, từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức. Có thể khái
quát thông tin và truyền thông bao gồm các lĩnh vực chính là: báo chí; xuất
bản; bưu chính và chuyển phát; viễn thông và internet; truyền dẫn phát sóng;
tần số vô tuyến điện; công nghệ thông tin, điện tử; phát thanh và truyền hình.
Trong xu thế đó, Chính phủ Việt Nam đã có quan điểm và định hướng về phát
triển thông tin và truyền thông như sau:
- Công nghệ thông tin và truyền thông là ngành kinh tế mũi nhọn, được
Nhà nước ưu tiên, quan tâm hỗ trợ và khuyến khích phát triển. Phát triển công
nghệ thông tin và truyền thông góp phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế,
thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác cùng phát triển, tăng cường năng lực quốc
gia trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Thông tin và truyền thông là công cụ hàng đầu để thực hiện mục tiêu
thiên niên kỷ, hình thành xã hội thông tin, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin và truyền thông

14
là yếu tố có ý nghĩa chiến lược, góp phần tăng trưởng kinh tế, phát triển xã
hội và tăng năng suất, hiệu quả lao động.
Bên cạch đó, Chính phủ Việt Nam rất chú trọng kế hoạch phát triển
nguồn nhân lực nói chung cũng như nguồn nhân lực thông tin và truyền thông
nói riêng. Phát triển nguồn nhân lực thông tin và truyền thông là yếu tố then
chốt có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển và ứng dụng thông tin và
truyền thông. Phát triển nguồn nhân lực thông tin và truyền thông phải đảm
bảo chất lượng, đồng bộ, chuyển dịch nhanh về cơ cấu theo hướng tăng nhanh
tỷ lệ nguồn nhân lực có trình độ cao, tăng cường năng lực công nghệ thông tin
và truyền thông quốc gia.
Nhiều chương trình, đế án, kế hoạch phát triển quốc gia của Việt Nam
về thông tin và truyền thông cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực thông tin và truyền thông đã được thông qua, cụ thể như:
- Chiến lược phát triển Công nghệ thông tin và truyền thông Việt Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (ban hành kèm theo Quyết định
số 246/2005/QĐ-TTg ngày 06/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ).
- Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của chính phủ về ứng
dụng CNTT trong cơ quan nhà nước.
- Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 01/6/2009 của Thủ tướng chính phủ
về việc phê duyệt Kế hoạch phát triển nguồn nhân lực CNTT Việt Nam đến
năm 2020.
- Đề án tăng tốc sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về công nghệ
thông tin.
Trong ngành Thông tin và Truyền thông nói chung, sự xuất hiện của
báo chí, xuất bản nói riêng là do nhu cầu khách quan về thông tin của con
người và chúng có vai trò to lớn trong đời sống chính trị - xã hội của mọi
quốc gia. Báo chí, xuất bản luôn gắn bó với nhau và là vũ khí đấu tranh giai
15
cấp, công cụ sắc bén trong cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng xã hội mới.

