VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ THANH HUYỀN
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HOÁ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ - TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN AN LÃO THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm2015
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VŨ THỊ THANH HUYỀN
CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HOÁ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ - TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN AN LÃO THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số : 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS TRẦN THỊ AN
Hà Nội, năm 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa học trong
luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hải phòng, ngày 18 tháng 7 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Thị Thanh Huyền
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự động viên và giúp
đỡ nhiệt tình từ các thầy cô giáo, các cơ quan đơn vị, gia đình và các bạn
đồng nghiệp. Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Trần Thị An,
người thầy đáng kính đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và động viên giúp đỡ tôi
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo Khoa Chính sách công -
Học viện Khoa học xã hội, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Hải Phòng, Bảo
Tàng thành phố Hải Phòng, Phòng Văn hoá và Thông tin huyện An Lão, các
xã: An Tiến, Trường Sơn, Mỹ Đức, Quang Trung, Quốc Tuấn, Bát Trang,
Trường Thành, Trường Thọ, An Thắng, Tân Viên thị trấn Ruồn…, các bạn bè
đồng nghiệp, gia đình đã giúp đỡ và cung cấp cho tôi những thông tin tài liệu
hữu ích phục vụ cho đề tài.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hải phòng, ngày 18 tháng 7 năm 2015
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Thị Thanh Huyền
ii
MỤC LỤC
iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CĐ : Cao đẳng
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
ĐH : Đại học
HĐND : Hội đồng nhân dân
SĐH : Sau đại học
THCN : Trung học chuyên nghiệp
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
XHH : Xã hội hóa
iv
DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN
v
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đổi mới (1986), cùng với việc tăng trưởng kinh tế, đời sống
văn hóa đã được chú ý. Các thiết chế văn hóa từng bước được nhà nước
đầu tư xây dựng, các hoạt động văn hóa được nhà nước và các tổ chức xã
hội đầu tư nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân.
Năm 1998, Nghị quyết TW 5 khóa VIII với phương châm “xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc” đã tạo hành lang cho
các hoạt động văn hóa được phát triển mạnh mẽ và thông thoáng hơn. Có
thể thấy, với sự triển khai mạnh mẽ, phong phú đó, sự hạn chế nguồn lực
của nhà nước đã khiến cho sự đầu tư dàn trải thiếu đi vào chiều sâu, từ đó,
tác động tiêu cực đến việc thực hành các hoạt động văn hóa và nhận thức
của người dân. Xuất phát từ tình hình đó, một nhu cầu tất yếu là phải thu
hút nguồn lực từ nhiều nguồn, trong đó, vốn xã hội hóa là nguồn lực tối
quan trọng.
Huyện An Lão là một trong những đơn vị luôn coi trọng nhiệm vụ phát
triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa và giải quyết các vấn đề xã hội. Đây là
một trong những đơn vị điển hình của Hải Phòng làm tốt công tác XHH hoạt
động văn hóa nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và
toàn xã hội tham gia vào nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa trên địa
bàn huyện như: xây dựng đền thờ Trạng nguyên Trần Tất Văn, Tiến sỹ Lê
Khắc Cẩn, toàn huyện có nhiều câu lạc bộ thuộc các xã, nhà văn hoá, thành
lập các đội văn nghệ quần chúng. Hàng năm tổ chức các cuộc thi, liên hoan,
hội diễn, biểu diễn văn nghệ quần chúng; Góp phần đáp ứng nhu cầu về
hưởng thụ văn hóa của nhân dân.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vấn đề XHH hoạt động văn hóa
ở Hải Phòng nói chung, An Lão nói riêng vẫn còn có nhiều hạn chế, cần
1
thực hiện một cách hiệu quả hơn, chất lượng hơn để đáp ứng với yêu cầu
xây dựng và phát triển văn hóa ở thành phố Hải Phòng hiện nay. Xuất phát
từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu khoa học: "Chính sách xã hội
hóa hoạt động văn hóa từ thực tiễn huyện An Lão thành phố Hải Phòng
hiện nay" làm luận văn thạc sĩ Chính sách công.
