LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vũ Thị Trâm - trường Đại
học Dược Hà Nội – người đã trực tiếp hướng dẫn giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc, phòng kế hoạch tổng hợp,
các Bác sĩ, Dược sĩ đang công tác tại Bệnh viên Đa khoa Khu vực Củ Chi
đã tạo điều kiện thuận lợi để tôi khảo sát, nghiên cứu và thực hiện luận văn
tốt nghiệp này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của trường Đại
học Dược Hà Nội đã truyền đạt những kiến thức quý báu, tạo điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành nhiệm vụ khóa học.
Trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tôi đã
nhận được sự động viên của gia đình, sự giúp đỡ nhiệt tình của bạn bè và
đồng nghiệp. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc vì sự giúp đỡ quý báu đó.
Tp Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 12 năm 2013
Học viên
Ds. Nguyễn Thị Ngọc Hoa
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
HÀ THỊ THANH TÚ
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN
THUỐC ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN BHYT
NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH XÁ QUÂN DÂN Y
KẾT HỢP TRƯỜNG SỸ QUAN LỤC
QUÂN II NĂM 2013
LUẬN VĂN DƯỢC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP I
HÀ NỘI 2014
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI
HÀ THỊ THANH TÚ
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG KÊ ĐƠN
THUỐC ĐỐI VỚI BỆNH NHÂN BHYT
NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH XÁ QUÂN DÂN
Y KẾT HỢP TRƯỜNG SỸ QUAN LỤC
QUÂN II NĂM 2013
LUẬN VĂN DƯỢC SĨ CHUYÊN KHOA CẤP I
CHUYÊN NGÀNH : TỔ CHỨC QUẢN LÝ DƯỢC
MÃ SỐ : CK 60720412
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Thanh Bình
HÀ NỘI 2014
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thuốc đóng vai trò quyết định trong công tác chăm sóc, bảo vệ, duy trì
và phục hồi sức khỏe cho nhân dân.
Năm 1996 Chính phủ đã ban hành chính sách quốc gia về thuốc với
an toàn có hiệu quả cho người bệnh, hướng phát triển và tầm nhìn chiến
lược đến 2030 lĩnh vực này tiếp tục được nhiều quan tâm.
Trong những năm qua ngành Dược luôn được đổi mới, nhiều công
nghệ mới đã được ứng dụng để tạo ra các sản phẩm thuốc có chất lượng, có
hiệu quả trong điều trị. Bước đầu, các sản phẩm của ngành Dược đã đáp
ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Tuy nhiên, về mặt trái
do số lượng và chủng loại thuốc ngày càng phong phú nên việc quản lý sử
dụng thuốc cần được quan tâm và chú trọng hơn. Bởi vì, tình trạng lạm
dụng thuốc ngày càng trở thành vấn đề bức xúc của xã hội. Việc sử dụng
thuốc tràn lan không có kiểm soát, sử dụng thuốc không đúng, không hợp
lý ngày càng gây ra nhiều hậu quả tai hại trước mắt cũng như lâu dài cho
người bệnh. Bên cạnh đó, khía cạnh tiêu cực của nền kinh tế thị trường
cũng tác động rất lớn đến việc kê đơn của bác sĩ. Vì vậy việc kê đơn, sử
dụng thuốc an toàn, hợp lý cần phải hiểu như là cách dùng thuốc thích hợp
với yêu cầu điều trị, liều lượng thích hợp với cá thể bẹnh nhân, thời gian
điều trị đúng quy định và giá cả phù hợp với cộng đồng.
Đứng trước thực trạng đó, Bộ y tế ban hành nhiều văn bản như: Chỉ
thị 03/BYT-CT ngày 25/02/1997, Chỉ thị 04/1998/BYT-CT ngày
04/03/1998, Chỉ thị 05/2004/VT-BYT ngày 06/04/2004, Chỉ thị
20/2005/TTLB-BYT-BTC, thông tư 10/2007/TTLB-BYT-BTC ngày
10/08/2007 về việc chấn chỉnh công tác cung ứng, quản lý sử dụng thuốc
và tăng cường sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả, kinh tế, Quyết định số
04/2008/QĐ – BYT ngày 01/02/2008 về Quy chế kê đơn thuốc trong điều
2
trị ngoại trú tại các bệnh viện. Việc kê đơn sử dụng thuốc cũng ảnh hưởng
trực tiếp đến công tác khám chữa bệnh.
Vì vậy khảo sát thực trạng kê đơn cho bệnh nhân ngoại trú BHYT là
một trong những việc cần thiết để kiểm tra việc thực hiện các Chỉ thị,
Quyết định nêu trên.
Bệnh xá Trường sĩ quan lục quân 2 là tuyến cơ sở chăm sóc sức khỏe
bước đầu của Quân đội tương đương với quy mô của một bệnh viện tuyến
huyện, có nhiệm vụ khám chữa bệnh cho cán bộ chiến sĩ trong Quân đội,và
năm 2013 Bệnh xá đảm nhiêm thêm việc khám chữa bệnh cho người đăng
ký tham gia khám chữa bệnh BHYT theo chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước cho nhân dân trong khu vực. Trong năm vừa qua tại bệnh xá
có số lượt người đến khám chữa bệnh BHYT khoảng 6.800 số lượt người,
với mô hình bệnh tật đa dạng, phức tạp.Vì là mới thành lập khám chữa
bệnh BHYT nên Bệnh xá chủ yếu khám chữa bệnh cho bệnh nhân ngoại
trú.Cơ quan BHYT của Tỉnh chỉ định nơi phân phối thuốc cho Bệnh xá.
Để góp phần thực hiện tốt hơn công tác khám bệnh kê đơn cũng như
việc thực hiện quy chế kê đơn trong điều trị để nâng cao chất lượng sử
dụng thuốc an toàn hợp lý có hiệu quả tại đơn vi. Chúng tôi đã tiến hành
thực hiện đề tài: “Khảo sát thực trạng kê đơn thuốc đối với bệnh nhân
BHYT ngoại trú tại Bệnh xá Quân Dân y kết hợp Trường SQLQII năm
2013”
Nhằm mục tiêu
Khảo sát một số vấn đề liên quan đến việc thực hiện Quy chế kê đơn tại
đơn vị Bệnh xá Quân Dân y kết hợp trong năm 2013.