Xã hội ngày càng văn minh, con người càng phát triển thì nhu cầu thông tin
càng cao. Vai trò chi phối thông tin là một trong những tiêu chí đánh giá sự
phát triển của xã hội.
Vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh trong quá trình cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm, tạo điều kiện
cho báo chí xuất bản phát triển. Hiện nay, việc nắm vững đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước ta đối với báo chí, xuất bản là yêu cầu khách
quan và rất cần thiết nhằm phục vụ nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân,
tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện thắng lợi
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước va hội nhập quốc
tế vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Công tác báo chí là một bộ phận cấu thành hữu cơ trong bộ máy hoạt
động của Đảng ta, là yếu tố cầu thành hoạt động tư tưởng, lý luận. Không chỉ
là yếu tố cấu thành hữu cơ, báo chí là vũ khí xung kích trên mặt trận tư tưởng,
lý luận. Báo chí có vai trò quan trọng đối với công tác tư tưởng, lý luận và tổ
chức. Quan điểm này đã được thể hiện xuyên suốt trong hoạt động của Mác-
Ănghen, Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trong lịch sử đấu tranh
cách mạng của Đảng ta. Báo chí là bộ phận hữu cơ và đặt dưới sự lãnh đạo
toàn diện và trực tiếp của Đảng. Là người sáng lập ra báo chí, xuất bản cách
mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định báo chí là một bộ phận
của sự nghiệp cách mạng, là vũ khí sắc bén của Đảng và Nhà nước để góp
phần “Chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa chủ, tuyên truyền cho
độc lâp dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Báo chí thực chất là hoạt động chính trị,
thông tin trên báo chí quan trọng nhất là thông tin chính trị. Để đảm bảo tính
tư tương, tính đảng của báo chí thì trong đó phải thể hiện được tính chiến đấu,
tính giáo dục và tính quần chúng của báo chí. Báo chí, xuất bản là lĩnh vực
16
đặc biệt quan trọng trong tử tưởng vì đều gắn bó chặt chẽ với hiện thực đời
sống, cùng coi thực tiễn là cái gốc, là tiêu chuẩn, thước đo đánh giá chất
lượng, hiệu quả hoạt động của mình, chi phối tác động đến đời sống xã hội

hàng ngày.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định báo chí là mặt trận, người làm báo là
chiến sĩ, cây bút trang giấy là vũ khí, bài báo là tờ hịch cách mạng để tập hợp,
hướng dẫn nhân dân đấu tranh, Bác đã căn dặn những người làm báo chí, xuất
bản – Biên tập viên, Phóng viên phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách
mạng, trau dồi tư tưởng, học tập chính trị để nắm vững chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước, đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động,
phải luôn nâng cao trình độ văn hóa, rèn giũa nghiệp vụ, mài sắc ngòi bút của
mình trong sự nghiệp “phò chính, trừ tà”. Mỗi nhà báo là một cán bộ hoạt
động trong lĩnh vực công tác tư tưởng - văn hóa của Đảng, là nhà truyền
thông - vận động xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước.
Nhà báo là chủ thể tích cực trong quá trình họat động báo chí cũng như quản
lý nhà nước về báo chí. Nhiệm vụ của người làm báo chí, xuất bản là quan
trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập
chính trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản; phải
nâng cao trình độ văn hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ của mình.
Chính vì vậy, vấn đề quản lý giáo dục nói chung và đặc biệt là vấn đề
bồi dưỡng theo chuyên ngành, nghiệp vụ đã được Đảng và Nhà nước ta chú
trọng, quan tâm và chỉ đạo sát sao. Hiện nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu đã đề cập tới vấn đề quản lý giáo dục, bồi dưỡng theo chuyên ngành
nghiệp vụ như:
- Công trình “Cơ sở khoa học quản lý” của tá giả Nguyễn Minh Đạo;
“Những khái niệm cơ bản về lý luận quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn
Ngọc Quang; “Quản lý giáo dục tiếp cận từ những mô hình” của tác giả Đặng
17
Quốc Bảo; “Đường lối chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước về báo
chí, xuất bản” và “Một số nội dung cơ bản về nghiệp vụ báo chí, xuất bản” do
Bộ Thông tin và Truyền thông ban hành;
- Đề tài cấp Bộ năm 2010 “Nghiên cứu xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ quản lý thông tin và truyền thông giai đoạn 2010-2015”, Mã số

