HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
NGUYỄN THỊ BÍCH THỦY
GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
GIẢM NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60340410
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ HÙNG PHƯƠNG
Hà Nội, tháng 4 năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc trích dẫn
rõ ràng
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Bích Thủy
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản
thân, tác giả đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên, hướng dẫn
và đóng góp ý kiến của quý thầy cô giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia
đình trong suốt khóa cao học và thời gian nghiên cứu đề tài.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Vũ Hùng
Phương, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tác giả trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện đề tài luận văn.
Tác giả cũng xin chân thành cảm ơn quý Thầy/ Cô Khoa Quản
lý Kinh tế Học viện Chính trị Khu vực I về những lời nhận xét, đóng
góp quý báu đối với bản luận văn.
Do thời gian và trình độ còn hạn hữu, nên bản luận văn này
không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Rất mong nhận
được sự góp ý chân tình của quý thầy cô và quý độc giả quan tâm đến
đề tài.
Tác giả xin chân thành cảm ơn!
TÁC GIẢ
Nguyễn Thị Bích Thủy
ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Nội dung
1 BCĐ Ban chỉ đạo
2 BHYT Bảo hiểm y tế
3 CSSK Chăm sóc sức khỏe
4 ĐBKK Đặc biệt khó khăn
5 GDP Tổng sản phẩm quốc nội
6 HDI Chỉ số phát triển con người
7 LĐTBXH Lao động - Thương binh và Xã hội
8 LHQ Liên Hiệp Quốc
9 MTQG Mục tiêu Quốc gia
10 MTTQ Mặt trận Tổ quốc
11 CSXH Chính sách Xã hội
12 KCB Khám chữa bệnh
13 KTXH Kinh tế - xã hội
14 QLNN Quản lý nhà nước
15 TGPL Trợ giúp pháp lý
16 UBND Ủy ban Nhân dân
17 WB Ngân hàng Thế giới (World Bank)
18 XĐGN Xóa đói giảm nghèo
19 XHCN Xã hội Chủ nghĩa
20 XKLĐ Xuất khẩu lao động
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT iii
MỤC LỤC iv
DANH MỤC BẢNG, BIỂU vi
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM 6
1.1. Giảm nghèo và sự cần thiết tăng cường quản lý nhà nước đối với
giảm nghèo 6
1.1.1. Quan niệm về nghèo và giảm nghèo 6
1.1.2. Chuẩn nghèo và các tiêu chí đánh giá 10
1.1.3. Quản lý Nhà nước đối với giảm nghèo 17
1.1.4. Sự cần thiết của quản lý Nhà nước đối với giảm nghèo 22
1.2. Nội dung cơ bản của quản lý nhà nước đối với giảm nghèo ở
Việt Nam 27
1.2.1. Chủ thể quản lý nhà nước đối với giảm nghèo ở Việt Nam 27
1.2.2. Nội dung quản lý nhà nước đối với giảm nghèo ở Việt Nam 29
1.3 Kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với xóa đói giảm nghèo tại
một số địa phương 33
1.3.1 Tỉnh Vĩnh Phúc 33
1.3.2 Tỉnh Tuyên Quang 34
1.3.3 Bài học kinh nghiệm về quản lý nhà nước đối với giảm nghèo
của huyện Đoan Hùng 35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ GIẢM NGHÈO
TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH PHÚ THỌ 37
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội tác động đến giảm nghèo ở
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ 37
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 37
iv
2.1.2. Điều kiện kinh tế 38
2.1.3. Điều kiện xã hội 40
2.2. Thực trạng nghèo trên địa bàn huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ 42
2.2.1. Tỷ lệ hộ nghèo 42
2.2.2. Đặc điểm về nghèo 46
2.2.3. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghèo trên
địa bàn huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ 47
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với giảm nghèo trên địa
bàn huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ 52
2.3.1. Hệ thống văn bản, chính sách 52
2.3.2. Tổ chức thực hiện chương trình giảm nghèo 57
2.3.3. Tổ chức kiểm tra, giám sát chương trình giảm nghèo 73
2.3.4. Đánh giá chung về quản lý nhà nước đối với giảm nghèo trên
địa bàn huyện Đoan Hùng 75
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
GIẢM
NGHÈO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐOAN HÙNG, TỈNH
PHÚ THỌ 80
3.1. Định hướng mục tiêu giảm nghèo bền vững của huyện Đoan Hùng,
tỉnh Phú Thọ đến năm 2020 80
3.2. Một số giải pháp quản lý nhà nước đối với giảm nghèo trên địa bàn
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ 82
3.2.1. Giải pháp ban hành văn bản, chính sách và tuyên truyền 82
3.2.2. Giải pháp về tổ chức thực hiện chương trình giảm nghèo 84
3.2.3. Giải pháp về kiểm tra, giám sát, đánh giá 93
3.2.4. Giải pháp nâng cao năng lực và tạo điều kiện cho cán bộ làm công
tác giảm nghèo 94
3.3. Kiến nghị 96
KẾT LUẬN 98
v
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
vi
DANH MỤC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1. Tỷ lệ hộ nghèo huyện Đoan Hùng giai đoạn 2010-2014 42
Bảng 2.2. Tỷ lệ hộ nghèo của huyện Đoan Hùng so với toàn tỉnh năm
2014 43
Bảng 2.3. Tỷ lệ hộ nghèo các xã, thị trấn huyện Đoan Hùng giai đoạn
2010 - 2014 44
Bảng 2.4. Tổng dư nợ các chương trình tín dụng năm 2014 65
Biểu đồ 2.1. Tỷ lệ trẻ đến lớp và phòng học kiên cố hóa của các bậc học
năm 2014 40
Biểu đồ 2.2. Nguyên nhân nghèo của các hộ gia đình huyện Đoan Hùng 49
Biểu đồ 2.3. Nguyện vọng của các hộ nghèo huyện Đoan Hùng 50
Biểu đồ 2.4: Đánh giá chất lượng QLNN đối với hoạt động giảm nghèo
huyện Đoan Hùng 73
Biểu đồ 2.5: Đánh giá thực trạng tổ chức kiểm tra, giám sát chương
trình.giảm nghèo huyện Đoan Hùng 75
Sơ đồ 1.1. Chủ thể hoạt động giảm nghèo ở Việt Nam 28
Sơ đồ 2.1. Mô hình cơ cấu tổ chức bộ máy chỉ đạo, tổ chức thực
hiện chương trình giảm nghèo huyện Đoan Hùng 57
vii
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong khi nền văn minh thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn về
tiến bộ khoa học - công nghệ, làm tăng đáng kể của cải vật chất cho xã hội, sự
giàu có cho con người, thì vẫn tồn tại sự nghèo đói tại nhiều nơi trên trái đất.
