Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

Luận văn thạc sỹ - Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.6 KB, 113 trang )

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin trân trọng gửi lời
cảm ơn tới TS. Dương Thị Hoàng Yến, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, cán bộ, viên chức Học viện
quản lý giáo dục và Trung tâm đào tạo sau đại học - Bồi dưỡng nhà giáo và cán bộ
quản lý giáo dục đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập. Xin cảm ơn Ban giám hiệu và các thầy cô giáo trường Cao đẳng Cộng đồng Hà
Tây đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu.
Xin cảm ơn những người thân trong gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn
động viên, khích lệ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành luận văn.
Hà Nội, ngày 06 tháng 11 năm 2011
Tác giả
Hoàng Văn Trường
BẢNG KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CB : Cán bộ
CBQL : Cán bộ quản lý

:
Cao đẳng
CĐCĐ
:
Cao đẳng Cộng đồng
CNH
:
Công nghiệp hóa
CSVC
:
Cơ sở vật chất
ĐH
:


Đại học
GD&ĐT
:
Giáo dục và đào tạo
GDĐH
:
Giáo dục đại học
GV
:
Giảng viên
HĐH
:
Hiện đại hóa
KH&CN :
Khoa học và công nghệ
NCKH
:
Nghiên cứu khoa học
NXB
:
Nhà xuất bản
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu 3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 4
5. Phạm vi nghiên cứu 4
6. Giả thuyết khoa học 4
7. Phương pháp nghiên cứu 4

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC 6
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
1.2. Một số khái niệm cơ bản 10
1.2.1. Khoa học và nghiên cứu khoa học 10
1.2.2. Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên 15
1.3. Hiệu trưởng trường Cao đẳng, Đại học quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học của giảng viên 20
1.3.1. Giảng viên Cao đẳng, Đại học và hoạt động nghiên cứu khoa học 20
1.3.2. Nội dung quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên ở
trường Cao đẳng, Đại học 30
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên trường Cao đẳng và Đại học ở Việt Nam 38
1.4.1. Môi trường quản lý 38
1.4.2. Chủ thể quản lý 41
1.4.3. Đối tượng quản lý 41
Tiểu kết chương 1 42
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CỦA GIẢNG VIÊN Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG HÀ TÂY 43
2.1. Khái quát đặc điểm của trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây 43
2.2. Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên ở trường Cao
đẳng Cộng đồng Hà Tây 46
2.2.1. Thực trạng đội ngũ giảng viên tham gia nghiên cứu khoa học 48
2.2.2. Thực trạng cơ sở vật chất phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên 50
2.2.3. Thực trạng nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu khoa học
của giảng viên 51
2.2.4. Thực trạng những công trình nghiên cứu khoa học của giảng viên 54

2.2.5. Thực trạng hoạt động liên kết, hợp tác nghiên cứu khoa học của giảng
viên 55
2.2.6. Thực trạng hoạt động ứng dụng và chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa
học của giảng viên 56
2.2.7. Thực trạng Kiểm tra, đánh giá thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học
57
2.3. Thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên ở trường
Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây 58
2.3.1. Thực trạng quản lý nguồn nhân lực khoa học 59
2.3.2. Thực trạng quản lý sơ sở vật chất phục vụ hoạt động nghiên cứu khoa
học 61
2.3.3. Thực trạng quản lý nguồn kinh phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu
khoa học 62
2.3.4. Thực trạng quản lý hệ thống công trình nghiên cứu khoa học 65
2.3.5. Thực trạng quản lý hoạt động liên kết, hợp tác nghiên cứu khoa học 67
2.3.6. Thực trạng quản lý hoạt động ứng dụng và chuyển giao kết quả nghiên
cứu khoa học 68
2.3.7. Thực trạng quản lý thực hiện quy chế nghiên cứu khoa học của giảng
viên 70
2.4. Đánh giá thực trạng và các nguyên nhân 72
2.4.1. Đánh giá thực trạng 72
2.4.2. Nguyên nhân của những thành công và hạn chế 74
Tiểu kết chương 2 78
Chương 3
ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG CỘNG ĐỒNG HÀ TÂY 79
3.1. Nguyên tắc đề xuất biện pháp 79
3.1.1. Nguyên tắc dựa trên định hướng, chủ trương về nghiên cứu khoa học
trong trường Cao đẳng và Đại học 79