79-10-KHKT-RD của Trường Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin
và Truyền thông đã cho thấy thực trạng về công tác đào tạo, bồi dưỡng của
Ngành Thông tin và Truyền thông trong thời gian trước năm 2010, và đưa ra
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý thông tin và truyền thông giai
đoạn 2010 – 2015 cho Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2011-2020( Ban hành kèm theo Quyết
định số 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ) với mục tiêu
tổng quát đến năm 2020, nền giáo dục được đổi mới căn bản và toàn diện theo
hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế;
chất lượng giáo dục được nâng cao một cách toàn diện. “Kế hoạch hành động
quốc gia giáo dục vì sự phát triển bền vững Việt Nam” (2010-2014) tập trung
đẩy mạnh các sáng kiến và chương trình giáo dục phát triển bền vững, huy
động thêm nguồn lực để biến nhận thức thành hành động, tạo ra sự thay đổi
trong lối sống và cùng chung tay xây dựng một tương lai bền vững. Đây là
các văn bản vừa mang tính định hướng cao, vừa là yếu tố pháp lệnh bắt buộc
mọi cơ quan giáo dục phải thực hiện. Trong chiến lược dài hạn (10 năm)
chúng ta phải xây dựng các kế hoạch trung hạn và ngắn hạn để thực hiện khả
thi các bước trong lộ trình phát triển, đạt được mục tiêu giáo dục.
- Đề tài luận văn thạc sỹ “Biện pháp quản lý hoạt động bồi dưỡng tại
Trường đào tạo cán bộ lê Hồng Phong thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thị
Diệu Hà, năm 2013. Đề tài đã nghiên cứu thực trạng và đưa ra được những biện
18
pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc quản lý về hoạt động bồi dưỡng tại
Trường đào tạo cán bộ Lê Hồng Phong của thành phố Hà Nội.
Hầu hết các tác giả của các công trình nghiên cứu đều là những sản
phẩm có giá trị mang tính lý luận cao, đã đưa ra cơ sở lý luận quản lý, về các
biện pháp quản lý hoạt động giáo dục. Việc nghiên cứu của các công trình đều
nhằm thực hiện mục đích cuối cùng là làm thế nào để đưa giáo dục nói chung
và công tác bồi dưỡng ở nước ta ngày một tốt hơn.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thông tin và truyền thông

có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của đất nước trong giai
đoạn hiện nay. Đặc biệt khi mà thị trường lao động của chúng ta được xác
định là dồi dào về lao động giản đơn nhưng lao động kỹ thuật cao thì vừa
thiếu vừa yếu. Chúng ta vẫn thiếu lao động công nghệ thông tin và truyền
thông thành thạo chuyên môn, giỏi ngoại ngữ; thiếu chuyên gia giỏi có trình
độ tư vấn, thiết kế hệ thống lớn, cung cấp giải pháp tổng thể và quản lý dự án;
chưa hình thành đủ đội ngũ cán bộ lãnh đạo công nghệ thông ở các cấp; thiếu
các chuyên gia làm cầu nối giữa thông tin và truyền thông với các ngành kinh
tế khác;…
Thực hiện Nghị quyết đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, X, XI của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Quyết định số 534/QĐ-BTTTT ngày 14/4/2010
của Bộ Thông tin và Truyên thông về việc ban hành chương trình khung bồi
dưỡng chức danh Biên tập viên, phóng viên. Để nhằm tiêu chuẩn hóa cán bộ,
công chức, viên chức ngành Thông tin và Truyền thông nói chung và công
chức, viên chức hoạt động trong lĩnh vực báo chí, xuất bản nói riêng, Trường
Đào tạo, Bồi dưỡng cán bộ quản lý Thông tin và Truyền thông đang ngày một
hoàn thiện trong việc thực hiện nhiệm vụ, triển khai công tác bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ quản lý của Ngành và đặc biệt là quản lý hoạt động bồi dưỡng
chức danh Biên tập viên, Phóng viên.
19
Đây là việc quan trọng và cấp bách nhằm chuẩn hóa, cụ thể hóa các
kiến thức, kỹ năng quản lý về báo chí xuất bản; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng
quản lý về báo chí, xuất bản; góp phần xây dựng đội ngũ, nâng cao năng lực
quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản; bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị
và bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng cho đội
ngũ biên tập viên, phóng viên các báo, đài, nhà xuất bản trên toàn quốc để
thực hiện các tiêu chuẩn chức danh và nâng cao trình độ lý luận chính trị và
đồng thời bảo đảm quyền lợi cho các Biên tập viên, Phóng viên trong việc
chuyển ngạch, bậc lương.
1.2. Một số khái niệm cơ bản có liên quan đến vấn đề nghiên cứu