Đói nghèo diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức độ khác nhau và là
nỗi ám ảnh thường trực đối với loài người. Đói nghèo vẫn luôn luôn là một
vấn đề mang tính toàn cầu, xoá đói giảm nghèo (XĐGN) vì vậy trở thành một
trong 8 mục tiêu Thiên niên kỷ mà Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã đề ra, thu hút
sự quan tâm, nỗ lực giải quyết của cộng đồng quốc tế.
Đảng Cộng sản Việt Nam coi cơ sở phương pháp luận quan trọng và cơ
bản nhất để phân tích vấn đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng
con người khỏi mọi áp bức, bất công, thực hiện công bằng xã hội. Do đó, đối
với Việt Nam, XĐGN không đơn giản chỉ là một chính sách phục vụ cho mục
tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững mà nó còn gắn chặt với bản chất ưu việt của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Xóa đói giảm nghèo không chỉ có ý nghĩa về mặt
kinh tế, chính trị, xã hội mà còn có ý nghĩa nhân văn và văn hoá sâu sắc.
Trong những năm qua, công tác XĐGN của Việt Nam đã đạt được
những thành tựu to lớn. Thế giới đánh giá cao, coi Việt Nam là "một điểm
sáng thành công" trong XĐGN. Tuy nhiên, đói nghèo vẫn là một cản trở đối
với phát triển kinh tế, một thách thức đối với toàn Đảng, toàn dân. Bên cạnh
những kết quả đạt được, việc thực hiện Chương trình giảm nghèo bền vững
vẫn còn những hạn chế, cần tập trung khắc phục. Tỷ lệ giảm nghèo nhanh
nhưng chưa bền vững khoảng cách giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư
chưa được thu hẹp; nhiều cơ chế, chính sách ban hành còn chồng chéo dẫn
đến việc thực hiện phân bổ, hiệu quả sử dụng các nguồn lực chưa cao; nhiều
địa phương còn trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước mà chưa tự lực vươn lên thoát
nghèo; công tác tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức về giảm nghèo
chưa hiệu quả
1
Nằm trong xu thế chung và trước yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp phát
triển, Đoan Hùng - huyện miền núi nghèo của tỉnh Phú Thọ đã và đang chú
trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương đi đôi với việc thực hiện giảm
nghèo. Công tác giảm nghèo ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ đã đạt được
nhiều thành tựu đáng khích lệ. Trên địa bàn Huyện không còn trường hợp hộ
đói, tỉ lệ hộ nghèo đã giảm từ 20,34% năm 2010 xuống 9,7% năm 2014. Tuy
nhiên đây vẫn là tỷ lệ cao so với mặt bằng chung của tỉnh Phú Thọ nói riêng
và của các tỉnh khác trong cả nước nói chung.
Qua thực tế triển khai cho thấy thành công của chương trình giảm nghèo
phụ thuộc rất nhiều vào chính sách tác động thúc đẩy của nhà nước, của các
cấp chính quyền đối với hoạt động giảm nghèo. Đặc biệt đối với huyện Đoan
Hùng, tỉnh Phú Thọ, một tỉnh miền núi nghèo, việc tăng cường quản lý nhà
nước về giảm nghèo là một yêu cầu mang tính cấp thiết hiện nay.
Qua nghiên cứu, phân tích thực trạng quản lý nhà nước về hoạt động
giảm nghèo trên địa bàn huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, Tác giả lựa chọn đề
tài Luận văn “Giải pháp quản lý nhà nước đối với giảm nghèo trên địa bàn
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ” với mong muốn sẽ đóng góp một phần
nhỏ về mặt lý luận và thực tiễn trong việc thực hiện có hiệu quả công tác giảm
nghèo trên địa bàn huyện, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo một cách bền vững.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: phân tích một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước
(QLNN) đối với giảm nghèo và đánh giá thực trạng QLNN đối với giảm
nghèo ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ từ đó đề xuất một số giải pháp tăng
cường QLNN đối với hoạt động giảm nghèo ở huyện Đoan Hùng hiện nay.