3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN
1.1. Vài nét về BHYT
Chúng ta đều thừa nhận rằng sức khỏe là vốn quý nhất của con
người, hẳn ai cũng muốn mình sống khỏe mạnh, ấm no, hạnh phúc. Song
trong đời sống không phải lúc nào cũng được như ý muốn và dù cho khoa
học có phát triển tới đâu đi nữa thì bệnh tật, rủi ro vẫn cứ xảy ra. Việc dành
những khoản tiền chi đột xuất cho khám chữa bệnh luôn là nỗi lo của các
gia đình có thu nhập thấp. Hơn nữa, cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống
con người được nâng cao, nhu cầu được chăm sóc sức khỏe ngày một tăng
lên.Trước nhu cầu bức thiết về việc khám chữa bệnh mà BHYT đã nhanh
chóng phát triển và trưởng thành, góp phần to lớn trong việc thực hiện công
bằng trong chăm sóc khỏe của người dân.
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của BHYT trên thế giới và ở Việt
Nam
* Thế giới
Cùng với sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật,đời sống con người
ngày càng được nâng cao thì dường như tai nạn cũng xuất hiện nhiều hơn.
Nhằm có một nguồn quỹ xã hội để bồi thường hay bù đáp cho những tổn
thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra, các tổ chức bảo hiểm xã hội
(BHXH) lần lượt xuất hiện ở khắp các quốc gia trên thế giới. Do mục đích
hoạt động giàu lòng nhân ái mà công tác BHXH ngày càng được quan tâm
nhiều hơn, từ đó dẫn đế sự ra đời của Công ước quốc tế về an toàn xã hội
vào ngày 18/06/1952 tại Genève. Đây là Công ước đầu tiên của thế giới về
Bảo Hiểm Lao Động (bảo hiểm xã hội).
Mục tiêu của Công ước là “Chúng ta phải huy động mọi thành viên
trong xã hội cùng đóng góp tiền của nhằm làm giảm đi gánh nặng cho ngân
sách quốc gia trong việc khắc phục thiên tai, bệnh tật. Đó là nhu cầu khách
quan của công tác Bảo hiểm”.
4
Hệ thống y tế các nước.
Từ xa xưa việc điều trị cho người bệnh đã là một nhu cầu rất cấp
thiết. Ban đầu việc điều trị được thực hiện bởi những thầy thuốc riêng lẻ có
tính gia truyền hoặc được truyền dạy bởi một thầy thuốc đi trước. Chi phí
điều trị có khi được định giá cụ thể nhưng cũng có khi theo dạng “tùy hỉ”.
Thời gian trôi qua, xã hội phát triển đòi hỏi việc khám chữa bệnh
phải được tổ chức lại. Các phòng khám rồi các bệnh viện ra đời cùng với
việc hình thành nên một nghề nghiệp mới - nghề Y, và ngoài thầy
thuốc/bác sĩ thì còn có thêm điều dưỡng, dược sĩ, dược tá, kỹ thuật viên xét
nghiệm v.v… Hoạt động khám chữa bệnh cũng được tổ chức và quản lý
trong những cơ cấu phức tạp hơn theo nhiều cách khác nhau ở mỗi nước.
Bên cạnh y học điều trị, hoạt động y học dự phòng và y tế công cộng cũng
được phát triển và tạo thành một hệ thống y tế toàn diện.Có nhiều cách mô
tả và phân loại hệ thống y tế nhưng cách thường được dùng đó là dựa trên
tiếp cận kinh tế học. Ở góc độ này thì một hệ thống y tế thường được xem
xét dựa trên việc trả lời 2 câu hỏi cơ bản: “Ai cung cấp dịch vụ?” và “Ai
chi?”.Người cung cấp dịch vụ có thể là nhà nước hoặc tư nhân hoặc cả hai.
Nếu nhà nước và tư nhân cùng cung cấp thì hệ thống này gọi là hệ thống
chăm sóc sức khỏe (CSSK) hai thành phần (two-tier health care) và tùy mỗi
nước thì mức độ cung cấp dịch vụ của mỗi thành phần có khác nhau. Nếu
chỉ có thành phần nhà nước cung cấp hoặc chiếm phần chủ yếu (như
Canada) thì gọi là hệ thống CSSK một thành phần (one-tier health care).Về
cơ cấu hệ thống cung cấp dịch vụ CSSK đặc biệt là dịch vụ khám chữa
bệnh thì mỗi nước có một cơ cấu khác nhau.Ở nhiều nước ngoài các bệnh
viện, dưỡng đường, trung tâm chuyên khoa thì có mạng lưới các bác sĩ đa
khoa chịu trách nhiệm khám chữa bệnh bước đầu cho những người dân
đăng ký.Các cơ sở y tế này có thể là công hoàn toàn, tư nhân hoàn toàn
hoặc bán công. Việc mô tả hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe là
5
không đơn giản tuy nhiên việc trả lời cho câu hỏi “Ai chi?” còn phức tạp
hơn gấp nhiều lần. Thông thường người ta đề cập đến 3 nguồn chi: nhà
nước, tập thể và người dân. Dựa vào đây người ta chia làm 3 nhóm:
- Nhóm nhà nước bao cấp toàn bộ: nhà nước chịu toàn bộ chi phí.
Đây là mô hình hệ thống y tế của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây và
một số nước Châu Âu ví dụ như Anh hoặc Bắc Mỹ như Canada.
- Nhóm nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý và điều hòa thị trường
chăm sóc sức khỏe. Đây là mô hình của nước Mỹ thời xa xưa.
- Nhóm trung gian với nhiều mức độ chi trả khác nhau của nhà nước
và đây là mô hình phổ biến của các nước hiện nay. Ví dụ như ở Mỹ, nhà
nước chỉ chi trả khi cần thiết, ví dụ chi cho người già (Medicare), người tàn
tật, người nghèo không có khả năng chi trả (Medicaid)…
Về nguồn chi từ người dân có thể ở 2 hình thức trực tiếp hoặc gián
tiếp hoặc phối hợp cả hai.
Với hình thức trực tiếp: người dân chi trả cho người cung cấp dịch
vụ sức khỏe bằng hiện kim theo vụ việc (fee for service), đây là dạng phổ
biến ở nước ta.
