Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

người bào chữa trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.42 KB, 15 trang )

Luật Tố tụng hình sự Nguyễn Thanh Mai – KT33F-055
MỤC LỤC
A.Mở đầu...................................................................................................................1
B.Nội dung.................................................................................................................2
I.Vấn đề chung về người bào chữa trong tố tụng hình sự............................2
I.1.Khái niệm người bào chữa.....................................................................................................................2
I.2.Phân loại người bào chữa......................................................................................................................3
II.Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của người
bào chữa............................................................................................................5
II.1.Những quy định của luật TTHS về quyền của người bào chữa............................................................5
II.2.Những quy định của luật TTHS về nghĩa vụ của người bào chữa........................................................9
III.Thực trạng thực hiện những quy định của pháp luật và giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố
tụng hình sự....................................................................................................10
III.1.Thực trạng..........................................................................................................................................10
III.2.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng
hình sự......................................................................................................................................................13
C.Kết luận................................................................................................................15
BÀI LÀM
A.Mở đầu.
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Nhà nước ta luôn luôn coi trọng và đặt lên hàng đầu việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân khi tham gia tố tụng hình sự (TTHS). Đặc biệt, khi tham gia
TTHS với tư cách là người bị tam giữ, bị can, bị cáo, những đối tượng chịu ảnh
hưởng trực tiếp của pháp luật TTHS, liên quan rất lớn đến tính mạng, sức khỏe và
sự tự do của họ. Do đó, để bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo, pháp luật TTHS Việt Nam có quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
Bài tập học kỳ Trang 1
Luật Tố tụng hình sự Nguyễn Thanh Mai – KT33F-055
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một trong những nguyên tắc đặc thù của
TTHS Việt Nam


1
. Những quy định về quyền bào chữa đã hình thành một chế định
pháp lý về người bào chữa và địa vị pháp lý của người bào chữa. Với vai trò là
người bào chữa, họ sẽ tạo nên thế cân bằng với bên buộc tội trong TTHS, góp phần
bảo đảm khách quan và tránh oan sau trong quá trình giải quyết các vụ án.
B.Nội dung.
I. Vấn đề chung về người bào chữa trong tố tụng hình sự.
I.1. Khái niệm người bào chữa.
Theo một số tác giả, cùng với sự xuất hiện của Tòa án, người bào chữa xuất
hiện rất lâu từ khi bắt đầu có sự thừa nhận quyền bào chữa của những người bị đưa
ra xét xử. Tuy nhiên cho đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa có một định nghĩa thống
nhất cũng như không nêu khái niệm thế nào là người bào chữa trong TTHS.
Trong khoa học pháp lý và thực tiễn hiện tố tụng có những cách hiểu khác
nhau về người bào chữa. Có quan điểm cho rằng “Người bào chữa là người giúp đỡ
Tòa án trong việc xác định tất cả các tình tiết cần thiết của vụ án để cuối cùng Tòa
án ra một bản án có căn cứ và đúng pháp luật”
2
. Với cách hiểu trên là không chính
xác, người bào chữa là người tham gia tố tụng không có quyền và lợi ích liên quan
đến vụ án. Họ tham gia tố tụng là nhằm để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp
cho người bị buộc tội. Người bào chữa không phải là người tiến hành tố tụng mà chỉ
là người tham gia tố tụng. Người tham gia tố tụng chỉ là người góp phần hoạt động
của mình và hoạt động chung, do những chủ thể khác chủ động và chính thức tiến
hành. Hơn nữa, người bào chữa không phải là người được nhân danh quyền lực nhà
nước và không được sử dụng quyền lực nhà nước như những người tiến hành tố
tụng. Họ tham gia tố tụng chủ yếu để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Cơ sở cho sự hiện diện của họ trong TTHS xuất
1
Xem Điều 11 – Bộ luật TTHS năm 2003
2

Xem M.Chen – Txôp M.A, Luật sư trong tố tụng hình sự Xô Viết
Bài tập học kỳ Trang 2
Luật Tố tụng hình sự Nguyễn Thanh Mai – KT33F-055
phát từ hợp đồng bào chữa giữa họ với người bị buộc tội (hoặc với người đại diễn
hợp pháp của người bị buộc tội) và phải được sự chấp thuận của cơ quan tiến hành
tố tụng.
Mặc dù hiện nay, ở nước ta vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về người
bào chữa, nhưng căn cứ theo cách hiểu và một số định nghĩa được các học giả
nghiên cứu chuyên sâu trong lĩnh vực này đưa ra, chúng ta có thể tựu chung lại
“Người bào chữa là người tham gia tố tụng để bênh vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo. Nếu hiểu theo một nghĩa rộng hơn thì Người bào chữa là
người dùng lý lẽ và chứng cớ để bênh vực cho một đương sự nào đó thuộc một vụ án
hình sự hay dân sự, hoặc cho việc bào chữa cho đương sự đó đang bị lên án.”
3

I.2. Phân loại người bào chữa
Hệ thống quy định của BLTTHS năm 2003 chỉ tập trung quy định về chủ thể,
quyền và nghĩa vụ, lựa chọn và thay đổi người bào chữa trong TTHS. Theo đó tại
Khoản 1 - Điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định, người bào chữa có thể là: luật sư,
người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân
dân.
- Luật sư: Là người đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật, tham gia
tố tụng theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức đó theo quy định của pháp luật. Hoạt động bào chữa của Luật
sư là hoạt động có tính chất chuyên nghiệp
4
. Theo quy định của Luật luật sư 2006
thì luật sư phải đáp ứng được các yêu cầu “Là công dân Việt Nam trung thành với
Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử
nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư,

có sức khoẻ bảo đảm”
5
, khi muốn hành nghề luật sư thì phải “có Chứng chỉ hành
nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư”
6