1.2.1. Quản lý
Quản lý được định nghĩa là một công việc mà một người lãnh đạo học
suốt đời không thấy chán và cũng là sự khởi đầu của những gì họ nghiên cứu.
Quản lý được giải thích như là nhiệm vụ của một nhà lãnh đạo thực thụ,
nhưng không phải là sự khởi đầu để họ triển khai công việc. Như vậy, có bao
nhiêu nhà lãnh đạo tài ba thì có bấy nhiêu kiểu định nghĩa và giải thích về
quản lý.
Vậy suy cho cùng quản lý là gì? Định nghĩa quản lý là yêu cầu tối thiểu
nhất của việc lý giải vấn đề quản lý dựa trên lý luận và nghiên cứu quản lý
học. Xét trên phương diện nghĩa của từ, quản lý thường được hiểu là chủ trì
hay phụ trách một công việc nào đó.
Bản thân khái niệm quản lý có tính đa nghĩa nên có sự khác biệt giữa
nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Hơn nữa, do sự khác biệt về thời đại, xã hội, chế độ,
nghề nghiệp nên quản lý cũng có nhiều giải thiacsh, lý giải khác nhau. Cùng
với sự phát triển của phương thức xã hội hóa sản xuất và sự mở rộng trong
nhân thức của con người thì sự khác biệt về nhận thức và lý giải khái niệm
quản lý càng trở nên rõ rệt.
20
Quản lý theo định nghĩa của các trường phái quản lý học
Xuất phát từ những góc độ nghiên cứu khác nhau, rất nhiều học giả
trong và ngoài nước đã đưa ra giải thích không giống nhau về quản lý. Cho
đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về quản lý. Đặc biệt là kể từ
thế kỷ 21, các quan niệm về quản lý
lại càng phong phú. Các trường phái
quản lý học đã đưa ra những định
nghĩa về quản lý như sau:
- Tailor: "Làm quản lý là bạn
phải biết rõ: muốn người khác làm
việc gì và hãy chú ý đến cách tốt
nhất, kinh tế nhất mà họ làm " .

- Fayel: "Quản lý là một hoạt
động mà mọi tổ chức (gia đình,
doanh nghiệp, chính phủ) đều có, nó
gồm 5 yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm
soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm
soát ấy”.
- Hard Koont: "Quản lý là xây dựng và duy trì một môi trường tốt giúp
con người hoàn thành một cách hiệu quả mục tiêu đã định".
- Peter F Druker: "Suy cho cùng, quản lý là thực tiễn. Bản chất của nó
không nằm ở nhận thức mà là ở hành động; kiểm chứng nó không nằm ở sự
logic mà ở thành quả; quyền uy duy nhất của nó là thành tích".
- Peter. F. Dalark: "Định nghĩa quản lý phải được giới hạn bởi môi
trường bên ngoài nó. Theo đó, quản lý bao gồm 3 chức năng chính là: Quản lý
doanh nghiệp, quản lý giám đốc, quản lý công việc và nhân công".
21
- Mary Parker Follett, 1936: “Quản lý là nghệ thuật hoàn thành công
việc thông qua những người khác”.
- Stoner, 1995: “Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và
kiểm tra công việc của các thành viên trong tổ chức, sử dụng các nguồn lực
sẵn ó để đạt được các mục tiêu của tổ chức”.
Có thể kể ra nhiều ý kiến khác nhau về định nghĩa quản lý, trên đây chỉ
là một vài ý kiến mang tính đại diện trên cơ sở phân tích tổng hợp những quan
điểm không giống nhau. Tóm lại, những quan điểm đó tuy rất rõ rang, đúng
đắn nhưng chưa đầy đủ. Chúng chỉ chú trọng đến quản lý như một hiện tượng
chứ chưa làm bộc lộ rõ bản chất của nó. Vậy làm thế nào để khái quát khái
niệm quản lý một cách đơn giản và tương đối toàn diện nhất?
Như chúng ta đều biết, quản lý thực chất cũng là một hành vi, đã là
hành vi thì phải có người gây ra và người chịu tác động. Tiếp theo cần có mục
đích của hành vi, đặt ra câu hỏi tại sao làm như vậy? Do đó, để hình thành nên
hoạt động quản lý trước tiên cần có chủ thể quản lý: nói rõ ai là người quản

