1
LỜI CAM ĐOAN
Để hoàn thành luận văn, bản thân tác giả đã trực tiếp phát phiếu điều tra, tìm
hiểu, và gặp gỡ trực tiếp BGH, các giáo viên trường tiểu học quốc tể thành phố Hà
nội để thu thập số liệu phục vụ cho công tác làm luận văn.
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi
sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích
dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2012
Tác giả luận văn
Trần Kim Dung
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm và lòng biết ơn chân thành, tôi xin được gửi lời cảm ơn
đến các Thầy Cô giáo, Ban Giám Đốc Học Viện Quản Lý Giáo Dục, cán bộ giáo
viên Trung tâm Đào tạo sau đại học - Bồi dưỡng Nhà Giáo và Cán bộ quản lý, đã
tận tình giảng dạy, cung cấp cho tác giả những kiến thức cơ bản và đã giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cán bộ quản lý và lãnh đạo trong Hội đồng
quản trị nhà trường. Ban giám hiệu, tổ chuyên môn, giáo viên và học sinh trường
tiểu học quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi, động viên, khuyến khích giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập, nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến
2
PGS.TS. Đặng Quốc Bảo, một người thầy mà những bài giảng của thầy đã truyền
cảm hứng cho tôi trong việc lựa chọn và nghiên cứu luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn vô cùng chân thành và sâu sắc đến
PGS. TS. Nguyễn Công Giáp, người thầy đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn, và chỉ
bảo tận tình tôi trong suốt quá trình học tập, làm luận văn, giúp tôi hoàn thành và
bảo vệ thành công luận văn thạc sỹ.
Dù đã có nhiều cố gắng, song luận văn chắc không thể tránh khỏi những
thiếu sót và hạn chế, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của
các thày cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn.
Hà Nội, ngày tháng 11 năm 2012
Tác giả luận văn
Trần Kim Dung
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
STT Chữ viết tắt Giải nghĩa
1. BGH Ban giám hiệu
2. CM Chuyên môn
3. CNH - HĐH Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
4. CNXH Chủ nghĩa xã hội
5. CSVC Cơ sở vật chất
6. CT Chương trình
7. DH Dạy học
8. GD Giáo dục
9. GD & ĐT Giáo dục và Đào tạo
10. GV Giáo viên
11. HĐDH Hoạt động dạy học
12. HĐND Hội đồng nhân dân
13. HS Học sinh
14. KH - CN Khoa học - Công nghệ
15. KT Khả thi
16. IB International Bacaulaurate
Chương trình tú tài quốc tế
17. ND Nội dung
18. PPDH Phương pháp dạy học
3
19. PYP Chương trình tiểu học quốc tế
Primary year Program
20. QL Quản lý
21. QLGD Quản lý giáo dục
22. SGK Sách giáo khoa
23. TBDH Thiết bị dạy học
24. TB Trung bình
25. TƯ Trung ương
26. UBND Uỷ ban nhân dân
4
MỤC LỤC
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
6
CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế kỷ 21 là một kỷ nguyên chứng kiến cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
phát triển với những bước tiến nhảy vọt. Thế giới đã và đang chuyển từ kỷ nguyên
công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin để hình thành nền kinh tế tri thức. Chúng ta
đang sống trong giai đoạn lịch sử mà những đổi thay về chính trị, pháp luật, kinh tế,
xã hội diễn ra nhanh chóng hơn bao giờ hết và chúng có tác động to lớn đến cuộc
sống thường nhật của tất cả mọi người. Khoảng cách giữa giáo dục, phát minh khoa
học - công nghệ và ứng dụng trong thực tiễn đời sống ngày càng bị thu hẹp. Có mối
quan hệ biện chứng giữa sự phát triển giáo dục với sự phát triển nhân cách, phát
triển kinh tế-xã hội và khoa học-công nghệ, về điều kiện và hoàn cảnh thực hiện
giáo dục. Giáo dục không còn chỉ là kiến trúc thượng tầng mà thực sự đã là cơ sở hạ
tầng xã hội giữ vai trò quyết định trong việc phát triển con người và đưa con người
vào quá trình phát triển nhanh nền kinh tế-xã hội. Để phát triển, không còn con
đường nào khác là bắt đầu từ chính con người. Một nền giáo dục tốt là một nền giáo
dục phong phú, gần cuộc sống, luôn thích ứng với những đòi hỏi của cuộc sống.
Giáo dục là tương lai của một đất nước. Sản phẩm của giáo dục là một loại
sản phẩm đặc biệt, đó là những công dân tương lai của một quốc gia, đó là nhân
cách của con người để từ đó tạo ra mọi giá trị cho xã hội. Với xu thế toàn cầu hóa,
hội nhập kinh tế quốc tế, với sự phát triển năng động của kinh tế-xã hội, sự bùng nổ
của nền kinh tế tri thức, đã ngày càng nhấn mạnh vai trò của giáo dục là ngành trực
tiếp tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao cho xã hội. Đảng và Nhà nước ta luôn
quan tâm và coi trọng công tác giáo dục và dạy học. Ngay từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ tám, phát triển giáo dục và dạy học cùng với khoa học công nghệ được
xác định là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Phát
triển giáo dục và dạy học là một động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người- yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Đầu tư cho giáo
dục là đầu tư cho sự phát triển của xã hội.
Giáo dục hướng tới tương lai vì giáo dục cũng là phát triển. Mục tiêu của
giáo dục Việt nam là dạy học con người Việt nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp xây dựng và
8
bảo vệ Tổ quốc. Dạy học là hoạt động trung tâm trong nhà trường. Mọi hoạt động
giáo dục đều xoay quanh hoạt động dạy và học. Việc quản lý nhà trường thực chất
là quản lý hoạt động dạy và học. Nâng cao chất lượng giáo dục thực chất là nâng
cao chất lượng dạy và học. Để đáp ứng yêu cầu đó thì ngoài việc xây dựng mục
tiêu, nội dung, đổi mới phương pháp và hình thức dạy học thì việc quản lý dạy học
có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Trong thông điệp: “Học tập - một kho báu tiềm ẩn” do Hội đồng Giáo dục
thuộc UNESCO nói về “Giáo dục thế kỷ XXI” đề ra từ năm 1997 đã khẳng định vai
trò cơ bản của giáo dục trong sự phát triển của xã hội và của mỗi cá nhân. Nhấn
mạnh học tập suốt đời như là một chìa khóa để mỗi cá nhân thích ứng với những
thách thức của thế kỷ XXI. Cùng với quan điểm của UNESCO, trong xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta đã rất quan tâm phát triển giáo
dục và hợp tác quốc tế trong giáo dục. Sự xuất hiện của nhiều trường quốc tế ở
nước ta nói chung và trên địa bàn Hà Nội nói riêng là một minh chứng cụ thể cho
chủ trương này. Trường tiểu học quốc tế thành phố Hà nội là một trong những
trường quốc tế được thành lập đầu tiên ở Việt nam. Trong quá trình phát triển của
nhà trường, bên cạnh những thành tựu nhà trường đã đạt được, nhà trường còn gặp
một số khó khăn và thách thức trong hoạt động dạy học, trong đó có công tác quản
lý hoạt động dạy học. Do đó nghiên cứu đề tài để có các giải pháp quản lý hoạt
động dạy học phù hợp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dạy học theo tiêu chuẩn
quốc tế là một đòi hỏi cấp bách trước tình hình thực tế hiện nay của trường tiểu học
quốc tế.