3
Từ điển luật học
4
Giáo trình Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2006, tr.136
5
Xem Điều 10 – Luật Luật sư 2006
6
Xem Điều 11 – Luật luật sư 2006.
Bài tập học kỳ Trang 3
Luật Tố tụng hình sự Nguyễn Thanh Mai – KT33F-055
Luật sư có thể tham gia TTHS với tư cách người bào chữa theo hợp đồng
dịch vụ pháp lý hoặc theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng.
- Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo: Bộ luật TTHS năm
2003 không quy định rõ khái niệm “người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, căn cứ theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005, chúng ta
có thể hiểu Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là cha mẹ
hoặc người giám hộ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa thành niên hoặc người
có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần.
7

- Bào chữa viên nhân dân: theo quy định tại Khoản 3 – Điều 57 – Bộ luậtt TTHS
năm 2003, ta có thể hiểu bào chữa viên nhân dân là người được Ủy ban mặt trận tổ
quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt trận tổ quốc cử để bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người của tổ chức mình.

Về mặt pháp lý, bào chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một chủ thể tư pháp có tư cách của người bào
chữa trong tố tụng hình sự. Nhưng trong thực tiễn tố tụng hình sự ở Việt Nam, việc
xem xét thủ tục chứng nhận tư cách người bào chữa, các nguyên tắc, phạm vi tham
gia tố tụng lại chưa được hướng dẫn và quy định chi tiết, dẫn đến các cơ quan tiến
hành tố tụng các cấp gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của họ. Đồng thời, với chất lượng hành nghề của phần đông Bào
chữa viên nhân dân và Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
không cao, gặp rất nhiều cản ngại, vướng mắc do không được đào tạo chuyên sâu
về các kỹ năng hành nghề trong tranh tụng vụ án hình sự, không được tập sự trong
các tổ chức hành nghề luật sư chuyên nghiệp nên trong thực tiễn đây là loại chủ thể
rất ít khi tham gia bào chữa trong TTHS.
7
Giáo trình trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb CAND, 2006, tr.136.
Bài tập học kỳ Trang 4
Luật Tố tụng hình sự Nguyễn Thanh Mai – KT33F-055
II. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của
người bào chữa.
II.1. Những quy định của luật TTHS về quyền của người bào chữa.
Hiện nay, BLTTHS năm 2003 đã quy định quyền của người bảo chữa một
cách khá chi tiết và chặt chẽ so với các quy định của pháp luật trước đây. Điều này
đã khiến cho quyền lợi của người bào chữa được mở rộng và đảm bảo tốt hơn trong
quá trình tố tụng hình sự. Khoản 2 điều 58 BLTTHS 2003 đã quy định một cách
khá chi tiết các quyền mà người bào chữa khi tham gia tố tụng có được:
a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra
viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động
điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các
quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa;
Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện đúng chức
năng của mình là làm sáng tỏ những tình tiết gỡ tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự cho bị can, bị cáo; góp phần đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng
người, đúng tội. Việc người bào chữa được có quyền có mặt trong các hoạt động
điều tra có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lí hơn, hạn chế tình trạng do quá sợ hãi
hoặc thiếu hiểu biết, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sẽ khai không đúng thực tế vụ
án, đồng thời sự tham gia của người bào chữa trong hoạt động lấy lời khai sẽ khiến
những người tiến hành các hoạt động tố tụng thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn.
Người bào chữa có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu được sự đồng ý của
điều tra viên để làm sáng tỏ những tình tiết bất lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Đây
là quy định thể hiện sự công bằng của pháp luật, tuy nhiên quy định như vậy đôi khi
cũng dẫn đến tình trạng người bào chữa không được thực hiện quyền này vì quyết
định cho phép hỏi hay không hoàn toàn phụ thuộc vào ý chỉ của điều tra viên. Khi
tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham
gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa, nếu
Bài tập học kỳ Trang 5
Luật Tố tụng hình sự Nguyễn Thanh Mai – KT33F-055
phát hiện những vi phạm pháp luật, người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan
có thẩm quyền.
b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để
có mặt khi hỏi cung bị can;
Địa điểm và thời gian hỏi cung thuộc quyền hạn, trách nhiêm của cơ quan
điều tra, chính vì vậy, quy định trên nhằm đảm bảo sự chủ động cần thiết cho người
bào chữa trong việc có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này;
Nhằm bảo đảm sự khách quan của quá trình giải quyết vụ án, Điều 42 – Bộ
luật TTHS 2003 có quy định về những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người
tiến hành tố tụng. Người bào chữa là một trong những chủ thể có quyền thay đổi
người tiến hành tố tụng theo quy đinh tại Khoản 3 – Điều 43 – Bộ luật TTHS 2003.
Người bào chữa có quyền thay đổi người tiến hành tố tụng nếu xét thấy việc những

người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá
nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà
nước, bí mật công tác;
Muốn bào chữa tốt được cho thân chủ của mình người bào chữa không chỉ
dựa vào những chứng cứ, tài liệu từ phía cơ quan điều tra thu thập được, làm như
vậy sẽ bị ảnh hưởng của kết quả điều tra có thể sẽ không nắm bắt được tình tiết có
lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc sẽ có cái nhìn về vụ án theo hướng kết
luận của cơ quan điều tra. Chính vì vậy, pháp luật cho phép người bào chữa được tự
mình đi thu thập tài liệu, đồ vật, đây cũng có thể coi là quyền để phục vụ cho các
quyền khác của người bào chữa, ví dụ như quyền gặp bị can bị cáo, sau khi gặp và
có mặt trong khi hỏi cung, người bào chữa có thể biết thêm được những tình tiết
Bài tập học kỳ Trang 6

×