Trong hình thức gián tiếp người dân chi trả thông qua việc đóng phí
thường niên cho công ty bảo hiểm và công ty bảo hiểm sẽ thay mặt người
bệnh để chi trả, có thể chi 100% kinh phí hoặc với những hình thức đồng
chi trả khác nhau.
Ngoài nhà nước và người dân còn có nguồn chi từ tập thể chẳng hạn
như các chủ xí nghiệp chi trả chi phí chăm sóc sức khỏe của công nhân, các
quỹ từ thiện chi trả cho người nghèo v.v Thực tế cơ chế cung cấp tài
chính cho các dịch vụ sức khỏe ở các nước có thể rất khác nhau và chịu ảnh
hưởng bởi nhiều yếu tố văn hóa, xã hội.Ví dụ Bảo hiểm Y tế tự nguyện
không phải ở nước nào, nơi nào cũng được hưởng ứng. Có nước thì người
6
dân đã quen với hướng bao cấp toàn bộ như Anh, các nước Bắc Âu, có
nước thì người dân lại quen không bao cấp toàn bộ như ở Mỹ…
Hệ thống BHYT các nước Bảo hiểm y tế, một bộ phận chính sách
BHXH đã được Chính phủ các nước rất quan tâm và người dân nhiệt tình
hưởng ứng. Cho đến nay, hàng trăm nước trên thế giới đã thực hiện BHYT,
mặc dù với nhiều hình thức, mức độ, phạm vi, … khác nhau. Sự giống
nhau của các nước về BHYT là mục đích, tổ chức, quản lý, huy động đóng
góp của cộng đồng.Tại hầu hết các nước, hệ thống BHYT chủ yếu phục vụ
cho công nhân viên chức làm việc ở các cơ quan Nhà nước.
Mục đích của BHYT là đảm bảo cho những người tham gia bảo
hiểm được khám, chữa bệnh thuận lợi khi ốm đau và không phải trả tiền
viện phí, mà khoản chi phí khám chữa bệnh là do BHYT trợ cấp.
Do đó, BHYT góp phần ổn định cuộc sống gia đình cho những người
tham gia bảo hiểm và nhờ vậy xã hội được lành mạnh hóa công việc khám
chữa bệnh. Ở đa số các nước trên thế giới, Nhà nước đầu tư khoảng 60%,
còn 40% ngân sách y tế dựa vào sự đóng góp của cộng đồng xã hội thông
qua hoạt động BHYT.
Nguồn thu của BHYT chủ yếu từ phí BHYT (hay do đóng BHYT)
phụ thuộc vào tiền lương (đối với người làm công ăn lương) hoặc thu nhập
(đối với các đối tượng khác).
Đối với những người làm công hưởng lương, luật pháp các nước đều
quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động (các chủ doanh nghiệp)
phải đóng từ 50 – 66% mức đóng bảo hiểm, còn người lao động chỉ đóng
từ 34 – 50%. Quy định đó vừa đảm bảo quyền lợi cho người lao động, vừa
nâng cao trách nhiệm của người chủ đối với sức khỏe của người thợ.
Quỹ BHYT được sử dụng vào hai mục đích chính :
- Chi bảo hiểm bệnh tật bao gồm cả chi phí khám chữa bệnh (thuốc,
dịch truyền, xét nghiệm, vật tư y tế, công thầy thuốc, dịch vụ y tế, …)
7
- Chi trợ cấp lương cho người lao động do ốm đau phải nghỉ việc.
Mục đích thứ hai gắn liền với người làm công hưởng lương.Nó chính
là một bộ phận của BHXH. Do đó, nhiều nước đã chuyển giao bộ phận này
cho BHXH , ở Việt Nam cũng vậy. Về mức trợ cấp BHYT (hay chi trả chi
phí khám chữa bệnh) cho người được BHYT cũng được quy định khác
nhau ở mỗi nước.
Ví dụ : Ở Pháp người ta xây dựng 4 mức trợ cấp về thuốc :
- 0% : bệnh nhân phải tự thanh toán 100%
- 40% : bệnh nhân phải tự thanh toán 60%
- 70% : bệnh nhân phải tự thanh toán 30%
- 100% : bệnh nhân phải tự thanh toán hoàn toàn
Còn ở Mỹ, Nhà nước chi trả 100% cho cho người già (Medicare),
người tàn tật, người nghèo không có khả năng chi trả (Medicaid), …, hãng
bảo hiểm (tư nhân) chi trả 80% chi phí khám chữa bệnh, người bệnh trả 20%.
Trong hoạt động y tế, chi phí cho khám chữa bệnh ngày càng tăng
cao. Nguyên nhân là sự xuất hiện của nhiều trang thiết bị chẩn đoán và điều
trị kỹ thuật cao đắt tiền, bên cạnh đó nhiều bệnh do lối sống như: tim mạch,
đái tháo đường, các rối loạn tâm thần, AIDS, … gây tốn kém trong điều trị.
Để giảm chi phí y tế các Công ty bảo hiểm phải định ra những cơ chế:
Mức chi tối thiểu (deductible): nếu chi phí điều trị chưa vượt qua
mức này thì người bệnh tự trả.
Mức chi tối đa (fixed-indemnity): tức công ty BH chỉ chi đến mức
này dù chi phí điều trị có cao hơn.
Đồng chi trả (co-insurance): tức công ty BH chi một phần, người
bệnh chi một phần.
Tự bảo hiểm (self-insurance) : tức nếu người đóng bảo hiểm không
bị bệnh trong năm qua thì chi phí đóng cho năm tới được giảm xuống.
Chăm sóc sức khỏe tại Mỹ :
8
Mỹ là nước công nghiệp phát triển duy nhất còn lại trên thế giới cho
đến nay vẫn chưa đảm bảo được việc chăm sóc sức khỏe cho toàn dân, là
một cường quốc kinh tế hàng đầu, nhưng là một quốc gia có đến 47 triệu
(15,8%) (2006) người dân không có BHYT. Trong số 84% người dân có
BHYT thì người có việc làm (60%), kinh doanh cá thể (9%) hoặc được
cung cấp bởi các chương trình của Chính phủ.
Hệ thống tài chính y tế tại Mỹ chủ yếu dựa vào các công ty BHYT tư
nhân. Ngoài hai quỹ BHYT nhà nước là
Medicare - quỹ dành cho 41 triệu người trên 65 tuổi và Medicaid -
quỹ dành cho khoảng 30 triệu người thu nhập thấp, các quỹ BHYT còn lại
là BHYT thương mại, hoạt động vì lợi nhuận.