3.1.2. Nguyên tắc dựa vào năng lực, hiệu quả nghiên cứu khoa học trong Nhà
trường 80
3.1.3. Nguyên tắc kế thừa và phát triển 80
3.1.4. Nguyên tắc thống nhất giữa tính cần thiết và tính khả thi 80
3.1.5. Nguyên tắc tuân thủ đúng quy trình quản lý 81
3.1.6. Nguyên tắc công khai, minh bạch trong quản lý nghiên cứu khoa học. .81
3.2. Đề xuất hệ thống biện pháp quản lý quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học
của giảng viên trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây 81
3.2.1. Biện pháp 1: Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực
nghiên cứu khoa học cho đội ngũ cán bộ, giảng viên 81
3.2.2. Biện pháp 2: Tăng cường các nguồn lực cơ sở vật chất, kinh phí phục vụ
nghiên cứu khoa học 85
3.2.3. Biện pháp 3: Tăng cường thực hiện quy chế quản lý hoạt động nghiên
cứu khoa học, chú trọng đến chính sách khuyến khích, động viên giảng viên
nghiên cứu khoa học 88
3.2.4. Biện pháp 4: Tăng cường việc lưu trữ, phổ biến và giám sát các công
trình nghiên cứu khoa học 90
3.3. Mối liên hệ giữa các biện pháp 92
3.4. Khảo nghiệm nhận thức về tính cấp thiết và tính khả thi của hệ thống biện
pháp được đề xuất 94
3.4.1. Khảo nghiệm nhận thức về tính cấp thiết của các biện pháp quản lý đề
xuất 94
3.4.2. Đánh giá về tính khả thi của các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu
khoa học của giảng viên trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây 95
Tiểu kết chương 3 98
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 99
1. KẾT LUẬN 99
2. KHUYẾN NGHỊ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU, SƠ ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ

1. Danh mục các bảng số liệu
Bảng 2.1 Tổng hợp hệ thống công trình xây dựng của trường CĐCĐ Hà Tây
(tính đến tháng 12 năm 2011)
Bảng 2.2 Thực trạng hoạt động nghiên cứu khoa học của GV ở trường Cao
đẳng Cộng đồng Hà Tây
Bảng 2.3 Tổng hợp số lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ, GV trường CĐCĐ Hà Tây
(tính đến tháng 5 năm 2012)
Bảng 2.4 Bảng tổng hợp khinh phí NCKH của GV trường CĐCĐ Hà Tây
Bảng 2.5 Thống kê số lượng đề tài NCKH đã nghiệm thu của GV trường
CĐCĐ Hà Tây (từ 2009 -2011)
Bảng 2.6 Thực trạng quản lý nguồn nhân lực khoa học của Trường CĐCĐ Hà Tây
Bảng 2.7 Thực trạng quản lý CSVC phục vụ hoạt động NCKH
Bảng 2.8 Thực trạng quản lý kinh phí phục vụ hoạt động NCKH
Bảng 2.9 Thực trạng quản lý hệ thống công trình NCKH
Bảng 2.10 Thực trạng quản lý hoạt động liên kết, hợp tác NCKH
Bảng 2.11 Thực trạng quản lý hoạt động ứng dụng và chuyển giao kết quả
NCKH của Trường CĐCĐ Hà Tây
Bảng 2.12 Thực trạng quản lý thực hiện quy chế NCKH của Trường CĐCĐ Hà
Tây
Bảng 2.13 Các yếu tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động NCKH của GV
Bảng 2.14 Các yếu chủ quan ảnh hưởng đến hoạt động NCKH của GV
Bảng 3.1 Kết quả khảo nghiệm nhận thức về tính hiệu quả của các biện pháp
quản lý đề xuất
Bảng 3.2
Kết quả khảo nghiệm về tính khả thi của các biện pháp quản lý đề
xuất
Bảng 3.3 Khảo nghiệm về tính hiệu quả và khả thi của các biện pháp quản đề
xuất
2. Danh mục các sơ đồ
Sơ đồ 1.1 Bản chất hoạt động quản lý