2. Tình hình nghiên cứu
Sự nghiệp đổi mới càng được đẩy mạnh, xã hội càng đi lên thì việc
XHH hoạt động văn hóa lại càng có ý nghĩa cấp thiết.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về XHH ở các lĩnh vực
khác nhau, trong đó có vấn đề XHH hoạt động văn hóa từ thực tiễn. Tiêu biểu
là các công trình "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn trong xây dựng văn hóa ở
nước ta" (Hoàng Vinh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1999); "Công tác
Tuyên giáo ở cơ sở" (Ban Tuyên giáo Trung ương, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2007); "Xã hội hóa hoạt động văn hóa" (Lê Như Hoa, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội, 1999). Các công trình trên đã đề cập một số vấn đề lý luận
cơ bản và tập hợp nhiều báo cáo khoa học về XHH hoạt động văn hóa ở các
lĩnh vực khác nhau như: XHH hoạt động nghệ thuật, xã hội hóa dịch vụ giải
trí, hoạt động bảo tàng Một số công trình khoa học nghiên cứu về phát triển
văn hóa ở Hải Phòng đã thực hiện như: “Xã hội hóa hoạt động văn hóa tại
Trung tâm Văn hóa Thông tin và Thể thao thị xã Đồ Sơn”(Nguyễn Như Anh,
Luận văn tốt nghiệp Đại học Văn hóa, 2003), “Văn hóa giải trí ở thành phố
Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay” (Nguyễn Quang Linh Luận văn
thạc sĩ Văn hóa học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh,
2006), “Lễ hội truyền thống văn hóa tiêu biểu Hải Phòng” (Trịnh Minh Hiên,
Nxb Hải Phòng, 2006), “Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (Hoàng Đình
Thi, Luận văn tốt nghiệp Đại học Chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2004).
2
Các công trình này nghiên cứu khá nhiều nội dung, khía cạnh để xây
dựng và phát triển văn hóa ở Hải Phòng theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 5 (khóa VIII), nhưng cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu về
chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng và
các quận, huyện trên địa bàn thành phố một cách hệ thống và cụ thể, đề xuất
các nhiệm vụ, giải pháp về vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa một cách
khoa học, khả thi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Từ những vấn đề lý luận về chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa,
luận văn đi sâu đánh giá thực trạng chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa
trên địa bàn huyện An Lão hiện nay, đề xuất phương hướng và giải pháp nâng
cao chất lượng và hiệu quả của công tác này trong thời gian tới.
Nghiên cứu cơ sở lý luận về chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa
từ thực tiễn trong quá trình xây dựng và phát triển văn hóa.
3.2. Nhiệm vụ
Đánh giá thực trạng chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa từ thực
tiễn trên địa bàn huyện An Lão thời gian qua.
Đề xuất phương hướng và giải pháp để nâng cao hiệu quả chính sách xã
hội hóa hoạt động văn hóa trên địa bàn huyện An Lão, Hải Phòng trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa trên địa bàn huyện An Lão,
thành phố Hải Phòng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: huyện An Lão, thành phố Hải Phòng
3
Thời gian: 2010-2015
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn sử dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng và
phát triển văn hóa
5.2. Cách tiếp cận
Chính sách công
Văn hóa học
Xã hội học
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng các văn bản: các văn bản chính sách.
Sử dụng tài liệu thứ cấp: các số liệu thống kê của các phòng trên địa
bàn huyện
Điều tra, phỏng vấn
Thống kê, phân tích
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
- Nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề lý luận chung về chính sách
xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong quá trình CNH, HĐH đất
nước và hội nhập quốc tế.
- Luận văn vận dụng lý thuyết khoa học chính sách công để làm rõ
vấn đề khoa học và thực tiễn của chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa
ở huyện An Lão Thành phố Hải Phòng hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá khách quan từ thực tiễn chính sách xã hội hóa hoạt động văn
hóa trên địa bàn huyện An Lão, thành phố Hải Phòng hiện nay.
4
- Đề xuất được giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả chính sách
xã hội hóa hoạt động văn hóa trên địa bàn huyện An Lão thành phố Hải
Phòng trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được trình bày theo 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chính sách xã hội hóa hoạt động văn
hóa ở Việt Nam hiện nay
Chương 2: Thực trạng chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa ở
Huyện An Lão, thành phố Hải Phòng
Chương 3: Phương hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu
quả chính sách xã hội hoá hoạt động văn hoá ở huyện An Lão, thành phố Hải
Phòng
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HÓA
HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm về chính sách công, chính sách văn hóa và chính sách
xã hội hóa hoạt động văn hóa
1.1.1. Khái niệm chính sách công
Trong hệ thống các công cụ quản lý được Nhà nước dùng để điều hành
hoạt động kinh tế - xã hội thì chính sách được coi là công cụ nền tảng định
hướng cho các công cụ khác. Chính sách công có vai trò đặc biệt quan trọng
đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Chính sách được
dùng để định hướng phát triển, là động lực thúc đẩy các quá trình phát triển
trong xã hội; đồng thời phát huy các mặt tích cực, hạn chế các mặt tiêu cực
trong xã hội, nâng cao chất lượng phát triển xã hội và quản lý phát triển xã
hội. Ngoài ra, chính sách công còn có vai trò tạo lập sự cân đối hài hòa, bền
vững trong phát triển.