Hầu hết các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở Mỹ là ngoại trú (phòng
khám tư nhân). Dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà là phổ biến, thường do
bác sỹ yêu cầu. Chính phủ Mỹ chi trả BHYT cho 27% dân chúng, trong đó
có người già, người tàn tật (Medicare), người nghèo (Medicaid) và trẻ em
(Chương trình BHYT thiếu nhi). Số người còn lại chưa đủ già (trên 65 tuổi
để được hưởng chế độ BHYT Medicare), chưa đủ nghèo (để được hưởng
chế độ BHYT Medicaid) và chưa đủ giàu (để mua BHYT thương mại) phải
tự túc BHYT khi ốm đau.
Đa phần người Mỹ (59,7%) nhận mức BHYT thông qua người thuê lao
động, sở làm. Mức phí BHYT trung bình mà người lao động phải trả là 16%
cho độc thân và 28% cho người đã lập gia đình. Năm 2004, BHYT tư nhân
chi trả 36% chi phí chăm sóc sức khỏe (vượt mức 15%), trong khi Chính phủ
chi trả 44%, đã đưa Mỹ lên hàng đầu về chi tiêu cho bảo hiểm. Theo WHO,
hệ thống chăm sóc sức khỏe của Mỹ được xếp hàng 37 năm 2000.
9
So sánh nền BHYT của Mỹ và các nước khác đặc biệt là nuớc Cu
Ba. Mỹ bỏ ra bình quân 6.096 USD chi phí bảo hiểm sức khoẻ hàng năm
cho mỗi đầu nguời, trong khi Cu Ba chỉ bỏ ra 229 USD, nhưng việc
chăm sóc sức khỏe ở Cu Ba cũng chẳng thua gì ở Mỹ. Chương trình
chăm sóc y tế ở Cu Ba nhắm vào việc phòng ngừa (prevention) trong
khi ở Mỹ thì chỉ ốm đau có triệu chứng mới được chữa. Nếu so sánh với
các quốc gia châu Âu và Canada thì tuy Mỹ bỏ ra 2 ngàn tỷ USD/một
năm về chi phí y tế, nhưng vấn đề chăm sóc sức khoẻ cho dân chúng đã
thua xa các quốc gia khác. Tại Mỹ tiền chi phí y khoa năm cỡ 16% của
tổng sản luợng quốc gia (GDP), trong khi chi phí y khoa ở Anh
chỉ cỡ 7% tổng sản luợng quốc gia.
Ở các quốc gia khác như Canada, Pháp hay Đức thì chi phí y khoa ở
các xứ này cũng ở dưới mức 10% GDP. Sự khác biệt của nền bảo hiểm y tế
của Mỹ với các quốc gia vừa kể là việc điều hành các chưong trình BHYT
này : chương trình BHYT ở các quốc gia khác là những chương trình
BHYT đại chúng do chính quyền trông coi, trong khi việc điều hành các
chương trình BHYT ở Mỹ là do các công ty bảo hiểm. Vì là tư nhân cho
nên mục tiêu tối hậu của các công ty BHYT ở Mỹ là nhắm vào số lợi
nhuận, chứ không cần biết đến sự an nguy của bệnh nhân. Hàng triệu
người đang cần sự giúp đỡ, tài trợ của Chính phủ về tài chính để có được
BHYT. Ở nước Mỹ, các công ty BHYT tư nhân, hệ thống khám chữa bệnh
tư nhân và các nhà sản xuất thuốc tạo nên một nền “công nghiệp chăm sóc
sức khỏe” (health care industry) vì lợi nhuận đầy quyền lực, bởi nó chiếm
tỷ trọng tới 13,6% GDP.
Ở Hàn quốc, hệ thống BHYT phục vụ cho 4 đối tượng :
- Công nhân các xí nghiệp công thương nghiệp
- Cán bộ nhà nước và giáo viên các trường tư thục
10
- Các nhóm lao động cá thể.
- Lao động ở nông thôn. và thực hiện đồng chi trả theo mức giá chi phí
cố định.
Tại Nhật Bản hiện nay, chăm sóc y tế là một trong những ưu tiên
hàng đầu trong đời sống của người dân và chi phí này là phần không thể
thiếu trong ngân sách của cá nhân và gia đình.Người tham gia phải trả từ
20 - 30% chi phí y tế cho bất cứ loại điều trị nào đã được bảo hiểm.Chi phí
cho phần không được bảo hiểm sẽ phải tự thanh toán. Thủ tục tham gia bảo
hiểm được thực hiện ở các ủy ban hành chính thành phố hay thị trấn nơi
bạn cư trú, tiền đóng bảo hiểm trả theo hàng tháng. Mỗi khu vực phí bảo
hiểm không giống nhau
* Việt Nam
Ở Việt Nam, ngay từ thời thuộc địa đã có vài chế độ BHXH cho
công nhân lao động và từ những năm 1918 ở nước ta thực hiện chế độ
BHXH cho công nhân bị tàn tật. Sau đó. do tình hình chiến tranh và phải
tập trung cho khôi phục đất nuớc mà mãi đến ngày 15/08/1992 BHYT Việt
Nam mới chính thức được thành lập theo Nghị định số 299 của Hội Đồng
Bộ Trưởng. Trước đây, ở nước ta trong thời kỳ bao cấp BHXH (trong đó
bao gồm BHYT) nằm trong sự bao cấp hoàn toàn của Nhà nước và lồng
vào chế độ tiền lương, do đó việc thu và chi nguồn quỹ bảo hiểm đều do
Trung ương chỉ định.
Trong những năm tiếp theo sau đó. Nhà nước đã thực hiện xóa bỏ
bao cấp trong quản lý kinh tế và thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần.Do
sự thay đổi này mà nền kinh tế Việt Nam đã có sự cải thiện ở nhiều mặt, đã
đẩy mạnh việc phát triển công tác BHYT. Nhờ thế dù còn non rất trẻ nhưng
BHYT Việt Nam đã phát triển khá vững mạnh và đã tạo được niềm tin
trong nhân nhân. Năm 1993, chính sách BHYT ra đời.Theo đó tất cả các
công nhân viên chức nhà nước bắt buộc phải đóng BHYT. Tuy nhiên, trong
11
dân số nói chung, số người tự nguyện mua BHYT còn khá thấp. Một năm
sau khi chính sách BHYT ra đời, chỉ 1% dân số mua bảo hiểm; đến năm
1997, con số này là 5,5%; Nói cách khác, có ít nhất 85% dân số không có
BHYT. Điều này không ngạc nhiên, vì thu nhập của phần lớn nông dân
thời đó vẫn còn thấp (trung bình mỗi ngày khoảng 25.000-40.000 đồng), do
đó đối với họ, BHYT vẫn là một nhu cầu xa xỉ.