Sơ đồ 1.2 Chu trình quản lý
3. Danh mục các biểu đồ
Biểu đồ 2.1 Mức độ nhận thức và thực hiện nhiệm vụ NCKH của GV trường
CĐCĐ Hà Tây
Biểu đồ 2.2 Kết quả đánh giá mức độ thực hiện hoạt động NCKH của CBQL và
GV trường CĐCĐ Hà Tây
Biểu đồ 2.3 Thái độ tham gia NCKH của GV trường CĐCĐ Hà Tây
Biểu đồ 2.4 Mức độ thực hiện quản lý đối với các nội dung quản lý về hoạt
động NCKH của GV trường CĐCĐ Hà Tây
Biểu đồ 3.1 Kết quả khảo nghiệm về tính hiệu quả và khả thi của các biện pháp
quản lý hoạt động NCKH của GV trường CĐCĐ Hà Tây CĐCĐ
Hà Tây
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tiến trình CNH, HĐH, ở mọi quốc gia trên thế giới đều quan tâm đến
chính sách phát triển giáo dục và GDĐH được coi là trụ cột cho sự phát triển kinh tế
– xã hội, là nhân tố cơ bản để xây dựng nền kinh tế tri thức. Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật này: GDĐH có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao,
có kỹ năng và bản lĩnh để đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH, phát
triển kinh tế – xã hội cho đất nước. Để thực hiện được nhiệm vụ trên thì việc đào
tạo gắn kết với NCKH và đẩy mạnh NCKH là một biện pháp tích cực, một xu
hướng được thực hiện phổ biến ở bậc đại học trên thế giới. Đào tạo và NCKH là hai
nhiệm vụ trọng tâm của GV ở trường CĐ, ĐH: “Theo truyền thống của giáo dục
đại học, giảng viên phải nghiên cứu khoa học mới có tri thức khoa học để truyển tải
đến người học và điều quan trọng hơn nữa là chỉ có nghiên cứu khoa học thì giảng
viên mới có thể dạy người học cách nghĩ, cách làm tức là phương pháp, kỹ năng và
kỹ thuật chuyên môn nghiệp vụ” [25, 197]. Hai nhiệm vụ này không tách rời nhau
mà kết hợp và thống nhất với nhau, có mối quan hệ tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau.
Vì vậy để nâng cao chất lượng đào tạo và uy tín của các trường CĐ, ĐH thì việc
nâng cao vị thế của NCKH và chất lượng nghiên cứu của GV là một trong những

giải pháp ưu tiên hàng đầu.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí, vai trò của
GD&ĐT, KH&CN đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Văn
kiện Đại hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ nhiệm vụ của ngành giáo
dục: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao tập
trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt
chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”.
[17].
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã họp Hội nghị lần thứ 6 để xem
xét, thảo luận về Đề án “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, định
1
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” và Đề án “Phát triển khoa học và công
nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Ban Chấp hành Trung
ương nhận định: “Chất lượng giáo dục và đào tạo nhìn chung còn thấp, nhất là đào
tạo đại học và dạy nghề chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Đào tạo chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng nhân lực. Công tác quản lý còn
nhiều bất cập. Hoạt động khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động lực
then chốt cho phát triển kinh tế - xã hội. Việc đào tạo, trọng dụng, đãi ngộ cán bộ
khoa học và công nghệ còn nhiều thiếu sót, bất cập. Đầu tư xã hội cho khoa học và
công nghệ còn thấp, hiệu quả chưa cao. Cơ chế quản lý hoạt động khoa học và
công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu; thị trường khoa học và công nghệ phát triển
chậm, chưa gắn kết chặt chẽ với kết quả nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo với nhu
cầu sản xuất, kinh doanh và quản lý”. [3]
Trên thế giới việc thực hiện NCKH là một trong những tiêu chí cơ bản để đánh
giá chất lượng của một trường ĐH, CĐ và từng GV. Ở Việt Nam, việc thực hiện
NCKH là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của các trường CĐ, ĐH và từng
GV. Điều này được quy định rất rõ trong điều lệ trường CĐ, ĐH và quy định Chế
độ làm việc của GV (ban hành kèm theo Quyết định số 64/2008/QĐ - BGD&ĐT)