lý? Sau đó cần xác định đối tượng quản lý: quản lý cái gì? Cuối cùng cần xác
định mục đích quản lý: quản lý vì cái gì? Có 3 yếu tố trên nghĩa là có được
điều kiện cơ bản để hình thành nên hoạt động quản lý. Đồng thời cần chú ý
rằng, bất cứ hoạt động quản lý nào cũng không phải là hoạt động độc lập, nó
cần được tiến hành trong môi trường, điều kiện nhất định nào đó.
Trong một tập thể lao động hay một tổ chức thì không thể thiếu yếu tố
quản lý, như K.Mác đã từng nói: Tất cả mọi lao động trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến
một sự chỉ đạo để điều hành những hoạt động cá nhân và thực hiện những
chức năng chung, phát sinh từ vận động của toàn bộ cơ chế sản xuất khác với
sự vận động của những cơ quan độc lập của nó. Như vậy, quản lý đã trở thành
22
một hoạt động phổ biến, mọi nơi, mọi lúc, mọi lĩnh vực, mọi cấp độ và nó liên
quan tới mọi người.
Nhìn chung, quản lý có liên quan tới việc đạt được các mục tiêu của tổ
chức. Quản lý có nghĩa là lên kết hoạch, tổ chức trao đổi, kiểm tra và đánh
giá; là giải quyết các xung đột trong quá trình thực hiện nhằm đạt mục tiêu.
Quản lý còn là tác động tương hỗ của chủ thể và đối tượng quản lý. Để duy trì
được năng suất người lao động, các điều kiện làm việc tối ưu, tận dụng tối đa
các nguồn lực; thông qua các quy trình, kỹ thuật, công đoạn quản lý nhằm
hướng tới việc đạt được mục tiêu của tổ chức; đồng thời quản lý cũng bao
gồm cả việc dự đoán các vấn đề và giải quyết được các vấn đề đó.
Có thể hiểu đơn giản: Quản lý là sự tác động có ý thức thông qua kế
hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra để chỉ huy, điều khiển các quá trình xã
hội và hành vi hoạt động của con người nhằm đạt đến mục tiêu đúng ý chí
của người quản lý và phù hợp với điều kiện khách quan.
Quản lý nhà nước trong lĩnh vực báo chí, xuất bản cũng như bất kỳ
dạng quản lý công vụ của bộ máy hành pháp, mang tính quyền lực, tính tổ
chức cao, được điều chỉnh bằng pháp luật, vừa mang tính phổ biến, vừa mang
tính đặc thù quản lý tư tưởng văn hóa.