Từ các lý do như trên tác giả chọn đề tài: “Quản lý hoạt động dạy học tại
Trường tiểu học quốc tế thành phố Hà Nội trong bối cảnh hiện nay”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu
học quốc tế thành phố Hà nội trong bối cảnh hiện nay .
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy học ở trường phổ thông.
9
3.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng công tác quản lý hoạt động dạy học ở
trường tiểu học quốc tế và phân tích các nguyên nhân của thực trạng đó.
3.3. Đề xuất một số biện pháp tăng cường quản lý hoạt động dạy học ở
trường tiểu học quốc tế.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động dạy học ở trường tiểu học quốc tế.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học
quốc tế.
5. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
5.1. Giới hạn nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu biện pháp quản lý
hoạt động dạy học ở trường tiểu học quốc tế trong bối cảnh hiện nay.
5.2. Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được thực hiện tại trường tiểu học quốc tế
ở Hà Nội.
6. Giả thuyết khoa học
Công tác quản lý hoạt động dạy học ở trường tiểu học quốc tế trong thời gian
qua đã thu được một số kết quả nhất định, góp phần nâng cao chất lượng dạy học
của nhà trường. Tuy nhiên, vấn đề quản lý hoạt động dạy học của trường tiểu học
quốc tế vẫn còn một số bất cập. Nếu nghiên cứu đề xuất được các biện pháp quản lý
hoạt động dạy học phù hợp và có tính khả thi thì sẽ nâng cao được hiệu quả quản lý
hoạt động dạy học của trường tiểu học quốc tế.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
7.1. Ý nghĩa lý luận: Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản lý hoạt động dạy
học tại trường tiểu học quốc tế
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Thông qua việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, đánh
giá những mặt mạnh, mặt yếu trong quản lý hoạt động dạy học tại trường tiểu học
quốc tế từ đó đề xuất những biện pháp quản lý phù hợp với thực tế và có tính khả
thi. Những biện pháp này có giá trị thực tiễn phổ biến cho việc quản lý dạy học tại
các trường tiểu học quốc tế có điều kiện tương tự.
8. Phương pháp nghiên cứu
8.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các văn bản các chủ trương, chính sách của nhà nước, Bộ,
ngành có liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
10
- Tìm hiểu các Nghị quyết của Đảng, các văn bản của Nhà nước về giáo dục
- đào tạo.
- Tham khảo các tài liệu có liên quan đến đề tài.
8.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát (công việc dạy - học của giáo viên và học sinh)
- Phương pháp điều tra: sử dụng mẫu phiếu điều tra với giáo viên học sinh,
cán bộ quản lý về công tác quản lý.
- Phương pháp thống kê số liệu: thống kê phân tích các số liệu đạt được
- Phương pháp chuyên gia: lấy ý kiến của các chuyên gia về lĩnh vực nghiên cứu.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận-khuyến nghị, tài liệu tham khảo và phụ lục,
phần nội dung luận văn gồm 3 chương như sau:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của việc quản lý HĐDH trong nhà trường phổ thông
- Chương 2: Thực trạng công tác quản lý HĐDH tại trường tiểu học quốc tế ở
thành phố Hà nội.
- Chương 3: Đề xuất các biện pháp tăng cường quản lý HĐDH của trường
tiểu học quốc tế ở thành phố Hà nội.
11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Quản lý, quản lý giáo dục và quản lý nhà trường
1.1.1.1. Quản lý
Quản lý là một dạng hoạt động đặc biệt quan trọng của con người. Quản lý
chứa đựng nội dung rộng lớn, đa dạng phức tạp và luôn vận động, biến đổi, phát
triển. Vì vậy khi nhận thức về quản lý, có nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau.
Quản lý là một hiện tượng xuất hiện rất sớm cùng với sự phát triển của xã
hội loài người, là một phạm trù tồn tại khách quan được ra đời từ nhu cầu của mọi
chế độ xã hội, mọi quốc gia và mọi thời đại. Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự
phân công, hợp tác lao động. Hoạt động quản lý có vai trò hết sức to lớn, đảm bảo
cho việc thực hiện thành công mục đích lao động, tăng hiệu quả lao động. Sự phân
công, hợp tác lao động là nhằm đạt hiệu quả, nâng cao năng suất, nhưng hiệu quả
chỉ có thể thực sự có khi có sự chỉ huy phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý. Mác
đã từng khẳng định: Bất cứ lao động xã hội hay lao động chung nào mà tiến hành
trên một quy mô khá lớn đều phải có sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá
nhân Một nhạc sĩ độc tấu thì tự điều khiển lấy mình, nhưng một dàn nhạc thì phải
có nhạc trưởng. Các Mác đã nói lên được bản chất của quản lý là một hoạt động lao
động để điều khiển quá trình lao động, một hoạt động tất yếu không thể thiếu được
trong xã hội loài người. Hoạt động lao động là khá phức tạp, phong phú và đa dạng,
quản lý là một hiện tượng lịch sử, xã hội. Có nhiều nhà nghiên cứu về quản lý đã
nêu lên các khía cạnh khác nhau của khái niệm “Quản lý”.
Loài người đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Đánh dấu sự
khác biệt giữa giai đoạn này với giai đoạn khác có rất nhiều yếu tố, một trong
những yếu tố không thể thiếu được là sự khác biệt về hình thức quản lý. Một hình
thức quản lý mới tiên tiến hơn hình thức quản lý cũ đem đến cho xã hội một diện
mạo mới trên tất cả các mặt của đời sống. Nghiên cứu về hoạt động quản lý là một
lĩnh vực quan trọng, là cơ sở để hình thành những phương thức quản lý mới.