Tháng 11/2012, Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo về kết quả
giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế giai đoạn
2009-2012 trướcQuốc hội.
Kết quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế giai
đoạn 2009-2012 khẳng định chặng đường 20 năm thực hiện chính sách
pháp luật về bảo hiểm y tế, nhất là sau gần bốn năm thực hiện Luật Bảo
hiểm y tế, Việt Nam đã đạt được kết quả bước đầu quan trọng về bảo hiểm
y tế, khẳng định chủ trương, quan điểm đúng đắn, nhất quán của Đảng, Nhà
nước về chính sách bảo hiểm y tế
Việt Nam đang từng bước tiếp cận với mục tiêu bảo hiểm y tế toàn
dân, góp phần thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển kinh tế và bảo
đảm chính sách an sinh xã hội phù hợp xu thế chung của thế giới.
Với định hướng đúng và sự nỗ lực của Nhà nước, các cấp, các
ngành, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đã tăng nhanh. Người tham gia
bảo hiểm được hưởng dịch vụ khám chữa bệnh, kỹ thuật y tế hiện đại, chất
lượng hơn, được cung ứng thuốc khám chữa bệnh, kể cả thuốc mới, hiệu
quả giúp hàng triệu lượt người vượt qua ốm đau và các căn bệnh mãn tính,
nan y, hiểm nghèo.
Quỹ bảo hiểm y tế đang dần trở thành nguồn tài chính cơ bản phục
vụ cho hoạt động của các bệnh viện, góp phần giảm mức chi trả từ tiền túi
của người bệnh cho công tác chăm sóc sức khỏe.
12
Chính sách bảo hiểm y tế Việt Nam đã bảo đảm nguyên tắc chia sẻ
rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế, đồng thời cũng đảm nhận
nhiều chính sách phúc lợi xã hội khác.
Đến cuối năm 2012, gần 70% dân số cả nước đã tham gia bảo hiểm y
tế, với phần đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và
người dân chiếm khoảng 58% trong tổng thu bảo hiểm y tế, tạo nền móng
quan trọng để tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
1.1.2. Mục Tiêu của BHYT
BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện
nhằm huy động sự đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động,
các tổ chức và cá nhân để thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có
thẻ BHYT khi ốm đau. BHYT do Nhà nước tổ chức thực hiện mang tính
chất xã hội, không vì mục tiêu lợi nhuận, hướng tới mục tiêu công bằng,
hiệu quả trong khám chữa bệnh và toàn dân tham gia.
1.1.2.1. Các hình thức BHYT
* Đối tượng BHYT bắt buộc
* Đối tượng BHYT tự nguyện
1.1.2.2. Thẻ BHYT :
Cấp cho người tham gia BHYT BHXH Việt nam quản lý và phát
hành thẻ Thẻ có giá trị sử dụng ngay và liên tục khi đóng BHYT đúng quy
định.Thẻ BHYT tự nguyện có giá trị sử dụng 30 ngày kể từ ngày đóng
BHYT lần đầu hoặc tiếp tục đóng sau một thời gian gián đoạn.
Thẻ không có giá trị sử dụng khi đã hết hạn sử dụng, không do cơ
quan có thẩm quyền ban hành, người trong thẻ đã chết, thẻ bị tẩy, xóa, …
Người có thẻ BHYT có quyền : khám chữa bệnh theo chế độ BHYT,
chọn cơ sở khám chữa bệnh ban đầu, được thay đổi nơi khám chữa bệnh
ban đầu vào cuối mỗi quý ; yêu cầu cơ quan BHXH và cơ sở khám chữa
13
bệnh bảo đảm quyền lợi theo quy định ; khiếu nại, tố cáo khi phát hiện
hành vi vi phạm Điều lệ BHYT.
Người có thẻ BHYT có trách nhiệm :
Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn ; xuất trình thẻ khi đếm khám
chữa bệnh ; không cho người khác mượn thẻ ; chấp hành quy định của tổ
chức BHXH và cơ sở khám chữa bệnh.
Quyền và trách nhiệm của cơ sở khám chữa bệnh BHYT:
Cơ sở khám chữa bệnh có quyền : yêu cầu tổ chức BHXH tạm ứng
và thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo quy định ; khám chữa bệnh theo
đúng chuyên môn ; sử dụng nguồn kinh phí theo quy định ; khiếu nại khi
phát hiện hành vi vi phạm Điều lệ BHYT.
Cơ sở khám chữa bệnh có trách nhiệm: thực hiện đúng hợp đồng
khám chữa bệnh BHYT; ghi chép, lập, cung cấp tài liệu liên quan đến
khám BHYT; khám chữa bệnh an toàn, hợp lý; kiểm tra thẻ BHYT; quản
lý và sử dụng nguồn kinh phí đúng quy định; thực hiện các quy định về
chế độ thống kê, báo cáo hoạt động chuyên môn, tài chính liên quan đến
BHYT.
Quyền lợi của người có thẻ BHYT:
Người có thẻ BHYT còn giá trị sử dụng khi khám chữa bệnh ngoại
trú và nội trú ở các cơ sở khám chữa bệnh công lập và ngoài công lập có
hợp đồng với cơ quan BHXH về khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT
được hưởng quyền lợi : Khám bệnh. chẩn đoán, điều trị và phục hồi chức
năng (theo danh mục quy định của Bộ Y tế) trong thời gian điều trị tại cơ
sở khám chữa bệnh. Xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thăm dò chức năng
Thuốc, dịch truyền trong danh mục theo quy định của Bộ Y tế Máu và các
chế phẩm của máu Các phẫu thuật, thủ thuật Khám thai và sinh đẻ Sử dụng
vật tư, thiết bị y tế và giường bệnh Chi phí vận chuyển trong trường hợp
phải chuyển tuyến chuyên môn kỹ thuật theo quy định của Bộ Y tế.