Công tác quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản mang tính quyền lực nhà
nước, lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu, nhằm đáp ứng kịp thời thông tin
phục vụ đời sống cá nhân, xã hội ngày càng cao, đảm bảo trật tự quản lý và
quyền công dân trong lĩnh vực báo chí, xuất.
Căn cứ theo Luật Báo chí năm 1999 (sửa đổi), Luật Xuất bản 2012: thì
nội dung quản lý nhà nước về báo chí, xuất bản phải đảm bảo: Ban hành và tổ
chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí, xuất bản; xây
dựng chế độ, chính sách về báo chí, xuất bản; tổ chức thông tin cho báo chí;
quản lý thôn tin của báo chí; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị,
23
nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí, xuất bản;
… Như vậy, ngoài quản lý báo chí, xuất bản chủ yếu bằng pháp luật, quản lý
nhà nước trong lĩnh vực này còn thể hiện bằng trách nhiệm công dân, đạo đức
và dư luận xã hội với báo chí, xuất bản.
1.2.2. Chức năng của quản lý
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích đến tập thể
người nhằm thực hiện mục tiêu quản lý. Về bản chất, tách để gọi thành chức
năng quản lý là nhóm công việc quản lý khi chúng có tính chất, công nghệ
thực hiện giống hoặc gần giống nhau để tổ chức chuyên môn hóa thức hiện.
Chức năng quản lý là hình thức biểu hiện sự tác động có chủ đích của
chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý. Là tập hợp các nhiệm vụ
khác nhau mà chủ thể quản lý phải tiến hành trong quá trình quản lý. Như vậy
thực chất của các chức năng quản lý là do tồn tại các hoạt động quản lý.
Do vậy, quản lý là loại hoạt động vô cùng phức tạp nên chỉ riêng việc kể
hết và đảm bảo không trùng lặp các công việc quản lý đã là khó khăn. Trong
lý luận và thực tế người ta chia (hoặc nhóm) các công việc quản lý theo các
dấu hiệu đối tượng, dấu hiệu công nghệ, theo tính chất giai đoạn của quá trình
quản lý rồi lại xếp đặt chúng bên cạnh nhau, trên cơ sở đó thiết lập bộ máy
quản lý.
Đã từ lâu, Gulick đã nêu thành 5 chức năng của quản lý, đó là: Kế hoạch

hóa (Planing); Tổ chức (Organizing); Đảm bảo nhân lực (Staffing); Điều hành
(Directing) và Phối hợp (Coordinating). Sau này trong khoa học quản lý các
chức năng quản lý được nêu mỗi lúc, mỗi nơi có khác nhau nhưng có thể nêu
chung lại như sau: Lập kế hoạch; Tổ chức bộ máy và tổ chức cán bộ (Tổ
chức); Điều hành – Phối hợp (Điều phối); Kiểm tra (Kiểm soát). Trong đó:
- Chức năng lập kế hoạch: – nền tảng của quản lý đó là việc xây dựng
các định hướng và đưa ra quyết định tổ chức thực hiện trong thời gian nhất
24
định của tổ chức. Chức năng kế hoạch bao gồm việc xác định sứ mệnh, dự
báo tương lai của tổ chức trên cơ sở thu thập thông tin về thực trạng của tổ
chức, từ đó xác định mục tiêu dựa trên việc tính toán các nguồn lực, các giải
pháp với mục đích là lựa chọn một đường lối hành động mà một tổ chức nào
đó và một bộ phận của nó phải tuân theo nhằm hoàn thành các mục tiêu của tổ
chức đã đề ra. Nói cách khác “lập kế hoạch hoạt động afl quá trình nghiên
cứu, xem xét, tính toán, cân nhắc, lựa chọn trước làm gì với quy mô cụ thể, sử
dụng những gì với mức độ tiến bộ cụ thể, ở đâu cụ thể, vào lúc nào cụ thể,
bằng phương cách nào cụ thể, người chủ trì cụ thể, tổng kinh phí à lấy từ đâu
cụ thể. Đây là quá trình xác định mục tiêu, xác định các bước đi để đạt được
mục tiêu.
- Chức năng tổ chức: Thực hiện chức năng tổ chức chủ yếu là thiết kế cơ
cấu tổ chức và cơ cấu nhân lực nhằm tạo ra những đảm bảo, cơ sở cho việc
điều hành thực hiện những gì đã được hoạch định. Nhiều nhà khoa học đã
thống nhất với nhau rằng, chức năng tổ chức bao gồm hai lại công việc chính
đó là: lựa chọn, hình thành và không ngừng hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản
lý; Xác định và không ngừng nâng cao chất lượng của cơ cấu nhân lực.
- Chức năng điều phối: Điều phối là cho vận hành, phối hợp tất cả các
hoạt động bộ phận trong tổ chức đã được thiết kế nhằm thực hiện những gì đã
hoạch định. Trong chức năng này có nội dung sau: Lập kế hoạch tiến độ; Giao
nhiệm vụ cụ thể cho các bộ phận, cá nhân; Đảm bảo điều kiện vật chất cần
thiết cho các bộ phận, cá nhân thực hiện, hoàn thành các công việc; Hướng