Ở phương Đông cổ đại, nhất là ở Trung Hoa và Ấn Độ đã xuất hiện tư tưởng
quản lý từ rất sớm. Những tư tưởng về phép trị nước của Khổng Tử (551 – 479 TrCN),
Mạnh Tử (372 – 289 TrCN), Hàn Phi Tử (280 – 233 TrCN) vẫn còn ảnh hưởng sâu
sắc và đậm nét văn hóa trong phong cách quản lý của nhiều quốc gia châu Á, nhất là
các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên Trong các học thuyết về quản
lý phương Đông cổ đại Khổng Tử, Mạnh Tử và một số người khác chủ trương dùng
“Đức trị” để cai trị dân, Hàn Phi Tử và một số người khác lại chủ trương dùng “Pháp
trị” để cai trị dân.
Ở phương Tây cổ đại (vào thế kỷ IV – III TrCN) nhà triết học nổi tiếng
Xôcơrat trong tập nghị luận của mình viết rằng: Những người nào biết cách sử dụng
12
con người sẽ diều khiển được công việc, hoặc cá nhân hay tập thể một cách sáng
suốt. Những người không biết làm như vậy sẽ mắc sai lầm trong công việc.
Tư tưởng về quản lý con người và những yêu cầu về người đứng đầu – cai trị
dân còn tìm thấy trong quan điểm của nhà triết học cổ đại Hy Lạp Platôn (427- 347
TrCN). Theo ông, muốn trị nước thì phải biết đoàn kết dân lại, phải vì dân. Người đứng
đầu phải ham chuộng hiểu biết, thành thật, tự chủ, biết điều độ, ít tham vọng về vật
chất, đặc biệt là phải được đào tạo kỹ lưỡng.
Theo F.W. Taylor, một trong những người đầu tiên khai sinh ra khoa học
quản lý và là ông tổ của trường phái “quản lý theo khoa học”, tiếp cận quản lý dưới
góc độ kinh tế - kỹ thuật đã cho rằng: Quản lý là hoàn thành công việc của mình
thông qua người khác và biết được một cách chính xác họ đã hoàn thành công việc
một cách tốt nhất và rẻ nhất. Ông cũng cho rằng: Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng,
chính xác cái gì cần làm và làm cái gì đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ
tiền nhất. Quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo vệ sự hoàn thành công
việc qua những nỗ lực của người khác.
H. Fayol, người đầu tiên tiếp cận quản lý theo quá trình và là người có tầm
ảnh hưởng to lớn trong lịch sử tư tưởng quản lý từ thời kỳ cận hiện đại tới nay, quan
niệm rằng: quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều khiển, phối
hợp, và kiểm tra.
Harold Koontz và các đồng sự, cho rằng: Bản chất quản lý là phối hợp các
nỗ lực của con người thông qua các chức năng lập kế hoạch, xây dựng tổ chức, xác
định biên chế, lãnh đạo và kiểm tra.
Những tiếp cận và quan niệm khác nhau đã tạo ra bức tranh đa dạng và
phong phú về quản lý, góp phần cho việc nhận thức ngày càng đầy đủ và đúng đắn
hơn về quản lý.
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng (NXB GD-1998): Quản lý là tổ chức,
điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan.
Theo quan điểm điều khiển học: Quản lý là chức năng của hệ có tổ chức với
bản chất khác nhau (sinh học, xã hội, kỹ thuật) nó bảo toàn cấu trúc các hệ, duy trì
chế độ hoạt động.
Theo C.Mac: Bất cứ lao động xã hội hay cộng đồng trực tiếp nào thực hiện ở
một quy mô tương đối lớn đều cần ở chừng mực nhất định đến sự quản lý. Quản lý
xác lập sự tương hợp giữa các công việc cá nhân và hình thành những chức năng
chung xuất hiện trong toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của bộ phận
riêng lẻ của nó.
Một xu hướng nghiên cứu phương pháp luận quản lý ở Việt Nam trong cuốn
“Khoa học tổ chức và quản lý” của nhiều tác giả: Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Văn
Bình, Nguyễn Quốc Chí (NXB thống kê, Hà Nội 1999, tr 176) cho rằng: Hoạt
động quản lý nhằm làm cho hệ thống vận động theo mục tiêu đặt ra, tiến đến trạng
thái có chất lượng mới. Quản lý về bản chất bao gồm quá trình “Quản” và quá
trình “Lý”.
Quản: là coi sóc, giữ gìn, là duy trì - Ổn định.
Lý: là sửa sang, sắp xếp, là đổi mới – Phát triển.
13
Hệ ổn định mà không pháp triển tất yếu dẫn đến suy thoái.
Hệ phát triển mà thiếu ổn định tất yếu dẫn đến rối ren.
Như vậy: Quản lý = Ổn định + Phát triển
Trong quản phải có lý; trong lý phải có quản. Quản lý là tạo ra sự ổn định đi
tới sự phát triển, và phát triển trong thế ổn định. [2, tr. 176]
Như vậy, mặc dù có những kiến giải khác nhau nhưng đi sâu tìm hiểu bản
chất khoa học của các khái niệm đã nêu về quản lý, có thể dễ dàng nhận thấy giữa
chúng luôn có sự thống nhất.
Quản lý là khoa học vì nó là những tri thức được hệ thống hoá và là đối
tượng nghiên cứu khách quan đặc biệt. Quản lý là khoa học nghiên cứu, lý giải các
mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể quản lý.
Quản lý là nghệ thuật bởi nó là hoạt động đặc biệt đòi hỏi sự khéo léo, tinh tế
và linh hoạt trong việc sử dụng những kinh nghiệm đã quan sát được, những tri thức
đã được đúc kết nhằm tác động một cách có hiệu quả nhất tới khách thể quản lý.
Nói đến quản lý thì đồng thời cũng phải hiểu quản lý bao giờ cũng có định
hướng, có mục tiêu, có tổ chức, có tác động tương ứng, phù hợp, nhằm hướng dẫn,
điều khiển những đối tượng quản lý để đạt tới mục tiêu định sẵn.
Theo tác giả Hà Thế Ngữ và Đặng Vũ Hoạt: “Quản lý là một quá trình định
hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý là một hệ thống là quá trình tác động đến hệ
thống nhằm đạt được mục tiêu nhất định”. [12; tr. 28]
Ngày nay thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến, nhưng chưa có một định
nghĩa thống nhất, song đều có điểm chung ở bản chất của hoạt động quản lý đó là
sự tác động một cách có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý đến khách thể
quản lý làm cho tổ chức vận hành đạt được mục tiêu mong muốn bằng kế hoạch
hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra. Từ xuất phát điểm trình bầy ở trên, kế thừa những
nhân tố hợp lý của các tiếp cận và quan niệm về quản lý trong lịch sử tư tưởng quản
lý, có thể tổng hợp và rút ra định nghĩa về quản lý như sau: Quản lý là sự tác động
có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt được
mục tiêu đề ra.