14
Người có thẻ BHYT khi khám chữa bệnh tại cơ sở đăng ký khám
chữa bệnh ban đầu và cơ sở khám chữa bệnh BHYT khác theo giới thiệu
chuyển viện phù hợp với tuyến chuyên môn kỹ thuật theo quy định của Bộ
Y tế hoặc trong những trường hợp cấp cứu tại cơ sở khám chữa bệnh
BHYT, được cơ quan BHXH thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo giá
viện phí hiện hành của Nhà nước.
Người có thẻ BHYT khi sử dụng dịch vụ kỹ thuật cao chi phí lớn :
Được quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí của dịch vụ kỹ thuật cao có mức
phí dưới 7.000.000 đồng (bảy triệu) Đối với dịch vụ kỹ thuật cao có mức
phí từ 7.000.000 đồng (bảy triệu) trở lên dược thanh toán như sau : Quỹ
BHYT thanh toán 100% chi phí của dịch vụ đối với đối tượng là người hoạt
động cách mạng trước 8/1945. Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh,
bệnh binh, người mất sức lao động từ 81% trở lên, người có tuổi từ 90 trở
lên. Đối với người có công với cách mạng đang hưởng trợ cấp hàng tháng,
người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học do
Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam đang hưởng trợ cấp hàng tháng,
người cao tuổi tàn tật không nơi nương tựa, người đang hưởng lương hưu,
hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng và các đối tượng bảo trợ xã hội được
hưởng trợ cấp hàng tháng, người được hưởng chế độ khám chữa bệnh cho
người nghèo :
Quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí của dịch vụ nhưng tối đa không
quá 20.000.000 đồng cho một lần sử dụng dịch vụ đó.
Các đối tượng còn lại : Quỹ BHYT thanh toán 60% chi phí nhưng mức
thanh toán tối đa không quá 20.000.000 đồng cho một lần sử dụng dịch vụ
đó, phần còn lại do người bệnh tự thanh toán cho cơ sở khám chữa bệnh.
Trường hợp 60% chi phí thấp hơn 7.000.000 đồng (bảy triệu) đồng
quỹ BHYT thanh toán bằng 7.000.000 đồng (bảy triệu).
15
Bộ Y tế ban hành Danh mục dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn sau khi
thống nhất với Bộ Tài chính để cơ quan BHXH có căn cứ thanh toán với
các cơ sở khám chữa bệnh. Chi phí vận chuyển người bệnh theo quy định
được thanh toán như sau :
Trường hợp vận chuyển người bệnh bằng phương tiện của cơ sở
khám chữa bệnh, cơ quan BHXH sẽ thanh toán chi phí vận chuyển cho cơ
sở khám chữa bệnh với mức thanh toán không quá 0,2 lít xăng/km vận
chuyển (cho cả lượt đi và về) theo giá hiện hành tại thời điểm sử dụng. Nếu
có nhiều hơn một người bệnh cùng được
1.1.3. Quyền và trách nhiệm của người tham gia BHYT
Quyền của người tham gia BHYT
1. Được cấp thẻ bảo hiểm y tế khi đóng bảo hiểm y tế.
2. Lựa chọn cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu theo
quy định tại khoản 1 Điều 26 của Luật này.
3. Được khám bệnh, chữa bệnh.
4. Được tổ chức bảo hiểm y tế thanh toán chi phí khám bệnh, chữa
bệnh theo chế độ bảo hiểm y tế.
5. Yêu cầu tổ chức bảo hiểm y tế, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế và cơ quan liên quan giải thích, cung cấp thông tin về
chế độ bảo hiểm y tế.
6. Khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về bảo hiểm y tế.
Nghĩa vụ của người tham gia bảo hiểm y tế
1. Đóng bảo hiểm y tế đầy đủ, đúng thời hạn.
2. Sử dụng thẻ bảo hiểm y tế đúng mục đích, không cho người khác
mượn thẻ bảo hiểm y tế.
3. Thực hiện các quy định tại Điều 28 của Luật này khi đến khám
bệnh, chữa bệnh.
16
4. Chấp hành các quy định và hướng dẫn của tổ chức bảo hiểm y tế,
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khi đến khám bệnh, chữa bệnh.
5. Thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh ngoài phần chi phí do quỹ bảo hiểm y tế chi trả.
1.2. Quy chế kê đơn thuốc ngoại trú
1.2.1 Sự hình thành của Quy chế
Thập niên những năm 90, trước thực tế sử dụng thuốc không hợp lý
và an toàn của người bệnh dẫn đến những tác hại cho sức khỏe, việc ban
hành tạm thời Quy chế kê đơn và bán thuốc theo đơn theo quyết định số
488/QĐ-BYT ra ngày 03/04/1995 là một việc cấp thiết và phù hợp với
hoàn cảnh nước ta khi đó.
Quy chế này được ban hành với mục đích:
1. Góp phần bảo đảm việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý và đạt hiệu
quả phòng và chữa bệnh cao, đồng thời ngăn chặn việc người
bệnh tự dùng một số thuốc cần phải có chỉ định của bác sĩ, dẫn
đến những tác hại cho sức khỏe.
2. Xác định trách nhiệm của bác sĩ trong việc khám bệnh, kê đơn và
trách nhiệm của dược sĩ trong việc cung ứng thuốc.
3. Chấn chỉnh việc kê đơn, cung ứng thuốc chưa hợp lý hiện nay,
thực hiện các công ước và thông lệ quốc tế về kê đơn và cung ứng
thuốc cho người dùng.
Sau một thời gian thực hiện Quy chế kê đơn và bán thuốc theo đơn
tạm thời cúng với sự xuất hiện ngày càng phong phú, đa dạng các loại
thuốc mới. Kèm theo đó là những lợi nhuận “hoa hồng” không nhỏ từ phía
các công ty, các hãng dược phẩm dành cho bác sĩ đã tác động rất lớn đến
đến việc kê đơn của bác sĩ và sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống y tế càng
làm cho việc quản lý kê đơn và sử dụng đã khó khăn nay càng trở nên khó
khăn hơn. Chính vì vậy, Bộ y tế đã chính thức ban hành Quy chế kê đơn và
17
bán thuốc theo đơn lần đầu tiên kèm theo quyết định số 1847/2003/QĐ-
BYT ngày 28/05/2003 nhằm chấn chỉnh lại việc kê đơn, cung ứng thuốc
trong giai đoạn này.