dẫn, đôn đốc các bộ phận, cá nhân thực hiện, hoàn thành các công việc theo
tiêu chuẩn chất lượng và tiến độ…;Kiểm tra, đánh giá, thưởng (phạt) các bộ
phận, cá nhân. Và khi thực hiện chức năng điều phối phải đáp ứng các yêu
cầu: bám sát mục đích, các mục tiêu, các yêu cầu về chất lượng, thời hạn, sản
lượng… đã được hoạch định, nhất trí thông qua; Giảm thiểu trục trặc, trở ngại
25
và khắc phục chúng nhanh nhất, ít tốn kém nhất; tạo được các điêu kiện, tiền
đề cho tái sản xuất mở rộng, cho phát triển hiệu quả trong tương lai,…
- Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là quá trình xem xét, phát hiện những sai
lệch so với những gì đã hoạch định, đã thiết kế để kịp thời xử lý, điều chỉnh.
Khi tiến hành kiểm tra trong quản lý phải đảm bảo các bước cơ bản như sau:
+ Bước 1: Chính thức lựa chọn các đối tượng, chuẩn mốc, cách thức tiến
hành kiểm tra;
+ Bước 2: Tiến hành kiểm tra, tìm kiếm, phát hiện sai khác (sai lệch) so
với những gì đã được hoạch định, đã thiết kế, đã quyết định;
+ Bước 3: Tìm kiếm, thẩm định, khẳng định các nguyên nhân của những
sai lệch (sai khác);
+ Bước 4: Xử lý các trường hợp theo thẩm định.
Dự kiến và thực tế tiến hành kiểm tra hợp lý bao giờ cũng tạo ra sức ép
tích cực đối với người thừa hành, đối với tất cả mọi người. Khi bị sức ép của
kiểm tra con người phải lo chuẩn bị và làm việc nghiêm túc, toàn tâm, toàn ý
để đảm bảo các yêu cầu của tổ chức về chất lượng, tiến độ, … đối với mình.
Vì nếu không nổ lực, cố gắng thì sự kém cỏi, sự vi phạm sẽ bị phát hiện,
người khác sẽ biết và lợi ích, danh dự của bản thân sẽ bị ảnh hưởng. Kiểm tra
vì thế rất có tác dụng đối với sự chấp hành, hoạt động của cấp dưới, của người
thừa hành. Kiểm tra làm cho hiệu lực quản lý được đảm bảo và tăng cường
đồng thời giúp cho chúng ta phát nhiện kịp các sai lệch cụ thể để có cơ sở sửa
đổi, chấn chỉnh, xử lý cần thiết nhằm đảm bảo cho toàn bộ hoạt động được
diễn ra liên tục, nhịp nhàng, đạt hiệu quả cao nhất có thể.
Như vậy, trong một chu trình quản lý cả bốn chức năng trên đều có mối

liên hệ mật thiết với nhau, bổ sung, phối hợp để tạo nên sự kết nối trong quản
lý theo chiều hướng phát triển. Và xuyên suốt, thông tin luôn là yếu tốt quan
trọng không thể thiếu trong việc thực hiện các chức năng quản lý và là cơ sở

×