Từ các định nghĩa trên có thể rút ra một số nhận xét sau:
+ QL là một hoạt đông mang tính tất yếu và phổ biến
+ HĐQL biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người
+ QL là tác động có ý thức
+ QL là tác động bằng quyền lực
+ QL là tác động theo quy trình
+ QL là hoạt động để phối hợp các nguồn lực
+ QL nhằm hướng tới thực hiện mục tiêu chung
+ QL là hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật
+ Mối quan hệ giữa quản lý và tự quản
Quản lý có thể xem là một quá trình tác động gây ảnh hưởng của chủ thể
quản lý đến khách thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung. Quá trình tác động này
được vận hành trong môi trường xác định. Cấu trúc hệ thống quản lý được thể hiện
ở sơ đồ 1.1:
Mục tiêu
Công cụ quản lý
Đối tượng quản lý
Phương pháp quản lý Chủ thể quản lý
14
Sơ đồ 1.1: Cấu trúc hệ thống quản lý.
Như vậy, thông qua quá trình: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra, khái
niệm quản lý được hiểu như sau: Quản lý là sự tác động có ý thức thông qua kế
hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra để chỉ huy, điều khiển các quá trình xã hội và
hành vi hoạt động của con người nhằm đạt đến mục tiêu đúng của người quản lý và
phù hợp với quy luật khách quan.
Cuối cùng, tồn tại với tư cách là một hệ thống, quản lý bao gồm các thành
phần: chủ thể quản lý, khách thể quản lý, cơ chế quản lý và mục tiêu chung. Chủ thể
quản lý tạo ra các tác động quản lý, còn khách thể quản lý tạo ra các sản phẩm có
giá trị sử dụng, hiện thực hoá mục tiêu đã định và làm thoả mãn mục đích của nhà
quản lý. Chủ thể quản lý luôn là con người và có cơ cấu tổ chức phụ thuộc vào quy
mô, độ phức tạp của khách thể quản lý. Khách thể quản lý là đối tượng chịu sự điều
khiển, tác động của chủ thể quản lý, khách thể quản lý bao gồm con người, các
nguồn tài nguyên, tư liệu sản xuất
Chức năng quản lý: Bàn về hoạt động quản lý và người quản lý, hiểu rõ
người quản lý phải làm gì để đạt hiệu quả quản lý cao cũng chính là tìm hiểu chức
năng và vai trò của quản lý.
Các chức năng quản lý:
MÔI TRƯỜNG QUẢN LÝ
15
QL là một hoạt động đặc biệt, có tính sáng tạo. Hoạt động QL cũng phát triển
không ngừng từ thấp đến cao; gắn liền với quá trình phát triển, đó là sự phân công,
chuyên môn hoá lao động QL. Sự phân công chuyên môn hoá lao động QL là cơ sở
hình thành các chức năng QL.
Chức năng QL là một thể thống nhất hoạt động của chủ thể QL nảy sinh từ
sự phân công chuyên môn hoá trong hoạt động QL để thực hiện mục tiêu.
Chức năng quản lý xác định khối lượng các công việc cơ bản và trình tự các
công việc của quá trình quản lý, mỗi chức năng có nhiều nhiệm vụ cụ thể, là quá
trình liên tục của các bước công việc tất yếu phải thực hiện.
Quản lý có các chức năng sau đây:
- Kế hoạch hoá
Kế hoạch hoá là chức năng đầu tiên trong số các chức năng quản lý, gồm xác
định mục tiêu, xây dựng chương trình hành động và bước đi cụ thể để đạt được mục
tiêu trong một thời gian nhất định của một hệ thống quản lý.
Xác định mục tiêu là xác định cái đích để mọi hoạt động của hệ thống hướng
tới. Các mục tiêu tạo thành một hệ thống phân cấp từ mục tiêu chung đến mục tiêu
của từng bộ phận, mục tiêu của cá nhân và tạo thành cả một hệ thống mạng lưới các
mục tiêu được phản ánh trong các chương trình, được phối hợp chặt chẽ với nhau.
Xây dựng chương trình hành động và bước đi cụ thể nhằm đạt các mục tiêu,
thực chất là lập kế hoạch trong quá trình thực hiện chức năng kế hoạch hoá. Chức
năng kế hoạch hóa có các nội dung cơ bản sau:
+ Xác định mục tiêu phương hướng đối với tổ chức
+ Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn) về các nguồn lực của tổ chức để
đạt được mục tiêu này.
+ Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục
tiêu, xác định các hoạt động ưu tiên.
Nội dung của kế hoạch hoá một mặt tạo thuận lợi và đồng bộ cho quá trình
thực hiện, mặt khác có khả năng thích ứng với sự biến đổi của môi trường bên ngoài
hệ thống.
- Tổ chức
Tổ chức là xác định cơ cấu chủ định về vai trò nhiệm vụ hay chức vụ được
hợp thức hoá. Tổ chức là hoạt động hướng tới hình thành cấu trúc của hệ thống
quản lý và phối hợp tốt nhất giữa các hệ thống lãnh đạo và bị lãnh đạo.
Thứ nhất, tổ chức làm cho các chức năng khác của hoạt động quản lý thực
hiện có hiệu quả.
16
Thứ hai, từ khối lượng công việc quản lý mà xác định biên chế, sắp xếp
con người.
Thứ ba, tạo điều kiện cho hoạt động tự giác và sáng tạo của các thành viên
trong tổ chức, tạo nên sự phối hợp ăn khớp nhịp nhàng trong các cơ quan QL và đối
tượng QL.
Thứ tư, dễ dàng cho việc kiểm tra, đánh giá.
Nhờ thực hiện chức năng tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp,
điều phối tốt hơn các nguồn lực và nhân lực. Tổ chức tốt sẽ khơi nguồn cho những
tiềm năng, cho các động lực khác. Tổ chức không tốt sẽ làm triệt tiêu động lực và
làm giảm sút hiệu quả QL.
- Chỉ đạo:
Chỉ đạo là quá trình tác động ảnh hưởng của chủ thể quản lý đến hành vi và
thái độ con người nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Quá trình đó thể hiện ở sự tác
động qua lại giữa chủ thể quản lý và mọi thành viên trong tổ chức nhằm thực hiện
các mục tiêu đề ra. Bản chất của chỉ đạo xét cho cùng là sự tác động lên con người,
khơi dậy động lực, tiềm năng của nhân tố con người trong hệ thống quản lý, thực
hiện mối liên hệ giữa con người với con người và quá trình giải quyết những mối
quan hệ đó để họ tự nguyện và hăng hái phấn đấu cho công việc.
Trong QLGD, chức năng chỉ đạo có ý nghĩa quan trọng đòi hỏi chủ thể
quản lý phải có năng lực, phẩm chất và nghệ thuật quản lý để chỉ đạo khách thể
là những con người có trình độ năng lực và phong cách đặc trưng riêng.