Tiến sĩ Đỗ Phú Hải - Học viện KHXH đã đưa ra định nghĩa một cách
chung nhất về chính sách công như sau: “Chính sách công là một tập hợp các
quyết định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể
với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã
xác định của đảng Chính trị cầm quyền” [23, tr.37].
Như vậy, chính sách công là thể hiện cụ thể của những chủ trương,
quan điểm, định hướng của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước; có những chủ trương, định hướng phát triển chung và những
chủ trương định hướng cho từng ngành và lĩnh vực cụ thể. Chủ thể ban hành
chính sách công là nhà nước. Cơ quan trong bộ máy nhà nước là chủ thể ban
hành chính sách công, thông qua “tập hợp các quyết định chính trị có liên quan
của nhà nước”. Các quyết định về chính sách công là những quyết định chính
6
trị, bao hàm ý chí chính trị và thực tiễn cuộc sống nhằm đáp ứng nhu cầu của
người dân. Các quyết định chính trị ở đây được hiểu là các văn bản quy phạm
pháp luật. Văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành
theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục được quy định trong Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật. Ở Việt Nam, hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật gồm 2 loại: văn bản luật (Hiến pháp, Luật) và văn bản dưới Luật
(Nghị định, Thông tư, Quyết định…).
Chính sách công tập trung giải quyết vấn đề xã hội đang đặt ra trong đời
sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định, không chỉ đề ra mục
tiêu và các giải pháp với công cụ hành động thực hiện nhằm giải quyết một hoặc
một số vấn đề có mối quan hệ biện chứng đang đặt ra trong đời sống xã hội, mà
còn giải quyết mối quan hệ giữa các bên tham gia chính sách.
1.1.2. Khái niệm chính sách văn hóa
Chính sách văn hoá là một bộ phận của chính sách công, chính sách
văn hoá cũng chỉ có thể ra đời khi có nhà nước. Tuy nhiên cũng như chính
sách công, thuật ngữ “chính sách văn hoá” ra đời rất muộn, phải đến những
năm nửa sau thế kỷ XX. Năm 1967, trong Hội nghị bàn tròn các chuyên gia
văn hoá tại Monaco đã đưa ra một quan niệm về chính sách văn hoá như sau
“Chính sách văn hoá là một tổng thể những thực hành xã hội hữu thức và có
suy tính kỹ về những can thiệp hay không can thiệp của Nhà nước vào các
hoạt động văn hoá nhằm vào việc đáp ứng nhu cầu văn hoá của nhân dân,
bằng cách sử dụng tối ưu tất cả những nguồn vất chất và nhân lực mà một xã
hội nào đó sắp đặt vào một thời điểm thích hợp”. Năm 2002, UNESCO đưa ra
một định nghĩa về chính sách văn hoá như sau: “Chính sách văn hoá là một
tổng thể các nguyên tắc hoạt động quyết định các cách thực hành, các phương
pháp quản lý hành chính và phương pháp ngân sách của Nhà nước dùng làm
cơ sở cho các hoạt động văn hoá”
7
1.1.3. Khái niệm chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa
Chính sách XHH hoạt động văn hóa là sự vận động và tổ chức nhằm
thu hút toàn xã hội, mọi lực lượng, các thành phần kinh tế, các tầng lớp nhân
dân tham gia các hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến văn hóa, tạo điều
kiện cho văn hóa phát triển mạnh, rộng khắp, phong phú và nâng cao dần mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý của nhà nước trong lĩnh vực văn hóa.
Chính sách XHH văn hóa là huy động tiềm lực của xã hội để tạo lập và
cải thiện môi trường kinh tế - xã hội thuận lợi cho sự phát triển văn hóa, trên
cơ sở đó nâng cao và khẳng định quyền tổ chức và điều hành các hoạt động
văn hóa theo hướng đa dạng chủ thể hoạt động văn hóa.
Chính sách XHH hoạt động văn hóa là mở rộng các nguốn đầu tư, khai
thác các tiềm năng và nhân lực, vật lực và tài lực trong toàn xã hội, phát huy
và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân để phát triển sự nghiệp
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính sách XHH hoạt động văn hóa thực chất là thực hiện và trở lại
đúng quy luật vận động của bản thân văn hóa. Vì vậy, một mặt nó phải là một
chính sách đầu tư lâu dài, mang tính khoa học và hợp với quy luật văn hóa, là
phương châm thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước, mặt khác
phải chú ý đến tính đặc thù, lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm của văn hóa.