- Nhiệm vụ
- Tổng quan cơ sở lý luận về QLNN đối với giảm nghèo ở Việt Nam
- Đánh giá thực trạng QLNN đối với giảm nghèo trên địa bàn huyện
Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
- Đề xuất một số giải pháp QLNN đối với giảm nghèo trên địa bàn huyện
Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu
Quản lý nhà nước đối với giảm nghèo ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
- Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng QLNN về giảm
nghèo của huyện Đoan Hùng trong thời gian từ năm 2010 đến nay từ đó đề
xuất một số giải pháp nâng cao hiệu lực QLNN đối với hoạt động giảm nghèo
ở huyện Đoan Hùng.
Về thời gian: giai đoạn 2010 - 2014, định hướng đến năm 2020
Về không gian: trong khuôn khổ luận văn, tác giả thực hiện các nghiên cứu
tại 10 xã thuộc huyện Đoan Hùng bao gồm: Chí Đám, Minh Tiến, Tây Cốc, Ca
Đình, Bằng Doãn, Quế Lâm, Yên Kiện, Đại Nghĩa, Sóc Đăng, Đông Khê
4. Phương pháp nghiên cứu
- Khung lý luận nghiên cứu
- Các bước nghiên cứu
Bước 1: Nghiên cứu một số nội dung lý thuyết cơ bản về giảm nghèo,
QLNN với giảm nghèo ở nước ta, xác định chủ thể và nội dung cơ bản của
QLNN về giảm nghèo từ đó để xây dựng khung lý thuyết đối với QLNN về
giảm nghèo ở huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Tác giả sử dụng phương pháp
tổng hợp, mô hình hóa.
Bước 2:
- Thu thập dữ liệu sơ cấp thông qua việc xây dựng mẫu phiếu điều tra,
3
Các yếu tố ảnh
hưởng
- Các yếu tố bên
trong
- Các yếu tố bên
ngoài
Nội dung
- Hệ thống văn bản chính
sách về giảm nghèo của
tỉnh, huyện (ban hành,
tuyên truyền…)
- Tổ chức thực hiện
chương trình giảm nghèo
(bộ máy, các nguồn lực,
kiểm tra, giám sát…)
Mục tiêu
Quản lý Nhà nước
về giảm nghèo
tiến hành điều tra, khảo sát, phỏng vấn thu thập thông tin từ 03 đối tượng:
người dân; đại diện lãnh đạo Đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể;
cán bộ của các cơ quan huyện Đoan Hùng thực hiện các hoạt động QLNN, tổ
chức thực hiện chính sách giảm nghèo cấp huyện và cơ sở.
Để thiết kế mẫu phiếu điều tra, Tác giả đã nghiên cứu và xây dựng các
câu hỏi liên quan đến đề tài nghiên cứu. Tiếp đến, bằng phương pháp chuyên
gia, Tác giả tham khảo ý kiến của 15 cán bộ đã và đang đảm nhiệm công tác
xóa đói giảm nghèo tại huyện Đoan Hùng để hoàn thiện phiếu điều tra cho ba
đối tượng đã nêu ở trên.
Thông qua cán bộ cơ sở tại các xã, phiếu điều tra đã được gửi đến 150
hộ dân và 120 cán bộ các cơ quan của Huyện, cơ sở đảm nhiệm QLNN về
giảm nghèo. Trong tổng số 150 phiếu được gửi các hộ dân thì đã có 110 phiếu
được gửi về và trong 120 phiếu của đối tượng cán bộ thì có 93 phiếu gửi lại.
Trong tổng số 110 người trả lời câu hỏi điều tra, giới tính nam chiếm
46,4%, giới tính nữ chiếm 56,4%; dân tộc thiểu số chiếm 17,2%, dân tộc kinh
82,8; số người tuổi dưới 35 chiếm 24,5% và trên 35 tuổi chiếm 75,5%.
Trong số 93 người thuộc đối tượng cán bộ được điều tra, nữ chiếm
27,9%, nam chiếm 72,1%;cán bộ có tuổi dưới 35 là 21,5%, từ 35 tuổi trở lên
chiếm 78,5.
Số liệu thu thập được từ các phiếu điều tra đã được Tác giả xử lý bằng
phần mềm Excel.
- Thu thập dữ liệu thứ cấp thông qua các báo cáo, các nghiên cứu và số
liệu thống kê về xóa đói giảm nghèo của huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ và các
địa phương khác. Ngoài ra, các bài báo, luận văn, luận án liên quan đến xóa đói
giảm nghèo cũng được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp chuyên gia,
điều tra, khảo sát, thu thập thông tin và thống kê.
Bước 3: Đánh giá thực trạng nghèo và QLNN đối với giảm nghèo của
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Phân tích các nguyên nhân chủ yếu của thực
4
trạng nghèo, một số vấn đề đặt ra trong QLNN về giảm nghèo trên địa bàn
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương
pháp phân tích, thống kê, so sánh, phương pháp chuyên gia
Bước 4: Đề xuất một số giải pháp QLNN đối với giảm nghèo trên địa bàn
huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ đến năm 2020 trên cơ sở lý luận, phân tích thực
trạng và dự báo QLNN về giảm nghèo trên địa bàn huyện Đoan Hùng.