Để quy chế kê đơn ngày càng hoàn thiện và thích ứng được điều kiện
kinh tế, chính trị,văn hóa, xã hội của Việt Nam trong thời kỳ CNH – HĐH
ngày 01/02/2008 Bộ trưởng Bộ y tế ra quyết định số 04/2008/QĐ-BYT,
ban hành Quy chế kê đơn thuốc ngoại trú, bãi bỏ Quy chế kê đơn và bán
thuốc theo đơn năm 2003. Theo quy chế mới, trước mắt các bác sĩ phải kê
đơn và bán thuốc theo danh mục 30 nhóm thuốc. Đối với nhóm thuốc có
tính chất gây nghiện, người kê đơn còn phải theo đúng các quy định như:
đầu tên thuốc phải viết hoa, thêm số 0 ở trước số lượng thuốc… Riêng các
thực phẩm chức năng vì không được coi là thuốc do đó sẽ không được ghi
các sản phẩm này trong toa thuốc.
Lý do ra đời quy chế mới là do Quy chế kê đơn năm 2003 có nhiều
điều chưa phù hợp, đặc biệt là về việc quản lý nhóm thuốc Opioids. Theo
hướng dẫn của WHO thì cần phải tiến tới cân bằng trong chính sách quốc
gia về kiểm soát Opioids, nghĩa là phải làm sao để đảm bảo sự sẵn có
Opioids dùng cho mục đích y tế. Chính vì vậy Quy chế kê đơn năm 2008
đã có quy định cụ thể về kê đơn opioids giúp cho người bệnh ung thư và
HIV/AIDS có thể dễ dàng tiếp cận với thuốc Opioids và làm giảm bớt tình
trạng e ngại khi kê đơn Opioids của bác sĩ.
Quy chế thuốc trong điều trị ngoại trú mới ban hành của Bộ y tế đã
có nhiều thay đổi và bổ sung thêm nhằm mục đích đảm bảo sự an toàn và
quyền lợi của người bệnh
1.2.2. Nội dung chính của Quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngọai trú
Đơn thuốc là tài liệu chỉ định dùng thuốc của bác sĩ cho người bệnh,
là cơ sở pháp lý cho việc chỉ định dùng thuốc, bán thuốc và cấp thuốc theo
đơn. Bác sĩ có thể chỉ định điều trị cho người bệnh vào đơn thuốc( theo
18
mẫu quy định của Bộ y tế) hoặc sổ y bạ, sổ điều trị bệnh mãn tính gọi
chung là đơn thuốc.
Đơn thuốc là một chỉ định của người thầy thuốc đối với bệnh nhân,
nhằm giúp họ có được những thứ thuốc theo đúng phác đồ điều trị.
Đơn thuốc là tổng hợp các loại thuốc, bao gồm cả thuốc bắt buộc phải
bán theo đơn và những thuốc có thể mua tự do. Đó là một “y lệnh” hướng dẫn
cho các bệnh nhân cần uống, bôi, thoa, phun, dán hay tiêm truyền. Đơn thuốc
liệt kê tên thuốc, số lượng, liều lượng, số lần dùng thuốc trong ngày, thời điểm
dùng thuốc (trước, trong hay sau bữa ăn). Một đơn thuốc được xem là chuẩn
phải đạt được các yêu cầu: hiệu quả chữa bệnh cao, an toàn trong dùng thuốc
và tiết kiệm.
1.2.2.1. Nội dung của một đơn thuốc
Trên thế giới không có một tiêu chuẩn thống nhất nào về kê đơn
thuốc và mỗi quốc gia có quy định riêng phù hợp với điều kiện của đất
nước mình. Tuy nhiên, yêu cầu quan trọng nhất đó là đơn thuốc phải rõ
ràng. Đơn thuốc phải hợp lệ và chỉ định chính xác thuốc phải sử dụng.
Theo khuyến cáo của WHO thì một đơn thuốc đầy đủ bao gồm các nội
dung sau:
1. Tên, địa chỉ của người kê đơn, số điện thoại (nếu có).
2. Ngày, tháng kê đơn.
3. Tên gốc của thuốc, hàm lượng.
4. Dạng thuốc, tổng lượng thuốc.
5. Hướng dẫn sử dụng, cảnh báo.
6. Tên, địa chỉ, tuổi của bệnh nhân.
7. Chữ kí của người kê đơn.
1.2.2.2. Điều kiện của người kê đơn thuốc
Theo điều 3 của Quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú do
BYT Việt Nam ban hành năm 2008 quy định của người kê đơn như sau:
19
Đang hành nghề tại cơ sở khám, chữa bệnh hợp pháp có bằng tốt
nghiệp Đại học Y và được người đứng đầu cơ sở phân công
khám, chữa bệnh.
Đối với các tỉnh có vùng núi, vùng sâu, vùng cao, hải đảo xa xôi,
vùng khó khăn và những nơi chưa có bác sĩ, Sở Y Tế có văn bản
ủy quyền cho Trưởng phòng Y tế huyện chỉ định y sĩ của Trạm y
tế thay thế cho phù hợp với tình hình địa phương.
1.2.2.3 Quy định về ghi đơn thuốc
Theo điều 7 của quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú được
ban hành kèm theo quyết định số 04/2008/QĐ – BYT ngày 01/02/2008 quy
định về ghi đơn thuốc như sau:
1. Kê đơn thuốc vào mẫu đơn, mẫu sổ quy định kèm theo Quy chế
2. Ghi đủ các mục in trong đơn, chữ viết rõ ràng, dễ đọc, chính
xác.
3. Địa chỉ người bệnh phải ghi chính xác số nhà, đường phố, hoặc
thôn, xã.
4. Với trẻ em dưới 72 tháng tuổi: ghi số tháng tuổi và ghi tên bố
hoặc mẹ.
5. Viết tên thuốc theo tên chung quốc tế ( INN, generic name) hoặc
nếu ghi tên biệt dược phải ghi tên quốc tế trong ngoặc đơn ( trừ
trường hợp thuốc có nhiều hoạt chất).
6. Ghi tên thuốc, hàm lượng, số lượng, liều dùng, cách dùng của mỗi
thuốc.