Chính sách XHH hoạt động văn hóa đi liền với tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng, và hiệu lực quản lý của bộ máy Nhà nước, bao gồm việc củng cố
xây dựng các cơ sở văn hóa của Nhà nước đủ mạnh để giữ vai trò định hướng
và chủ đạo, không giảm bớt phần ngân sách cho các hoạt động XHH, kiểm tra
và phòng chống mọi biểu hiện thương mại hóa văn hóa. Tăng cường sự lãnh
đạo và hiệu lực quản lý là nhằm phát huy cao nhất sự tham gia của toàn xã hội,
của mọi lực lượng vào hoạt động tổ chức, phát triển và quản lý văn hóa.
8
Theo các tác giả của sách “Nhập môn xã hội học”, chính sách XHH là
“Quá trình qua đó mà chúng ta có thể tiếp nhận được nền văn hóa của xã hội
mà trong đó chúng ta đã được sinh ra, quá trình mà nhờ đó chúng ta đã đạt
được những đặc trưng của xã hội, của bản thân, học được cách suy nghĩ và
ứng xử được coi là thích hợp trong xã hội của chúng ta được gọi là quá trình
xã hội hoá”. Nhiều nhà xã hội học trong đó có E. Durkheim, Max Weber đã
bàn nhiều về XHH. Qua các bậc thầy về xã hội học đó chúng ta học hỏi thêm
quá trình lan tỏa, phát huy ảnh hưởng của các hiện tượng của đời sống xã hội
liên quan nhiều đến các khía cạnh tâm lý xã hội, tâm lý cá nhân và tâm lý tập
thể. XHH hoạt động văn hóa là vấn đề rất được xã hội học quan tâm.
Vê cơ bản, có thể coi chính sách XHH hoạt động văn hóa là một tập
hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể
quản lý đưa ra, trong đó tạo sự ưu đãi, kích thích vào động cơ hoạt động của
họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển
cho sự phát triển các hoạt động văn hóa. Trên thực tế, nhu cầu về XHH hoạt
động văn hóa xuất phát từ ba tiền đề sau:
Thứ nhất, trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường sản phẩm văn
hóa là một dạng hàng hóa đặc biệt. Trong nền sản xuất hàng hóa phát triển
dựa trên nhiều hình thức sở hữu thì phân công lao động xã hội ngày càng
trở nên sâu sắc, điều này đã đem lại cho hoạt động sản xuất văn hóa những
thay đổi lớn lao.
Hơn nữa các sản phẩm của hoạt động văn hóa muốn được lưu thông
rộng rãi trên thị trường, thì phải được vật chất hóa và được nhân bản hàng
loạt. Điều này tất yếu đòi hỏi phải có những chi phí đầu tư cần thiết cho
các hoạt động trình diễn, in ấn, xuất bản Vai trò của kinh tế thị trường ở
đây được bộc lộ hơn bao giờ hết. Kinh doanh văn hóa nghệ thuật ra đời.
Sản phẩm văn hóa trở thành hàng hóa. Vậy là cơ chế thị trường, hoạt động
9
sản xuất văn hóa mang thuộc tính của sản xuất hàng hóa và sản phẩm của
nó trở thành đối tượng kinh doanh, là một tất yếu khách quan.
Thứ hai, xuất phát từ quan niệm cho rằng: Văn hóa vừa là mục tiêu,
vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, chúng ta chủ trương
xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần tích cực
và sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế. Ngày nay, ai cũng
nhận thức một cách sâu sắc rằng: CNH, HĐH không chỉ bao hàm yếu tố
công nghiệp, kỹ thuật và vốn. Muốn CNH, HĐH thành công thì nhân tố
con người (nguồn nhân lực) đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đó
phải hình thành được nền kinh tế tri thức. Mô hình phát triển của các quốc
gia hiện nay đều phải chú trọng đến sự phát triển bền vững trong đó văn
hóa được coi như là nguồn lực nội sinh quan trọng, đó là "tài sản văn hóa".
Xã hội hóa là quá trình tất yếu, qua đó tài sản văn hóa trở thành tài sản
quốc gia. Tài sản này góp phần làm giàu có năng lực sáng tạo, làm hoàn
thiện nhân cách của một công dân làm nền tảng tinh thần cho sự phát triển
bền vững của một quốc gia, dân tộc.
Thứ ba, chính sách XHH các hoạt động văn hóa không phải bây giờ
mới có mà trong lịch sử xã hội trước đây đã từng thực hiện. Khi nhân dân
tôn thờ các vị anh hùng dân tộc, những vị thần có công với cộng đồng thì
cùng nhau huy động sức lực, vật lực để xây dựng nên các đền thờ để tưởng
nhớ, ghi công. Khi nhu cầu tinh thần của cộng đồng cần các hoạt động văn
hóa thì cùng nhau đóng góp tiền của để tổ chức các cuộc hội làng và toàn
dân cùng tham gia tích cực vào việc tổ chức các hoạt động trong ngày hội.