5. Ý nghĩa của đề tài
- Trên cơ sở phân tích và đánh giá thực trạng QLNN đối với hoạt động
giảm nghèo trên địa bàn huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ hiện nay luận văn
làm rõ những thuận lợi, khó khăn, cơ hội và thách thức trên cơ sở đó đề xuất
việc lựa chọn các giải pháp thực hiện hiệu quả QLNN về hoạt động giảm
nghèo trên địa bàn huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ những năm tới.
- Kiến nghị các giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường QLNN về hoạt
động giảm nghèo trên địa bàn huyện Đoan Hùng trong giai đoạn tới để góp phần
bảo đảm tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, bền vững, giảm thiểu rủi ro, ổn định xã hội
và góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế của Huyện và tỉnh Phú Thọ.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, khuyến nghị, tài liệu tham khảo,
phụ lục; nội dung cơ bản của luận văn được thể hiện qua 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động giảm
nghèo ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với giảm nghèo trên địa
bàn huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Một số giải pháp quản lý nhà nước đối với giảm nghèo trên
địa bàn huyện Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM
1.1. Giảm nghèo và sự cần thiết tăng cường quản lý nhà nước đối
với giảm nghèo
1.1.1. Quan niệm về nghèo và giảm nghèo
Đói nghèo là lực cản đối với sự phát triển bền vững của toàn nhân loại.
Cuộc đấu tranh chống lại nghèo đói, vì vậy, luôn được đặt vào trung tâm
trong mọi chương trình hành động quốc gia và quốc tế.
Đói nghèo, hiểu theo nghĩa chung, là tình trạng thiếu hụt những điều
kiện cần thiết để đảm bảo mức sống tối thiểu của một cá nhân hay một cộng
đồng dân cư. Theo cách hiểu này, đói nghèo là tình trạng thiếu hụt những điều
kiện vật chất như: thức ăn, nước uống, quần áo… Đói nghèo cũng có thể là
tình trạng thiếu hụt những điều kiện về mặt xã hội như: giáo dục, chăm sóc
sức khỏe, cung cấp thông tin, quan hệ cộng đồng. Trong xã hội phát triển, sự
thiếu hụt còn có thể bao hàm cả tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng.
Tháng 9/1993, tại Hội nghị về chống nghèo đói do Uỷ ban Kinh tế xã
hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương tổ chức tại Bangkok, Thái Lan các
quốc gia trong khu vực cho rằng: “Nghèo khổ là tình trạng một bộ phận
dân cư không được hưởng và thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người, mà
những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh
tế - xã hội (KTXH) và phong tục tập quán của địa phương”. Đây được xem
là định nghĩa chung nhất về nghèo đói. Nó mang tính chất hướng dẫn cho
phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu của sự nghèo đói với các
tiêu chí còn để ngỏ về mặt định lượng. Quan niệm hạt nhân có trong định
nghĩa này là nhu cầu cơ bản của con người, tức là những yếu tố thiết yếu để
duy trì sự sống cho con người như ăn, ở, mặc. Căn cứ để xác định đói hay
nghèo là ở chỗ con người không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu
cơ bản ấy.
6
Năm 1995, tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển Xã hội tổ
chức tại Copenhaghen - Đan Mạch đưa ra định nghĩa cụ thể hơn về nghèo như
sau: “Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn 1USD/ngày, là
số tiền được coi như đủ mua những sản phẩm tất yếu để tồn tại”.
Nhà kinh tế học người Mỹ, Galbraith chia sẻ quan điểm của mình:
"Con người bị coi là nghèo khổ khi mà thu nhập của họ, ngay dù khi thích
đáng để họ có thể tồn tại, rơi xuống rõ rệt dưới mức thu nhập của cộng đồng.
Khi đó họ không thể có những gì mà đa số trong cộng đồng coi như cái cần
thiết tối thiểu để sống một cách đúng mức".
Chuyên gia hàng đầu của tổ chức Lao động quốc tế (ILO), ông Abapia Sen,
người được giải thưởng Nôben về kinh tế năm 1998, cho rằng: "Nghèo đói là sự
thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng".
Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một
người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình
quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Income, PCI) của quốc gia.
Năm 1998 UNDP công bố một bản báo cáo nhan đề “Khắc phục sự
nghèo khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo.
+ Sự nghèo khổ của con người: thiếu những quyền cơ bản của con
người như biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định cộng đồng và
được nuôi dưỡng tạm đủ.
+ Sự nghèo khổ tiền tệ: thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng
chi tiêu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ cực độ: nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả
năng thoả mãn những nhu cầu tối thiểu.
+ Sự nghèo khổ chung: mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác
định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phí
lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở
nước này hoặc nước khác.
7
Theo khía cạnh kinh tế: nghèo là do sự thiếu lựa chọn dẫn đến cùng cực
và thiếu năng lực tham gia vào đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, chủ yếu
là trong lĩnh vực kinh tế.
Theo khía cạnh khác: Nghèo là sự phản ánh trình độ phát triển kinh tế
xã hội trong từng giai đoạn lịch sử, trong phạm vi một quốc gia, một khu vực,
một vùng.