- Kiểm tra:
Kiểm tra là chức năng cuối cùng trong bốn chức năng cơ bản của quản lý. là
một chức năng có liên quan đến mọi cấp quản lý để đánh giá đúng kết quả hoạt
động của hệ thống, đo lường các sai lệch nảy sinh trong quá trình hoạt động so với
mục tiêu và kế hoạch định trước. Sau khi xác định mục tiêu, quyết định những biện
pháp tốt nhất để hoàn thành mục tiêu phải tiến hành kiểm tra xác định xem chúng
hoạt động có phù hợp với mục tiêu và kế hoạch đặt ra hay không.
Tóm lại: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra là các chức năng cơ bản
được hình thành trong sự phân công và chuyên môn hoá hoạt động quản lý. Các chức
năng này có quan hệ hữu cơ, biện chứng được thể hiện ở sơ đồ 1.2:
Kế hoạch
Chỉ đạo
Kiểm tra
Quản lý
Tổ chức
17
Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý
1.1.1.2. Quản lý giáo dục
a) Giáo dục
Ngay từ khi loài người còn sống theo “bầy đàn”đã xuất hiện các biểu hiện
của giáo dục. Để tồn tại và phát triển, con người phải trải qua quá trình lao động.
Trong lao động và cuộc sống hàng ngày con người nhận thức thế giới xung quanh,
tích luỹ kinh nghiệm từ đó nảy sinh nhu cầu truyền đạt những hiểu biết ấy cho nhau.
Đến khi cuộc sống của loài người tiến triển tới mức có tính tổ chức xã hội thì các
biểu hiện GD trong xã hội loài người mới dần đúng với nghĩa giáo dục và phát sinh
hiện tượng giáo dục.
Lúc đầu giáo dục xuất hiện như là một hiện tượng tự phát, sau đó trở thành
một hoạt động có ý thức. Ngày nay giáo dục đã trở thành một hoạt động được tổ
chức đặc biệt, đạt tới trình độ cao, có nội dung, chương trình, kế hoạch và phương
pháp hiện đại thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của xã hội loài người.
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, bản chất của nó là quá trình
truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của các thế hệ loài người. Giáo
dục có vị trí đặc biệt quan trọng, không chỉ là sản phẩm xã hội mà còn là nhân tố
tích cực, động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Trong xã hội hiện đại khi các quốc gia đua tranh về khoa học và công nghệ
thì giáo dục có vai trò quyết định giúp các quốc gia thắng lợi trong cuộc tranh đua
đó. Phát triển giáo dục trở thành quốc sách hàng đầu thể hiện trong chiến lược và
mọi chính sách của mỗi quốc gia.
Như vậy: Giáo dục là một hiện tượng xã hội, bản chất của nó là sự truyền
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử-xã hội của các thế hệ loài người, nhờ có giáo
dục mà các thế hệ nối tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc, nhân loại
được thừa kế, bổ sung và trên cơ sở đó xã hội loài người không ngừng phát triển.
b) Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục có nhiều định nghĩa:
Trong tác phẩm “Cơ sở lý luận của khoa học QLGD” tác giả M.I.Kônđacốp
đã định nghĩa: “Quản lý giáo dục là tập hợp các biện pháp (tổ chức, cán bộ, giáo
dục, kế hoạch hoá, tài chính ) nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường của các cơ
18
quan trong hệ thống giáo dục, đảm bảo sự tiếp tục phát triển và mở rộng hệ thống
cả về số lượng cũng như chất lượng.” [17, tr. 93]
Ở Việt Nam khái niệm quản lý giáo dục cũng được nhiều học giả đề cập tới
trong quá trình nghiên cứu.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang trong cuốn “Những khái niệm cơ bản về quản
lý giáo dục” cho rằng: “Quản lý giáo dục là hệ thống những tác động có mục đích,
có kế hoạch, hợp quy luật của các chủ thể quản lý nhằm làm cho hệ vận hành theo
đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của nhà
trường xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học- giáo
dục thế hệ trẻ, đưa hệ thống giáo dục tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về
chất.” [19, tr. 35]
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 khoá 8 BCH TW Đảng đã viết: “Quản lý giáo
dục là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa
hoạt động sư phạm của hệ thống giáo dục đạt tới kết quả mong muốn bằng hiệu quả
cao nhất”.
Qua các định nghĩa trên ta có thể hiểu về QLGD như sau:
- QLGD là một hệ thống tác động có kế hoạch, có mục đích của chủ thể quản
lý lên đối tượng bị quản lý.
- QLGD là sự tác động lên tập thể GV, HS và các lực lượng giáo dục trong và
ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng phối hợp tác động tham gia vào các hoạt
động giáo dục của nhà trường để đạt được mục tiêu đã đề ra.
Tóm lại: Quản lý giáo dục chính là quá trình tác động có định hướng của
nhà quản lý giáo dục trong việc vận dụng nguyên lý, phương pháp chung nhất của
kế hoạch nhằm đạt được những mục tiêu đề ra.
1.1.1.3. Quản lý nhà trường
Từ khi con người hình thành các tổ chức tới nay, nhà trường luôn tồn tại và
phát triển. Nhà trường ra đời và phát triển qua các thời kỳ văn minh nhân loại và
mỗi một thời kỳ đó có một dạng nhà trường với những đặc điểm riêng phù hợp với
các hình thái phát triển kinh tế -xã hội của nền văn minh đó. Trên cơ sở thế giới
quan duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác- Lê nin và xem xét quá trình phát triển
của nhà trường trong tiến trình lịch sử phát triển xã hội loài người thì thấy: Nhà
trường là một thiết chế chuyên biệt và đặc thù của xã hội, được hình thành (thiết
lập) do nhu cầu tất yếu khách quan của xã hội nhằm thực hiện chức năng truyền thụ
các kinh nghiệm xã hội cần thiết cho từng nhóm dân cư nhất định trong cộng đồng
và xã hội. Nhà trường được tổ chức và hoạt động với chức năng truyền thụ và lĩnh
hội tri thức nhân loại để nhằm mục tiêu tồn tại và phát triển cá nhân, phát triển cộng
đồng và phát triển xã hội.
19
Trong bối cảnh hiện tại, nhà trường được thừa nhận rộng rãi như là một thiết
chế chuyên biệt của xã hội để giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân
hữu ích trong tương lai. Thiết chế đó có mục đích rõ ràng, có tổ chức chặt chẽ, được
cung ứng các nguồn lực cần thiết cho việc thực hiện chức năng của mình mà không
một thiết chế nào có thể thay thế được. Nhiệm vụ của nhà trường cũng được đề cập
từ nhiều khía cạnh khác nhau, việc quản lý nhà trường cũng có nhiều cách tiếp cận.