Các phường hát, phường chèo được nhân dân mời về nuôi dưỡng và nếu ai
hát hay thì được thưởng tiền để cổ vũ, động viên. Các làng nghề được tổ
chức từ gia truyền đến phổ biến trong cộng đồng để mọi người cùng có
điều kiện lao động, sáng tạo làm ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của xã
10
hội. Các Hương ước của làng đều được toàn dân tham gia và khi đã trở
thành lệ thì mọi người cùng thực hiện Trong thời kỳ quản lý kinh tế tập
trung bao cấp, ở nhiều địa phương trong nước đã xuất hiện mô hình "Nhà
nước và nhân dân cùng làm" Và trong điều kiện hiện nay, khi đất nước
chuyển sang nền kinh tế thị trường thì việc XHH hoạt động văn hóa càng
được thực hiện một cách thuận lợi, với nhiều hình thức phong phú, sinh
động và đa dạng.
1.2. Chính sách XHH hoạt động văn hóa trong chủ trương, chính
sách của Đảng và Chính phủ Việt Nam
Thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, Chính
phủ đã ban hành Nghị quyết số 90/CP ngày 21 tháng 8 năm 1997 về phương
hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, trong
đó, có một số điểm nhấn sau:
- Tăng đầu tư cho văn hoá, trong đó ưu tiên các vùng nghèo, miền núi,
biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và bảo tồn, tôn tạo, phát huy các di sản
văn hoá vật thể và phi vật thể. Duy trì và phát triển dưới hình thức công lập
đóng vai trò chủ chốt trong sự nghiệp phát triển văn hoá đối với một số đoàn
nghệ thuật truyền thống và tiêu biểu, các bảo tàng, ban quản lý di tích, thư
viện quốc gia, thư viện tỉnh, thành phố, quận huyện, các đội thông tin, chiếu
bóng lưu động, các trường đào tạo nghệ thuật đỉnh cao, đào tạo cán bộ văn
hoá nghệ thuật đầu ngành, cán bộ văn hoá nghệ thuật dân tộc thiểu số
- Có chính sách thu hút mọi nguồn lực, thành phần kinh tế, các tầng lớp
nhân dân tham gia các hoạt động và sáng tạo văn hoá nhằm cung cấp, phổ
biến và tạo ra nhiều sản phẩm, tác phẩm, công trình văn hoá có chất lượng,
dân tộc và hiện đại để không ngừng nâng cao mức hưởng thụ văn hoá của
nhân dân. Khuyến khích khôi phục và phát triển các loại hình văn hoá nghệ
thuật truyền thống, các trò chơi dân gian của các dân tộc Việt Nam.
11
- Có bước đi thích hợp trong việc xã hội hoá một số hoạt động văn hoá
chuyên ngành cho từng loại hình, vùng, miền, đặc biệt là tập trung phát triển
mạnh ở các vùng kinh tế phát triển bao gồm: hoạt động nghệ thuật, đào tạo
văn hoá nghệ thuật, điện ảnh, xuất bản - in - phát hành, bảo tồn di sản văn
hoá, mỹ thuật - nhiếp ảnh, thư viện, dịch vụ bảo hộ quyền tác giả. Khuyến
khích phát triển các bảo tàng tư nhân.
- Từng bước chuyển sang loại hình ngoài công lập các đoàn nghệ thuật,
các trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật trung cấp. Khuyến khích một số khoa
hoặc ngành đào tạo không chuyên sâu, có tính phổ thông, quần chúng của các
trường văn hoá nghệ thuật công lập tách ra để thành lập các cơ sở văn hoá
nghệ thuật ngoài công lập. Khuyến khích các đơn vị, tổ chức ngoài công lập
phối hợp với các tổ chức công lập xây dựng đời sống văn hoá cơ sở theo định
hướng của nhà nước; xây dựng các thiết chế văn hoá thông tin cơ sở ở xã,
phường, thị trấn, thôn, làng, ấp, bản, cơ quan, đơn vị theo nguyên tắc tự tổ
chức, tự quản lý và chịu sự quản lý nhà nước của cơ quan có thẩm quyền.
Đại hội Đảng lần thứ IX đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh XHH, khuyến khích
nhân dân và các tổ chức tham gia thiết thực có hiệu quả các hoạt động văn
hóa, thể thao. Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư và bảo trợ các hoạt động
văn hóa thể thao. Phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, thể thao
phong phú, lành mạnh".