Nhìn chung, qua các quan niệm định nghĩa nêu trên, có thể hiểu nghèo
đói phản ánh ba khía cạnh chủ yếu của người nghèo, đó là:
+ Không được thụ hưởng những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành
cho con người;
+ Có mức sống thấp hơn mức sống của cộng đồng dân cư;
+ Thiếu cơ hội lựa chọn tham gia vào quá trình phát triển của cộng
đồng.Tuy có nhiều quan niệm khác nhau về đói nghèo, nhưng các quan niệm
đó đều được phản ánh trên các khía cạnh: Không có hoặc ít được hưởng thụ
những nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu của cuộc sống con người; mức sống
thấp hơn mức sống trung bình của cộng đồng dân cư địa phương; thiếu hoặc
không có cơ hội lựa chọn để tham gia vào quá trình phát triển của cộng đồng.
Hiện nay ở Việt Nam thì tách riêng đói và nghèo thành 2 khái niệm
riêng biệt.
- Đói: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu
và thu nhập không đủ bảo đảm nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Đó là
những hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ một đến hai tháng, thường vay
nợ của cộng đồng và không có khả năng chi trả.
Đối với Huyện Đoan Hùng vấn đề xóa đói đã cơ bản được giải quyết,
trong mục tiêu của huyện chủ yếu tập trung vào hoạt động giảm nghèo.
- Nghèo: là tình trạng thu nhập thực tế của người dân hầu như chỉ chi
đủ cho nhu cầu ăn, thậm chí không đủ chi cho nhu cầu ăn, phần tích lũy hầu
như không có. Ngoài ra, các nhu cầu khác như ở, mặc, y tế, văn hóa, giáo dục,
đi lại, giao tiếp chỉ được đáp ứng một phần rất ít ỏi. Hay nói cách khác nghèo
8
chính là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có điều kiện thoả mãn một phần
những nhu cầu tối thiểu cơ bản của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức
sống trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
Nghèo có thể được phân thành các cấp độ khác nhau:
+ Nghèo tuyệt đối: là tình trạng của một bộ phận dân cư không có khả
năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu nhằm duy trì cuộc sống. Nhu cầu tối
thiểu là những bảo đảm ở mức tối thiểu những nhu cầu thiết yếu về ăn, mặc, ở
và nhu cầu sinh hoạt hàng ngày gồm: văn hoá, y tế, giáo dục, đi lại, giao tiếp.
+ Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới
mức trung bình của cộng đồng tại địa phương mà bộ phận dân cư đó đang
sinh sống.
+ Nghèo có nhu cầu tối thiểu: đây là tình trạng một bộ phận dân cư có
những đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một
số sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.
- Hộ nghèo: hộ nghèo là tình trạng của một số hộ gia đình chỉ thoả mãn
một phần nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống
trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện.
- Giảm nghèo: là làm cho một bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống,
từng bước được thụ hưởng các nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống và thoát
khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo
giảm xuống. Nói một cách khác, giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân
cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
- Xóa đói giảm nghèo: xóa đói giảm nghèo là một phàn quan trọng nằm
trong chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia, là tổng thể các biện pháp
chính sách của nhà nước và xã hội hay là của chính những đối tượng thuộc
diện nghèo đói, nhằm tạo điều kiện để họ có thể tăng thu nhập, thoát khỏi tình
trạng thu nhập không đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu trên cơ sở chuẩn
nghèo được quy định theo từng địa phương, khu vực, quốc gia.
9
1.1.2. Chuẩn nghèo và các tiêu chí đánh giá
Nghèo đói là một khái niệm động, có thể thống nhất về mặt định tính
song không thể thống nhất về mặt định lượng, không thể quan niệm chung
cho tất cả các quốc gia vì nghèo đói phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế - xã
hội, lịch sử, nhu cầu phát triển của con người. Mỗi quốc gia khác nhau thì
có mức sống của người dân khác nhau hoặc ngay trong một quốc gia mức
sống giữa các vùng, miền cũng có sự khác nhau. Hơn nữa mặt định lượng
của mức nghèo cũng biến động theo thời gian tương ứng với sự biến động
về sự phát triển kinh tế xã hội của quốc gia đó. Có rất nhiều trường hợp với
mức thu nhập và nhu cầu chi dùng ở một vùng, một quốc gia này được xem
là nghèo đói, nhưng ở một vùng, một quốc gia khác lại không mang ý
nghĩa là nghèo đói. Ngay trong một vùng, một quốc gia cũng có sự khác
nhau giữa các thời kỳ. Vì vậy mỗi quốc gia sẽ tự khảo sát và xây dựng một
thước đo mức độ đói nghèo riêng thông qua những tiêu chí cụ thể được xác
định và gọi đó là chuẩn nghèo.
Khái niệm về chuẩn nghèo: chuẩn nghèo (hay còn gọi là đường nghèo,
ngưỡng nghèo, hoặc tiêu chuẩn nghèo) là mức thu nhập (hoặc chi tiêu) bình
quân đầu người mà một quốc gia quy định dùng để làm tiêu chuẩn để xác
định người nghèo hoặc hộ nghèo. Theo đó: Những người hoặc những hộ có
thu nhập (hoặc chi tiêu) bình quân đầu người thấp hơn chuẩn nghèo được coi
là người nghèo hoặc hộ nghèo.