Điều đó có thể thấy rằng bản chất của nhà trường được thực hiện thông qua tính
mục đích cũng như cách thức vận hành của nó. Dấu hiệu phân biệt nhà trường với
các thiết chế khác ở chỗ tính mục đích tập trung hay tính hẹp được “chiết suất”; tính
tổ chức và tính kế hoạch hoạch hoá cao; tính hiệu quả giáo dục cao nhờ quá trình
truyền thụ có tổ chức; tính biệt lập tương đối hay tính lý tưởng hoá các giá trị xã
hội; tính chuyên biệt cho từng đối tượng hay tính chất phân biệt đối xử theo sự phát
triển tâm lý và thể chất.
Như vậy: Nhà trường là một thiết chế tổ chức chuyên biệt trong hệ thống tổ
chức xã hội thực hiện chức năng tái tạo nguồn nhân lực phục vụ cho sự duy trì và
phát triển của xã hội.
Nhà trường là tổ chức trực tiếp làm công tác giáo dục và đào tạo. Nó chịu sự
quản lý của các cấp QLGD đồng thời nhà trường cũng là một hệ thống độc lập, tự
quản. Quản lý nhà trường nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả và phát triển nhà trường.
Nhà trường là tổ chức mang tính nhà nước, xã hội trực tiếp giáo dục thế hệ
trẻ; là tế bào cơ sở của hệ thống giáo dục từ trung ương đến địa phương. Vì vậy, nhà
trường là khách thể cơ bản của tất cả các cần quản lý, lại vừa là hệ thống độc lập, tự
quản. Do đó quản lý nhà trường vừa có tính nhà nước vừa có tính xã hội.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang cho rằng: “Quản lý nhà trường là quản lý hoạt
động dạy và học tức là làm sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái
khác để dần dần tiến tới mục tiêu giáo dục” [19; tr. 34]
Trong cuốn “Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục” tác giả
M.I.Kônđacôp đã viết: “Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh chúng ta hiểu QL
nhà trường (công việc nhà trường) là một hệ thống xã hội - sư phạm chuyên biệt, hệ
thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của chủ thể
quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, đảm bảo sự vận hành tối ưu về
mặt kinh tế - xã hội, tổ chức sư phạm của quá trình dạy học và giáo dục thế hệ đang
lớn lên”.[17; tr. 316]
20
Tóm lại: QL nhà trường là một bộ phận của QLGD. Thực chất của QL nhà
trường, suy cho cùng là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp quy
luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho nhà trường vận hành theo đúng đường lối và
nguyên lý giáo dục của Đảng, thể hiện các tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam
mà điểm hội tụ là quá trình giáo dục thế hệ trẻ.
Quản lý nhà trường là một hoạt động thực hiện trên cơ sở những quy luật
chung của quản lý, đồng thời có những nét riêng mang tính đặc thù của giáo dục.
Nhà trường là đối tượng cuối cùng và cơ bản của quản lý giáo dục, trong đó
đội ngũ giáo viên và học sinh là đối tượng quản lý quan trọng nhất, nhưng đồng thời
cũng là chủ thể trực tiếp quản lý quá trình giáo dục.
Như vậy, QL nhà trường chính là QL giáo dục trong một phạm vi xác định
đó là đơn vị giáo dục là nhà trường. Do đó QL nhà trường là vận dụng tất cả các
nguyên lý chung của QL giáo dục để đẩy mạnh mọi hoạt động cuả nhà trường theo
mục tiêu đào tạo. Bản chất quản lý nhà trường là quản lý hoạt động dạy và học, làm
sao đưa hoạt động đó từ trạng thái này sang trạng thái khác để dần dần tiến tới mục
tiêu giáo dục.
QL nhà trường khác với các quản lý xã hội khác, nó được quy định bởi bản
chất lao động sư phạm của người giáo viên, bản chất của quá trình dạy học và quá
trình giáo dục, trong đó mọi thành viên của nhà trường vừa là chủ thể quản lý vừa là
đối tượng QL. Sản phẩm của các hoạt động trong nhà trường là nhân cách người HS
được hình thành trong quá trình học tập, tu dưỡng và rèn luyện, phát triển theo yêu
cầu phát triển của xã hội. QL nhà trường là toàn diện với mục đích là để hình thành
nhân cách HS.
1.1.2. Quản lý hoạt động dạy học
1.1.2.1. Hoạt động dạy - học
Về mặt lịch sử, tri thức nhân loại luôn phát triển và mỗi ngày một hoàn thiện
hơn. Khái niệm dạy học cũng dần dần được mở rộng để thích ứng với những yêu
cầu về tiêu chuẩn nhân cách người học do mỗi hình thái xã hội quy định và để phù
hợp với sự phát triển của các phương thức dạy học. Khái niệm về hoạt động dạy học
đã được hình thành và phát triển từ cơ sở lý luận của quá trình giáo dục tổng thể.
Trong cuốn “Giáo dục học – tập 1”, tác giả Trần Thị Tuyết Oanh viết: “Dạy
học – là một quá trình dưới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của người giáo viên,
người học tự giác, tích cực, chủ động tự tổ chức, tự điều khiển hoạt động nhận thức
– học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy học”. (18, tr.139)
Như vậy, dạy học là khái niệm chỉ quá trình hoạt động chung của người dạy
và người học. Hoạt động dạy - học bao gồm hai hoạt động thống nhất biện chứng,
hoạt động dạy của GV và hoạt động học của HS. HĐDH là một hệ toàn vẹn gồm
hoạt động dạy và hoạt động học luôn luôn tương tác với nhau, thâm nhập vào nhau,
sinh thành ra nhau. Sự tương tác giữa dạy và học mang tính chất cộng tác trong đó
dạy giữ vai trò chủ đạo. Bản chất của hoạt HĐDH là sự thống nhất biện chứng của
dạy và học; nó được thực hiện trong và bằng sự tương tác có tính chất cộng đồng và
hợp tác (cộng tác) giữa dạy và học, tuân theo lôgíc khách quan của nội dung dạy
học. Như vậy dạy học là một chức năng xã hội, nhằm truyền đạt và lĩnh hội kiến
21
thức, kinh nghiệm xã hội đã tích lũy được, nhằm biến kiến thức, kinh nghiệm xã hội
thành phẩm chất và năng lực cá nhân.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng “Nói đến dạy học là nói đến hoạt động dạy
và học của thầy và trò trong nhà trường, với mục tiêu là giúp học sinh nắm vững hệ
thống kiến thức khoa học, hình thành hệ thống kỹ năng, kỹ xảo và thái độ tích cực
đối với học tập và cuộc sống” [ 25, tr.110].