Ở đây, chủ trương của Đảng là giao cho nhiều chủ thể xã hội khác nhau
(Nhà nước, tập thể và cá nhân) cùng tham gia vào các hoạt động tổ chức và
điều hành quá trình sản xuất văn hóa, biến hoạt động này vốn trước đây chỉ
thuộc về chủ thể Nhà nước trở thành của toàn xã hội, được xã hội quan tâm và
chủ động tham gia. Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa không có
nghĩa là giảm nhẹ trách nhiệm của nhà nước, trái lại Nhà nước thường
xuyên tìm thêm các nguồn thu để tăng tỷ lệ ngân sách cho các hoạt động
12
này. Thực hiện XHH hoạt động văn hóa cũng là một giải pháp quan trọng
để thực hiện chính sách công bằng xã hội, trong chiến lược kinh tế xã hội
của Đảng và Nhà nước. Trong giai đoạn hiện nay, chính sách XHH các
hoạt động văn hóa mang ý nghĩa cấp bách, nghiên cứu vấn đề này chính là
đi tìm các biện pháp đổi mới các hình thức hoạt động văn hóa phù hợp với
thời kỳ mới. Bởi vì chính sách XHH hoạt động văn hóa là vấn đề lâu dài
trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc.
Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa là mở rộng các nguồn đầu tư,
khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực, tài lực trong xã hội. Phát huy và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân tạo điều kiện cho các hoạt
động về văn hóa phát triển nhanh hơn, có chất lượng cao hơn là phương châm
thực hiện chính sách xã hội lâu dài của Nhà nước, không phải là biện pháp
tạm thời chỉ có ý nghĩa trước mắt do thiếu kinh phí cho hoạt động này khi
người dân có mức thu nhập cao, ngân sách nhà nước dồi dào vẫn phải thực
hiện XHH, bởi văn hóa là một trong những sự nghiệp lâu dài của nhân dân, sẽ
phát triển không ngừng với nguồn lực to lớn của nhân dân. Chính sách xã hội
hóa hoạt động văn hóa là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp
nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã hội lành
mạnh và thuận lợi cho các hoạt động văn hóa. Ở mỗi địa phương, đây là trách
nhiệm của Đảng bộ, HĐND, UBND, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể
quần chúng, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp đóng tại địa phương và của
người dân.
Qua gần 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, nền kinh tế
nước ta vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường, định hướng XHCN, có
nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội đã từng bước được XHH và thu
được hiệu quả như các lĩnh vực y tế, thể thao, giáo dục Trong lĩnh vực
13
văn hóa, vấn đề XHH đã được đặt ra như một động lực thúc đẩy các hoạt
động văn hóa phát triển đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sáng tạo và hưởng
thụ các giá trị văn hóa của các tầng lớp nhân dân và nhiệm vụ xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện
kinh tế thị trường, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, hội nhập quốc tế.
1.3. Các chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa
1.3.1. Chính sách xã hội hóa các hoạt động văn hóa thông qua các
thiết chế văn hóa
Nền văn hóa nào cũng được vận hành thông qua các thiết chế cụ thể.
Nhà hát, Bảo tàng, Thư viện, Nhà văn hóa cộng đồng, Làng văn hóa…là
những mô hình nhà văn hóa xuất hiện ở nhiều quốc gia, nhiều vùng miền của
đất nước.
Viết về kết quả việc xã hội hóa các hoạt động nghệ thuật, tác giả Hoàng
Tuấn Anh, trong bài viết: “Xã hội hóa hoạt động văn hóa - những thành tựu
và giải pháp” đã viết: “Trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, đã có hơn 200 tổ
chức, cá nhân hoạt động theo phương thức xã hội hóa, trong đó gần 80 đơn vị
có đăng ký hoạt động thường xuyên, ổn định, số còn lại hoạt động mang tính
tự phát, chưa có hiệu quả; hơn 700 doanh nghiệp đăng ký chức năng tổ chức
biểu diễn và hoạt động biểu diễn nghệ thuật, trong đó có khoảng 150 đơn vị,
doanh nghiệp tham gia hoạt động thường xuyên ở loại hình ca múa nhạc, thời
trang”
1
. (Nguồn: Tạp chí cộng sản online).
Lĩnh vực điện ảnh là hoạt động nghệ thuật thể hiện xu hướng xã hội
hóa rõ rệt và hiệu quả nhất. Viết về kết quả việc xã hội hóa hoạt động này, tác
giả Hoàng Tuấn Anh đã viết: “Hoạt động xã hội hóa lĩnh vực điện ảnh chủ
yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, trên
cả hai lĩnh vực sản xuất phim và phát hành phim; số lượng phim do các hãng
1
14
tư nhân sản xuất, mô hình cụm rạp chiếu phim tư nhân tăng lên cả về số lượng
và chất lượng, khẳng định xu hướng xã hội hóa đang đạt được những kết quả
đáng khích lệ, nổi bật như Hãng phim Phước Sang sản xuất phim “áo lụa Hà
Đông”; Hãng phim Thiên Ngân liên kết với nước ngoài triển khai hệ thống
rạp chiếu phim chất lượng cao MegaStar tại một số thành phố lớn v.v ”
(Nguồn: Tạp chí Cộng sản online).