* Tiêu chí chuẩn nghèo của thế giới
Theo tổ chức Liên Hiệp Quốc: nghèo đói được xác định dựa trên cơ sở
phân phối thu nhập theo đầu người hoặc theo nhóm dân cư. Thước đo này
tính phân phối thu nhập cho từng cá nhân hoặc hộ gia đình nhận được trong
thời gian nhất định, không quan tâm đến nguồn mang lại thu nhập hay môi
trường sống của dân cư. Cách tính được thực hiện bằng cách dân cư của một
nước, một châu lục được chia thành làm 5 nhóm, mỗi nhóm gồm 20% dân số
bao gồm: rất giàu, giàu, trung bình, nghèo và rất nghèo.
10
Theo Ngân Hàng thế giới (WB), các chỉ tiêu đánh giá mức độ giàu
nghèo của các quốc gia dựa vào mức thu nhập quốc dân bình quân tính theo
đầu người trong một năm và mức tối thiểu cần thiết cho một người sống trong
ngày với 2 phương pháp tính là phương pháp Atlas và PPP (Purchase power
parity):
- Phương pháp Atlas là tính theo tỷ giá hối đoái và tính theo USD.
Người ta chia các nước trên thế giới thành 6 loại:
+ Trên 25.000 USD/người/năm là nước cực giàu;
+ Từ 20.000 USD đến dưới 25.000 USD/người/năm là nước giàu;
+ Từ 10.000 USD đến dưới 20.000 USD/người/năm là nước khá giàu;
+ Từ 2.500 USD đến dưới 10.000 USD/người/năm là nước trung bình;
+ Từ 500 USD đến dưới 2.500 USD/người/năm là nước nghèo;
+ Dưới 500 USD/người/năm là nước cực nghèo.
- Phương pháp PPP là phương pháp sức mua tương đương khi tính toán
chuẩn nghèo chung cho thế giới WB đã tính theo mức năng lượng tối thiểu
cần thiết cho một người để sống là 2.100 kcalo/ngày. Với mức giá chung của
thế giới để đảm bảo mức năng lượng đó cần khoảng 1 USD/người/ngày. Theo
cách tính này thì thế giới có khoảng 1,3 tỷ người nghèo đói và có thể tăng lên
1,5 tỷ người vào năm 2025. Khu vực có người nghèo đói lớn nhất thế giới là
Châu Phi (có 80% dân số nghèo), khu vực Nam Á (có khoảng 79% dân số
nghèo), khu vực Trung Đông - Bắc Phi (có khoảng 61% dân số nghèo)
1
.
Liên Hiệp Quốc đưa ra chỉ số về Phát triển con người HDI (Human
Devepopment Index) để kiểm soát, đánh giá sự tiến bộ, phát triển trong con
người qua hệ thống 3 chỉ tiêu: tuổi thọ trung bình từ lúc sinh, tỷ lệ người lớn
biết chữ và tỷ lệ nhập học các cấp giáo dục và thu nhập bình quân đầu người
theo sức mua tương đương (PPP). Căn cứ vào chỉ tiêu này ta có thể có sự
đánh giá khá toàn diện về sự phát triển và trình độ văn minh của mỗi quốc
gia, nhìn nhận các nước giàu nghèo khá chính xác và khách quan.
1
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới, năm 2005
11
Năm 2014, Việt Nam đạt tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu
người 2028 USD/người/năm
2
, thuộc nhóm nước có thu nhập trung bình; chỉ
số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đứng thứ 121/187 quốc gia và
lãnh thổ, cao hơn thứ hạng GDP rất nhiều. Điều đó chứng tỏ đời sống của
nhân dân được cải thiện nhanh hơn mức tăng trưởng GDP và tình trạng nghèo
đói cũng giảm.
* Tiêu chí chuẩn nghèo của Việt Nam
Ở Việt Nam có 2 tiêu chí xác định chuẩn nghèo khác nhau áp dụng bởi
hai tổ chức khác nhau đó là: chuẩn nghèo do WB và Tổng cục Thống kê đưa
ra để đánh giá đói nghèo dưới góc độ vĩ mô, dựa theo mức chi tiêu thông qua
các cuộc điều tra mức sống dân cư; chuẩn nghèo do Bộ lao động - Thương
binh và Xã hội đưa ra để áp dụng trong công tác giảm nghèo theo tiêu chí thu
nhập bình quân đầu người.
- Tiêu chí thứ nhất : theo chuẩn Quốc tế do Tổng cục Thống kê, WB xác
định và được thực hiện trong các cuộc khảo sát mức sống dân cư ở Việt Nam
(năm 1992-1993 và năm 1997-1998), có hai phương pháp xác định mức chuẩn
nghèo đói thông qua đường nghèo đói về lượng thực và nghèo đói chung.
+ Đường nghèo đói về lương thực, thực phẩm là đường nghèo đói ở mức
thấp nhất, được xác định theo chuẩn mà hầu hết các nước đang phát triển cũng
như tổ chức Y tế Thế giới và các cơ quan khác đã xây dựng mức kcalo tối thiểu
cần thiết cho mỗi thể trạng con người trong ngày là 2.100 Kcal/người/ngày.
Những người có mức chi tiêu dưới mức chi cần thiết để đạt được lượng Kcal này
gọi là nghèo về lương thực, thực phẩm. Theo WB vào thời điểm năm 1998 nếu
một hộ gia đình chi tiêu trung bình cho một đầu người dưới 1.286.000 đồng/năm
thì được coi là hộ nghèo về lương thực, thực phẩm.