Hoạt động dạy: Dạy là điều khiển quá trình học sinh chiếm lĩnh khái niệm
khoa học, bằng cách đó phát triển, hình thành nhân cách học sinh. Hoạt động dạy
giúp học sinh lĩnh hội tri thức, hình thành và phát triển nhân cách. Vai trò chủ đạo
của hoạt động dạy được biểu hiện với ý nghĩa là tổ chức và điều khiển hoạt động
học của trò, giúp trò nắm được kiến thức, hình thành kĩ năng, thái độ. Hoạt động
dạy có chức năng kép là truyền đạt và điều khiển. Nội dung, chương trình dạy học
tuân theo một quy định bắt buộc. Để đạt được mục đích, người dạy và người học
đều phải phát huy các yếu tố chủ quan của cá nhân để xác định nội dung, lựa chọn
phương pháp, tìm kiếm các hình thức, và các phương tiện dạy - học phù hợp.
Hoạt động học: Học là quá trình trong đó, dưới sự định hướng của người
dạy, người học tự giác, tích cực, độc lập, tiếp thu tri thức, kinh nghiệm từ môi
trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành cấu trúc
tâm lý mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn thiện. Cũng
như hoạt động dạy, hoạt động học có hai chức năng kép là lĩnh hội và tự điều khiển.
Nội dung của hoạt động học bao gồm toàn bộ hệ thống khái niệm của môn học,
bằng phương pháp đặc trưng của môn học, của khoa học đó, với phương pháp nhận
thức độc đáo, phương pháp chiếm lĩnh khoa học để biến tri thức của nhân loại thành
học vấn của bản thân. Hoạt động học của HS cần phải diễn ra trong mối quan hệ
thống nhất biện chứng với hoạt động dạy của thày, mối quan hệ này có thể diễn ra
trực tiếp hoặc gián tiếp tùy theo mức độ tự lực của người học, để đạt được mục đích
cuối cùng của người học, đó là: Nắm vững tri thức khoa học, phát triển tư duy và
hình thành thái độ, đạo đức, nhân cách và lý tưởng sống.
Hoạt động dạy- học mang tính chất hai chiều, gồm hoạt động dạy và hoạt
động học, đó là hai mặt của một quá trình luôn tác động qua lại và bổ sung cho
nhau, phối hợp chặt chẽ thống nhất với nhau giữa người dạy và người học. Hoạt
động dạy và học tồn tại song song và phát triển trong cùng một quá trình thống
nhất, chúng bổ sung cho nhau, chế ước nhau và là đối tượng tác động chủ yếu của
nhau nhằm kích thích động lực bên trong của mỗi chủ thể để cùng phát triển. Mối
quan hệ giữa hoạt động dạy và học được thể hiện ở sơ đồ 1.3 sau:
Hoạt động học
Hoạt động dạy
Truyền đạt
Điều khiển
HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
Tự điều khiển
Lĩnh hội
22
Sơ đồ 1.3: Hoạt động dạy học
Các hoạt động này có mục tiêu rõ ràng, có nội dung nhất định, do các chủ thể
thực hiện - đó là thầy và trò, với những phương pháp và phương tiện nhất định. Sau
một quá trình vận động, các hoạt động dạy và học phải đạt tới những kết quả mong
muốn. Hoạt động dạy và hoạt động học có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thể hiện
ở mối quan hệ tương tác giữa các thành tố: mục tiêu, nội dung, phương pháp của
hoạt động dạy và hoạt động học. Phân tích mối quan hệ giữa hoạt động dạy và hoạt
động học, chúng ta có thể đi đến kết luận: Hoạt động học, trong đó có hoạt động
nhận thức của học sinh có vai trò quyết định kết quả dạy học. Để hoạt động học có
kết quả thì trước tiên chúng ta phải coi trọng vai trò người giáo viên, giáo viên phải
xuất phát từ lôgíc của khái niệm khoa học, xây dựng công nghệ dạy học, tổ chức tối
ưu hoạt động cộng tác của dạy và học, thực hiện tốt các chức năng của dạy cũng
như của học, đồng thời bảo đảm liên hệ nghịch thường xuyên, bền vững. Vì vậy,
muốn nâng cao mức độ khoa học của việc dạy học ở trường phổ thông thì người
quản lý phải đặc biệt chú ý hoàn thiện hoạt động dạy của giáo viên; chuẩn bị cho họ
có khả năng hình thành và phát triển ở học sinh các phương pháp, cách thức phát
hiện lại các thông tin học tập. Đây là khâu cơ bản để tiếp tục hoàn thiện tổ chức
hoạt động học tập của học sinh trong nhà trường. Hoạt động DH làm cho HS nắm
vững tri thức khoa học một cách có hệ thống cơ bản, có những kỹ năng, kỹ xảo cần
thiết trong học tập, lao động và đời sống. Hoạt động này làm phát triển tư duy độc lập
sáng tạo, hình thành những năng lực cơ bản về nhận thức và hành động của HS, hình
thành ở HS thế giới quan khoa học, lòng yêu tổ quốc, yêu CNXH, đó chính là động cơ
học tập trong nhà trường và định hướng hoạt động của HS. Hoạt động DH là hoạt động
trung tâm chi phối tất cả các hoạt động khác trong nhà trường.
1.1.2.2. Quản lý hoạt động dạy học
Chúng ta đã biết, quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức của nhà quản lý
giáo dục tới khách thể giáo dục nhằm đạt tới mục tiêu quản lý. Nhà quản lý cùng
23
với đông đảo đội ngũ giáo viên, học sinh, các lực lượng xã hội, … bằng hành động
của mình biến mục tiêu đó thành hiện thực. Như vậy, quản lý hoạt động dạy - học
thực chất là những tác động của chủ thể quản lý vào quá trình dạy học (được tiến
hành bởi tập thể giáo viên và học sinh, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực lượng xã
hội) nhằm góp phần hình thành và phát triển toàn diện nhân cách học sinh theo mục
tiêu đào tạo của nhà trường.
Quản lý HĐDH là quản lý một quá trình xã hội, một quá trình sư phạm đặc
thù, nó tồn tại như là một hệ thống, bao gồm nhiều thành tố như: Mục đích và
nhiệm vụ DH, nội dung DH, phương pháp DH và phương tiện DH, thày với hoạt
động dạy, trò với hoạt động học tập và kiểm tra - đánh giá kết quả DH để điều chỉnh
cho hiệu quả ngày càng tốt hơn. Quản lý HĐDH là phải tổ chức thực hiện các
nhiệm vụ cơ bản sau đây:
+ Cụ thể hóa mục tiêu DH qua các nhiệm vụ DH nhằm nâng cao tri thức, kỹ
năng, bồi dưỡng thái độ và hình thành phát triển những năng lực, phẩm chất tốt đẹp
cho người học.
+ Quản lý việc xây dựng và thực hiện nội dung DH. Nội dung DH phải đảm
bảo bao gồm hệ thống những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mà người học cần phải nắm
vững trong quá trình học.