Bên cạnh đó, Bảo tàng cũng là một thiết chế văn hóa nhận được các
hình thức xã hội hóa đa dạng, chẳng hạn, việc tặng các bộ sưu tập tư nhân cho
Bảo tàng, việc tổ chức các hoạt động tình nguyện trong các chương trình của
Bảo tàng
Đồng thời, thư viện cũng là một thiết chế xã hội áp dụng được sự đa
dạng của các hình thức xã hội hóa, ví dụ, việc tặng sách cho các thư viện như
“Không gian đọc Cần Thơ” được hình thành nên nhờ nguồn sách, nguồn vốn
tài trợ của nhiều người trên phạm vi cả nước.
Về việc xây dựng thiết chế thư viện, nguồn vốn xã hội hóa đã có nhiều
sáng tạo trong việc xây dựng các kiểu thư viện đa dạng. Tác giả Hoàng Tuấn
Anh viết: “Xuất phát từ nhu cầu thực tế, nhiều địa phương đã xuất hiện mô
hình thư viện, phòng đọc sách, tủ sách tư nhân phục vụ cộng đồng. Theo báo
cáo của các địa phương, trên cả nước hiện có khoảng 40 thư viện, phòng đọc
sách tư nhân có phục vụ cộng đồng rải đều ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
Chủ nhân của các thư viện, phòng đọc sách báo đều là những nhà hảo tâm có
điều kiện kinh tế, các nhà giáo, cán bộ hưu trí địa phương v.v với lòng yêu
quý sách báo, có bộ sưu tầm sách báo tương đối phong phú, tận dụng nhà
riêng hoặc bỏ tiền ra xây dựng nhà thư viện; trang bị máy tính và một số trang
thiết bị khác như ở An Giang, Tây Ninh; trả thù lao cho người trực tiếp làm
thư viện (Thư viện gia đình ông Trương Văn Huyên ở Tiền Giang, Thư viện
Đặng - Huỳnh ở Bến Tre, Thư viện Tâm Thành ở Hải Dương ). Trung bình
mỗi thư viện có 5.000 - 10.000 bản sách (tương đương với số lượng sách của
15
một thư viện công cộng nhà nước cấp huyện) và 3 - 4 tên báo được bổ sung
thường xuyên; phần lớn các thư viện đều có lịch mở cửa hằng ngày, phục vụ
miễn phí dưới hai hình thức: Đọc tại chỗ và mượn về nhà. Lượt bạn đọc đối
với thư viện mở cửa thường xuyên trung bình từ 30 - 40 lượt người/ngày.
Việc ra đời mô hình thư viện tư nhân phục vụ cộng đồng có ý nghĩa hết sức to
lớn, góp phần quan trọng và khích lệ, cổ vũ “văn hóa đọc” của người dân, cải
thiện và nâng cao dân trí, đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, đặc biệt là
người dân vùng nông thôn” (Nguồn: Tạp chí Cộng sản online).
1.3.2. Chính sách xã hội hóa văn hóa bằng các phương tiện truyền
thông đại chúng
Ngày nay không có ai là không thừa nhận vai trò của các phương tiện
truyền thông đại chúng trong việc xã hội hóa hoạt động văn hóa. Trường phái
xã hội học Chicago nhấn mạnh rằng; các phương tiện truyền thông đại chúng
không chỉ để phổ biến tin tức mà hệ thống này còn có nhiệm vụ xây dựng và
duy trì nền văn hóa. Những thành tựu của Đài tiếng nói Việt Nam, vô tuyến
truyền hình cũng như của các báo khác trong quá trình đổi mới hoạt động của
báo chí những năm gần đây, cho thấy rõ điều này. Qua các loại báo viết, báo
hình, các chương trình truyền thông, người dân đã được tiếp xúc và hưởng thụ
các giá trị văn hóa.
Mục du lịch đất nước rất hay, rất đẹp, tác dụng rất lớn về mặt tình cảm
thẩm mỹ, giáo dục. Người dân chỉ sống trong ngôi làng của mìn nhưng có thể
biết được cảnh đẹp bốn phương, hiểu được giá trị văn hóa của các nước trên
thế giới, biết được sâu sắc hơn nét đẹp của con người và văn hóa của mọi
miền tổ quốc của mình….