+ Đường nghèo đói chung là đường nghèo đói ở mức cao hơn, bao gồm
cả mặt hàng lương thực, thực phẩm và tính thêm chi phí cho các mặt hàng phi
lương thực, thực phẩm, được xác định bằng cách ước lượng tỷ lệ: 70% chi
2
Tổng cục Thống kê Việt Nam, năm 2014
12
dùng dành cho lương thực thực phẩm, 30% cho các khoản còn lại. Tính thêm
chi phí này với đường nghèo đói về lương thực, thực phẩm ta sẽ có đường
nghèo đói chung. Với cách xác định này, một hộ gia đình được coi là nghèo
nếu chi tiêu trung bình theo đầu người dưới 1.789.000 đồng/năm.
- Tiêu chí thứ hai: theo Bộ lao động - Thương binh và Xã hội xác định
chuẩn nghèo đói theo tiêu chuẩn quốc gia được tính toán dựa vào mức thu
nhập tối thiểu/người/ngày tính ra đơn vị lương thực quy gạo hay ra tiền Việt
Nam có sự khác nhau giữa các vùng. Dựa theo nguyên tắc tính toán này cho
đến này, Bộ LĐTBXH và Chính phủ đã sáu lần ban hành chuẩn nghèo khác
nhau, được điều chỉnh theo từng giai đoạn, phù hợp với sự phát triển của đất
nước, cụ thể như sau:
Chuẩn nghèo lần 1: được ban hành vào năm 1993, theo đó:
+ Hộ đói là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới
8kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn và dưới 13kg/người/tháng đối với
khu vực thành thị.
+ Hộ nghèo là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới
15kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn và dưới 20kg/người/tháng đối
với khu vực thành thị.
Chuẩn nghèo lần 2: được ban hành năm 1995, trong đó quy định:
+ Hộ đói là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới
13kg/người/tháng tính cho mọi vùng.
+ Hộ nghèo là hộ có thu nhập lương thực quy gạo bình quân dưới
15kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn miền núi và hải đảo, dưới
20kg/người/tháng đối với khu vực nông thôn đồng bằng và trung du, và dưới
25kg/người/tháng đối với khu vực thành thị.
Chuẩn nghèo lần 3: được ban hành vào năm 1997, theo Thông báo số
1751/LĐTBXH quy định:
+ Hộ đói là hộ có thu nhập bình quân quy gạo dưới 13kg/người/tháng,
tương đương với 45.000 đồng tính cho mọi vùng.
13
+ Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân quy gạo dưới
15kg/người/tháng, tương đương 55.000 đồng, tính cho khu vực nông thôn
miền núi và hải đảo, dưới 20kg/người/tháng, tương đương 70.000 đồng, tính
cho khu vực nông thôn đồng bằng và trung du, và dưới 25kg/người/tháng,
tương đương với 90.000 đồng, tính cho khu vực thành thị.
Chuẩn nghèo lần 4: được ban hành năm 2000, theo Thông báo số
1143/LĐTBXH ngày 01/11/2000, quy định:
Bỏ tiêu chí xác định hộ đói, giữ tiêu chí xác định hộ nghèo, không dựa
vào thu nhập lương thực quy gạo mà dựa vào thu nhập tính theo tiền Việt
Nam. Trong đó, hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân dưới 80.000
đồng/người/tháng, tính cho khu vực nông thôn miền núi và hải đảo, dưới
100.000 đồng/người/tháng, tính cho khu vực nông thôn đồng bằng, và dưới
150.000 đồng/người/tháng, tính cho khu vực thành thị.
Chuẩn nghèo lần 5: được ban hành kèm theo quyết định số
170/2005/QĐ-TTg ngày 8/7/2005 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó quy
định: hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân dưới 200.000
đồng/người/tháng, tính cho khu vực nông thôn và dưới 260.000
đồng/người/tháng, tính cho khu vực thành thị.
Chuẩn nghèo lần 6: Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng
ngày 30/01/2011 ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo như sau:
+ Hộ nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
+ Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
+ Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ
401.000 đồng đến 520.000 đồng/người/tháng.
+ Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ
501.000 đồng đến 650.000 đồng/người/tháng.
14
Sở dĩ có sự biến động chuẩn nghèo qua các giai đoạn khác nhau vì
chuẩn nghèo là một khái niệm động biến đổi theo không gian và thời gian. Về
không gian, chuẩn nghèo biến động theo trình độ phát triển của từng vùng
sinh thái khác nhau: thành thị, nông thôn đồng bằng, nông thôn miền núi hải
đảo. Về thời gian, chuẩn nghèo cũng có sự biến động lớn theo trình độ phát
triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của con người trong từng giai đoạn lịch sử.
Để khắc phục các nhược điểm của việc xác định chuẩn nghèo theo mức thu
nhập nên LHQ đã sử dụng chuẩn nghèo đa chiều. Chỉ số nghèo đa chiều lần đầu
tiên được sử dụng trong Báo cáo phát triển con người năm 2010 của Liên Hợp
Quốc
3
. Bộ chỉ số nghèo đa chiều gồm 8 trụ cột: thu nhập; giáo dục; y tế; tiếp cận
hệ thống an sinh xã hội; chất lượng và diện tích nhà ở; dịch vụ nhà ở; tham gia các
hoạt động xã hội; và an toàn xã hội (môi trường, tệ nạn xã hội).