7. Số lượng thuốc gây nghiện phải viết bằng chữ, chữ đầu viết hoa.
8. Số lượng thuốc hướng tâm thần và tiền chất dùng làm thuốc viết
thêm số 0 phía trước nếu số lượng chỉ có một chữ số.
9. Nếu có sửa chữa đơn phải ký, ghi rõ họ tên, ngày bên cạnh.
20
10. Gạch chéo phần đơn còn giấy trắng. Ký, ghi (hoặc đóng dấu) họ
tên người kê đơn.
1.3. Về kê đơn tốt
Kê đơn là mệnh lệnh, nhật ký ghi lại việc điều trị.
Kê đơn tốt là sự chỉ định thuốc cho điều trị dựa vào quá trình suy
luận logic trên những thông tin chính xác và khách quan. Kê đơn tốt phải
đảm bảo sự cân bằng giữa các yếu tố hợp lý, an toàn, hiệu quả, kinh tế và
tôn trọng sự lựa chọn của bệnh nhân.
1.3.1. Đơn thuốc tốt
Một đơn thuốc tốt phải đáp ứng đầy đủ các thông tin tiêu chuẩn yêu
cầu cho một đơn thuốc gồm có:
Nội dung của một đơn thuốc.
Cách ghi nội dung một đơn thuốc và cách bố trí các mục ghi trong
đơn theo quy định của từng quốc gia.
1.3.1.1. Những yêu cầu về kê đơn tốt
Theo hướng dẫn thực hành kê đơn thuốc tốt của WHO để thực hiện
được quá trình kê đơn thuốc tốt người thầy thuốc cần phải tuân theo quá
trình thực hiện kê đơn, điều trị hợp lý gồm 6 bước như sau:
Bước 1: Xác định vấn đề bệnh lýcủa bệnh nhân. Quá trình này
cần được thực hiện một cách thận trọng dựa trên sự quan sát kỹ
lưỡng của bác sĩ, mô tả bệnh của bản thân bệnh nhân, tiền sử
bệnh, X quang, kết quả xét nghiệm và các nghiên cứu khác.
Bước 2: Xác định mục tiêu điều trị. Việc xác định mục tiêu điều
trị giúp người thầy thuốc tránh được việc sử dụng nhiều thuốc
không cần thiết, tập trung vào vấn đề.
Bước 3: Xác định phương pháp điều trị đã được chứng minh hiệu
quả, an toàn, kinh tế và phù hợp với bệnh nhân nhất trong số các
phương án điều trị khác nhau, kể cả phương án không dùng thuốc.
21
Thẩm định lại sự phù hợp của thuốc đã lựa chọn cho bệnh nhân.
Sự phù hợp được đánh giá trên 3 khía cạnh:
- Sự phù hợp giữa tác dụng và dạng dùng của thuốc với bệnh
nhân.
- Sự phù hợp của liều dùng hàng ngày.
- Sự phù hợp của quá trình điều trị.
Đối với mỗi khía cạnh cần phải điều tra mục đích điều trị, hiệu quả (chỉ
định và sự liên quan đến liều dùng) và an toàn (chống chỉ định, tương tác
thuốc, nhóm thuốc có nguy cơ cao) có được đảm bảo.
Bước 4: Bắt đầu điều trị. Cần đưa ra những chỉ dẫn cho bệnh
nhân. Ví dụ như viết một đơn thuốc rõ ràng cẩn thận, ngắn gọn
nhưng dễ hiểu cho bệnh nhân.
Bước 5: Cung cấp thông tin, hướng dẫn sử dụng và cảnh báo cho
bệnh nhân. Cần phải cung cấp cho bệnh nhân ít nhất những thông
tin sau: Các tác dụng của thuốc; Các tác dụng phụ; Hướng dẫn sử
dụng (cách dùng, thời gian sử dụng, bảo quản…); cảnh báo (nên
hay không nên dùng khi nào, liều tối đa, thời gian điều trị đầy
đủ); hẹn gặp lần tới, xác minh mọi thông tin có rõ ràng đối với
bệnh nhân.
Bước 6: Giám sát điều trị. Nếu như bệnh được chữa khỏi thì
ngừng quá trình điều trị, hoặc nếu phương pháp điều trị này có
hiệu quả nhưng bệnh vẫn chưa khỏi hẳn thì cần xem lại có tác
dụng phụ nào nghiêm trọng hay không. Nếu có thì cân nhắc lại
liều dùng hay chọn thuốc khác. Trường hợp bệnh không được
chữa khỏi thì phải nghiên cứu lại tất cả các bước trên.
1.4. Một vài nét ở cơ sở nghiên cứu
Bệnh xá lục quân 2 là cơ sở khám chữa bệnh quân dân y kết hợp
trong khu vực địa bàn đóng quân của Trường sĩ quan lục quân 2, bao gồm
22
giường bệnh, đội ngũ cán bộ có trình độ kĩ thuật được tổ chức thành các
khoa, phòng với trang thiết bị cơ sở hạ tầng thích hợp để thực hiện việc
chăm sóc, nuôi dưỡng cung cấp các dịch vụ y tế cho các cán bộ, công nhân
viên, học viên tại nhà trường và nhân dân quanh khu vực.
1.5. Một số văn bản pháp quy trong lĩnh vực dược liên quan đến vấn
đề kê đơn thuốc
Quy chế kê đơn thuốc trong điều trị ngoại trú ban hành kèm theo
quyết định số 04/2008/QĐ – BYT ngày 01/02/2008.
Danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại cơ sở khám chữa bệnh ban
hành kèm theo quyết định số 05/2008/QĐ – BYT ban hành ngày
01/02/2013
CN
PHÒNG HẬU CẦN
BAN QUÂN Y
BỆNH XÁ
BAN CHỨC
BAN TÀI CHÍNH
KẾ HOACH
HẬU CẦN
BAN C.TRỊ
KHỐI LS
KHOA KHAM
KHOA HỒI SỨC
KHOA NỘI
KHOA NGOẠI
KHỐI CẬN LS
K. XÉT NGHIỆM
K. CHẨN ĐOÁN H. ẢNH
K. PHỤC HỒI CHỨC NĂNG
KHOA DƯỢC
23
Danh mục thuốc sử dụng tại các cơ sở khám chữa bệnh được
Quỹ BHYT thanh toán. Bộ Y Tế ban hành thông tư 31/2011/TT-
BYT hướng dẫn Ngày 11/07/2011