1.3.3. Chính sách xã hội hóa văn hoá ở cơ sở nông thôn
Hiện nay chúng ta đang phấn đấu xây dựng “gia đình văn hóa”, tức là
đang thể nghiệm một kiểu thiết chế cho văn hoá ở gia đình mà muốn nói
nhiều đến văn hóa ở làng và ở nông thôn nói chung.
16
Việc XHH hoạt động văn hóa ở nông thôn có khi được thể hiện trong
các thiết chế như nhà văn hóa thôn, ấp hay các hoạt động văn hóa phi vật thể
như các phong trào văn hóa cơ sở: “Phong trào xây dựng gia đình văn hóa”,
“Phong trào toàn dân đoàn kết”; việc xây dựng các thuần phong mỹ tục như
cưới xin, tang ma; việc khôi phục các lễ hội truyền thống…
Hiện nay, ở một số xã đã có hương ước mới. Ở đây các truyền thống đã
được cải tiến và phát huy theo những tinh thần đổi mới. Một số địa phương
như Thái Bình đã thực hiện tốt chính sách này.
1.4. Định hướng chung về chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa
của Đảng, Nhà nước Việt Nam và thành phố Hải Phòng
Trong chiến lược xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam để
giảm tải cho gánh nặng ngân sách nhà nước một trong những nhiệm vụ giải
pháp cơ bản đó là thực hiện chính sách XHH văn hóa. Với những định hướng
cơ bản đó, ngay từ những năm 1999, Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn
hóa Thể thao và du lịch) đã cụ thể hóa thành chín quan điểm trong chính sách
XHH hoạt động văn hóa.
Chính sách XHH hoạt động văn hóa thực chất là nâng cao quyền tổ
chức và điều hành các hoạt động sáng tạo văn hóa theo hướng đa dạng chủ
thể hoạt động, quản lý. Đó là quá trình hai chiều đưa những giá trị văn hóa
tinh thần dưới dạng những loại hình văn hóa nghệ thuật vào đời sống xã hội,
trở thành tài sản chung của xã hội, mặt khác phát động và tạo điều kiện để
nhân dân sáng tạo ra các giá trị văn hóa mới. Chính sách XHH hoạt động văn
hóa không có nghĩa là giảm bớt phần ngân sách Nhà nước chi cho văn hóa.
Nhà nước thường xuyên tìm thêm các nguồn thu để tăng thêm kinh phí cho
các hoạt động văn hóa. Nhà nước khuyến khích mở rộng các nguồn đầu tư,
khai thác mọi tiềm năng trong nước và nước ngoài để phát triển văn hóa.
Thực hiện Chính sách XHH các hoạt động văn hóa là trở lại đúng quy luật sự
17
vận động và phát triển của văn hóa, để tạo nhiều nguồn thu từ hưởng thụ văn
hóa và lấy một phần từ nguồn thu đó chi lại cho văn hóa.
Trong quá trình lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
Thành ủy, HĐND, UBND thành phố Hải Phòng đã có nhiều các văn bản cụ
thể hóa chủ trương, chính sách XHH các lĩnh vực kinh tế, văn hóa - xã hội mà
Đảng và Nhà nước đề ra. Thành ủy Hải Phòng ban hành Nghị quyết số 16
(Khóa XIII) về "Xây dựng và phát triển văn hóa ở Hải Phòng thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước"; Chỉ thị 19 (Khóa XI) về "Nâng cao chất
lượng văn học, nghệ thuật ở thành phố Hải Phòng" đều xác định các nhiệm
vụ, giải pháp về XHH hoạt động văn hóa, văn nghệ. Trong đó, xác định mục
tiêu là:
Hướng mọi hoạt động văn hóa vào việc xây dựng con người phát triển
toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo;
tuân thủ pháp luật; có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, trọng
nghĩa tình, lối sống văn hóa, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã
hội, làm cho văn hóa trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân
cách, thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và
quan hệ con người trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước, thành phố và hội nhập
quốc tế; gắn kết mối quan hệ giữa văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa
với vấn đề hình thành nhân cách.
Tiếp tục đẩy mạnh bảo tồn, kế thức và phát huy các giá trị tốt đẹp của
văn hóa dân tộc, tập trung xây dựng những giá trị văn hóa mới, đi đôi với mở
rộng và chủ động trong giao lưu văn hóa quốc tế; tiếp nhận có chọn lọc tinh
hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc và nét đặc
trưng riêng của văn hóa Hải Phòng, bắt kịp sự phát triển của thời đại.
Giải phóng mạnh mẽ năng lực và tiềm năng sáng tạo của mọi người,
phát huy cao độ tính sáng tạo của trí thức, văn nghệ sĩ, đào tạo tài năng văn
18