Chuẩn nghèo đa chiều, là tiêu chí đo lường sự thiếu hụt các nhu cầu cơ
bản của mỗi con người, phụ thuộc vào điều kiện phát triển cụ thể của mỗi
quốc gia, trong từng giai đoạn nhất định. Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội đã ban hành các tiêu chí chuẩn nghèo đa chiều, nghèo thu nhập vào quý
1/2015 để triển khai đánh giá nghèo đa chiều trên toàn quốc năm 2015. Trong
quá trình chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang
đa chiều, chuẩn nghèo đa chiều và chuẩn nghèo thu nhập sẽ được sử dụng
song song. Chuẩn nghèo đa chiều khi được áp dụng sẽ đo lường được mức độ
thiếu hụt các nhu cầu về giáo dục, y tế, điều kiện sống, tiếp cận thông tin, bảo
hiểm và trợ giúp xã hội… của từng hộ gia đình, từng địa phương. Từ những
kết quả đó, các địa phương sẽ có những phương án phân bổ ngân sách cho
công tác giảm nghèo hiệu quả hơn, đồng thời đó cũng là cơ sở để các nhà
hoạch định chính sách có thể thiết lập thứ tự ưu tiên trong việc đầu tư cơ sở
hạ tầng, y tế, giáo dục…
- Tiêu chí xác định xã nghèo: tiêu chí xác định xã nghèo cũng được
thay đổi theo thời gian
3
Bộ chỉ số do Viện nghiên cứu vấn đề nghèo đói và sáng kiến phát triển con người của đaị học Oxford đưa ra
15
Năm 1998, Ủy Ban dân tộc và Miền núi đã sử dụng tiêu chí này để xác
định các xã đặc biệt khó khăn thuộc chương trình 135. Trong đó quy định xã
nghèo là xã có đủ 5 tiêu chí sau:
+ Các xã vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới cách thành phố, thị xã, khu
công nghiệp, trung tâm thương mại, quốc lộ, tỉnh lộ trên 10km.
+ Không có đường ô tô vào xã; các công trình điện, thủy lợi, nước sạch,
trường học, bệnh xá, các dịch vụ khác rất thấp kém hoặc không có.
+ Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí quá thấp, tỷ lệ mù
chữ và thất học trên 50%, bệnh tật nhiều, hủ tục lạc hậu, không có thông tin.
+ Điều kiện sản xuất rất khó khăn, thiếu thốn; số hộ không có đất và
thiếu đất sản xuất trên 20%, số hộ có người làm thuê trên 20%.
+ Số hộ nghèo đói trên 30%, đời sống còn nhiều khó khăn, còn tình
trạng đói giáp hạt.
Năm 2002, theo quyết định số 257/2002/QĐ-BLĐTBXH ngày
22/5/2002 của Bộ trưởng bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xã nghèo là
xã có:
+ Tỷ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên;
+ Chưa có đủ từ 3 trong 6 hạng mục cơ sở hạ tầng thiết yếu (bao gồm
đường giao thông, trường học, trạm y tế, nước sinh hoạt, điện sinh hoạt, chợ),
cụ thể là:
+ Dưới 30% dân số sử dụng nước sạch;
+ Dưới 50% số hộ sử dụng điện sinh hoạt.
+ Chưa có đường ô tô đến trung tâm xã hoặc ô tô không đi lại được cả
năm;
+ Số phòng học (theo quy định của Bộ giáo dục và Đào tạo) chỉ đáp ứng
được dưới 70% nhu cầu của học sinh hoặc phòng học tạm bợ bằng tranh, tre,
nứa, lá;
+ Chưa có trạm y tế xã hoặc có nhưng là nhà tạm;
16
+ Chưa có chợ hoặc chợ tạm.
1.1.3. Quản lý Nhà nước đối với giảm nghèo
1.1.3.1 Khái niệm về quản lý
Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và
khoa học tự nhiên. Mỗi lĩnh vực khoa học có định nghĩa về quản lý dưới góc
độ riêng của mình và nó phát triển ngày càng sâu rộng trong mọi hoạt động
của đời sống xã hội.
Theo quan niệm của C.Mác: “Bất kỳ lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào đó mà được tiến hành tuân theo một quy mô tương đối lớn
đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít nhằm phối hợp những hoạt động
cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của
toàn bộ cơ thể sản xuất, sự vận động này khác với sự vận động của các cơ
quan độc lập của cơ thể đó. Một nhạc công tự điều khiển mình, nhưng một
dàn nhạc phải có nhạc trưởng”
4
.
Theo quan điểm này quản lý là nhằm phối hợp các lao động đơn lẻ để
đạt được cái thống nhất của toàn bộ quá trình sản xuất. Ở đây Mác đã tiếp cận
khái niệm quản lý từ góc độ mục đích của quản lý.
Theo quan niệm của các nhà khoa học nghiên cứu về quản lý hiện nay:
Quản lý là sự tác động chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và hành vi
hoạt động của con người để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới
mục đích đã đề ra và đúng với ý trí của người quản lý.
Theo cách hiểu này thì quản lý là việc tổ chức, chỉ đạo các hoạt động
của xã hội nhằm đạt được một mục đích của người quản lý. Theo cách tiếp
cận này, quản lý đã nói rõ lên cách thức quản lý và mục đích quản lý.
Như vậy, theo cách hiểu chung nhất thì quản lý là sự tác động của chủ
thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Việc tác
4
Các Mác - Ph. Ăng ghen, toàn tập, tập 23, trang 23
17