+ Quản lý hoạt động giảng dạy của GV (Biên soạn giáo trình, giáo án, chuẩn
bị đồ dùng DH, lên lớp, kiểm tra HS học tập).
+ Quản lý hoạt động học tập của HS (nề nếp, thái độ, kết quả học tập).
+ Quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho hoạt động DH.
1.2. Các nội dung của hoạt động dạy học trong nhà trường
Hoạt động dạy học trong giai đoạn hiện nay phải giải quyết được các mối
quan hệ giữa toàn cầu và cục bộ, giữa phổ biến và riêng lẻ, giữa truyền thống và
hiện đại, giữa sự phát triển phi thường về kiến thức và khả năng tiếp thu của con
người, giữa trí tuệ và vật chất. Mặt khác dạy học trong giai đoạn hiện nay cũng
phải đảm bảo được những yêu cầu đặt ra của những trụ cột trong giáo dục theo quan
điểm giáo dục của tổ chức UNESCO – Học để biết, Học để làm, Học để cùng chung
sống, Học để làm người – và thực hiện cho được triết lý Học suốt đời. Hoạt động
dạy học trong nhà trường bao gồm các nội dung như sau: mục tiêu dạy học và nội
24
dung chương trình dạy học, phương pháp dạy học, hoạt động dạy của giáo viên và
hoạt động học của học sinh, cơ sở vật chất, phương tiện dạy học.
1.2.1. Mục tiêu của hoạt động dạy học
Mục tiêu tổng quát: Từng bước hoàn thiện nhân cách người học, mà nhân
cách đó là chuẩn mực người lao động đáp ứng được các yêu cầu của cộng đồng, của
đất nước và của thời đại trong từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội.
Các mục tiêu cụ thể:
- Trang bị kiến thức: Người thầy có nhiệm vụ chọn lọc trong kho tàng tri
thức phong phú của nhân loại những tri thức vừa có tính lý luận vừa có tính thực
tiễn để tạo cho người học cơ sở nghiên cứu và khám phá các quy luật của tự nhiên
và xã hội. Phải lựa chọn nội dung dạy học phù hợp để người học đạt được các mục
tiêu học để biết, học để làm việc, học để cùng chung sống trong một cộng động, và
học để làm người có ích cho xã hội.
- Rèn luyện kỹ năng: Làm cho người học thành thạo trong việc phát hiện vấn
đề, lý giải được nguồn gốc của vấn đề, biết giải quyết sáng tạo và hiệu quả vấn đề;
đồng thời có thể ứng dụng kết quả nhận biết vấn đề vào xử lý các tình huống cụ thể
của cuộc sống.
- Hình thành thái độ: Người học phải có thái độ phân biệt được cái đúng, cái
sai, cái đã biết, cái chưa biết, cái gì cần cho bản thân, cho gia đình, cho xã hội. Từ
đó tự định hướng cho bản thân những lý tưởng và những hành động chân chính cần
thiết để thực hiện lý tưởng của mình.
1.2.2. Nội dung và chương trình dạy học
1.2.2.1. Nội dung dạy học
Nội dung dạy học là thành tố cấu trúc của quá trình dạy học, cùng với
phương pháp dạy học người dạy dẫn dắt người học đến được các mục đích dạy học
mong muốn. Nội dung dạy học là hệ thống kiến thức toàn diện về khoa học tự nhiên
và kỹ thuật, về xã hội và nhân văn, về tư duy và nghệ thuật cùng với các kỹ năng và
kỹ xảo cần trang bị cho người học. Nội dung dạy học được xây dựng trên cơ sở các
mục đích đã xác lập trước do xã hội, cộng đồng, và do cánhân người học quy định
một cách phù hợp với hoàn cảnh, nhu cầu và yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.2.2. Chương trình dạy học
Đó là việc sắp xếp khoa học những nội dung dạy học do các chuyên gia giáo
dục học, tâm lý học, xã hội học, điều khiển học và các nhà quản lý giáo dục… cùng
phối hợp nghiên cứu và ban hành. Chương trình và nội dung dạy học được thể hiện
25
trong giáo trình, sách giáo khoa, các sách tham khảo… và được thực hiện theo quy
định đã thống nhất cao.
1.2.3. Đội ngũ giáo viên
Sự phát triển như vũ bão của KH-CN, sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế
đã ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu của giáo viên trong hoạt động dạy
học. Giáo viên giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động dạy học. Chất lượng, nhân cách,
phẩm chất đạo đức và lý tưởng của đội ngũ này như thế nào sẽ ảnh hưởng to lớn và
trực tiếp đến sản phẩm mà họ đào tạo ra - đó chính là những con người - những
công dân xây dựng xã hội.
Nhà giáo dục học vĩ đại Cô-men-xki đã từng nói: “Dưới ánh mặt trời, không
có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học”, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định:
“Không có thầy giáo thì không có giáo dục không có giáo dục, không có cán bộ
thì không nói gì đến kinh tế - văn hoá” (1). Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
coi trọng sự nghiệp giáo dục, đào tạo. Người luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho
đội ngũ giáo viên và những người làm công tác giáo dục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: đội ngũ giáo viên luôn giữ một vị trí, vai trò
vô cùng quan trọng, họ là người quyết định thành công công cuộc xây dựng và đổi
mới nền giáo dục. “Không có thầy giáo thì không có giáo dục”, câu nói đó của
Người khẳng định vai trò không thể thay thế của người giáo viên trong sứ mệnh đào
tạo thế hệ trẻ. Người giáo viên phải có trí tuệ và tài năng mới có thể đào tạo được
những thế hệ công dân, cán bộ có tài cho xã hội. Người khuyên mọi người thực hiện
theo chỉ dẫn của Lê-nin “Học, học nữa, học mãi” để thường xuyên tự rèn luyện
mình, đồng thời lấy phương châm “Học không bao giờ biết chán, dạy người không
bao giờ biết mỏi” của Khổng Tử để thực hành trong công việc.
Sản phẩm của giáo dục, dạy học là con người, là thế hệ tương lai của dân tộc,
vì vậy, không được phép tạo ra “phế phẩm”. Một người công nhân tồi có thể làm
hỏng một vài sản phẩm, một người kỹ sư tồi có thể làm hỏng một vài công trình,
nhưng, một người giáo viên tồi có thể làm hỏng cả một thế hệ, đó là hậu quả khôn
lường mà cả xã hội phải gánh chịu cho đến tận mai sau. Chính vì vậy đội ngũ giáo
viên đóng vai trò quan trọng trong hoạt động dạy học, giữ vai trò chủ đạo trong việc
định hướng tổ chức và điều khiển hoạt động học của học sinh.
1.2.4. Học sinh