theo đó thì hoạt động NCKH là một trong hai nhiệm vụ chính của GV. Từ những
văn bản chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và của Bộ Giáo dục - Đào tạo có thể khẳng
định hoạt động NCKH của GV có vai trò, ý nghĩa rất quan trọng đối với GV và các
trường CĐ, ĐH.
Mặc dù được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và Bộ Giáo dục - Đào
tạo, công tác NCKH của GV ở các trường CĐ, ĐH đến nay đã có những chuyển
biến tích cực nhưng công tác này vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập cần phải khắc
phục. Khi nhận định về giáo dục đại học Việt Nam trước yêu cầu đổi mới căn bản
và toàn diện, nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã nhận định: “Nói về
giáo dục đại học, người ta không thể cắt nghĩa nổi sự gia tăng ồ ạt về số lượng các
trường trong mấy năm vừa qua…Hơn nữa, không ít giáo sư/phó giáo sư vẫn phải
2
chạy sô, với số giờ dạy vượt xa mức quy định, thì làm gì có thời gian dành cho
nghiên cứu khoa hoc, mà nghiên cứu khoa học lại là yêu cầu bắt buộc ở cấp học
này?” [38, 10]. Hoạt động NCKH và chuyển giao công nghệ chưa tạo được sức hút
được cho là do các GV bị quá tải giờ giảng; CSVC phục vụ công tác NCKH nhìn
chung còn nghèo nàn; kinh phí ít; công tác quản lý và triển khai hoạt động này còn
nhiều bất cập, Trong các nguyên nhân trên thì nguyên nhân quản lý và triển khai
hoạt động NCKH được cho là nguyên nhân cơ bản.
Trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây trong những năm gần đây cũng đã có sự
quan tâm, đầu tư cho công tác NCKH và đã gặt hái được những thành công bước
đầu như: số lượng đề tài NCKH được đăng ký, triển khai và nghiệm thu hàng năm
đã tăng lên; tỷ lệ GV tham gia NCKH ngày càng cao; đầu tư của nhà trường cho
công tác NCKH cũng ngày một nhiều hơn. Bên cạnh những thành công nói trên,
hoạt động NCKH của nhà trường nói chung và của GV nói riêng vẫn còn không ít
bất cập, khó khăn và hạn chế cần được giải quyết. Để hoạt động NCKH của GV
cũng như của trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây có chất lượng, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo và uy tín của nhà trường thì một trong những bất cập, hạn
chế cần khắc phục và thay đổi đầu tiên là công tác quản lý hoạt động NCKH của
GV của nhà trường.

Xuất phát từ những lý do nêu trên, với tư cách là một người làm công tác quản
lý giáo dục tại trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây và là học viên cao học ngành
quản lý giáo dục tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học của giảng viên trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cở sở nghiên cứu lý luận và khảo sát, đánh giá thực trạng, đề tài đề xuất
hệ thống biện pháp quản lý hoạt động NCKH ở trường CĐCĐ Hà Tây nhằm góp
phần nâng cao chất lượng hoạt động NCKH của nhà trường, góp phần đáp ứng yêu
cầu đổi mới căn bản và toàn diện GDĐH.
3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên trường Đại học, Cao đẳng.
3.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của
giảng viên trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây và phân tích những nguyên
nhân dẫn tới thực trạng này.
3.3. Đề xuất hệ thống biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của GV
ở trường Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây.
4. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động NCKH ở trường CĐ, ĐH.
4.2. Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý hoạt động NCKH của GV trường
Cao đẳng Cộng đồng Hà Tây.
5. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu nội dung và biện pháp quản
lý hoạt động NCKH của GV trường CĐCĐ Hà Tây.
- Khách thể điều tra: 14 cán bộ lãnh đạo, quản lý, 71 GV; 05 nhân viên (phòng
thí nghiệm).
6. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, công tác quản lý hoạt động NCKH của GV trường Cao đẳng Cộng
đồng Hà Tây còn nhiều hạn chế, bất cập, do một số nguyên nhân như nhận thức còn

hạn chế, các nguồn lực chưa đáp ứng được yêu cầu, chính sách chưa động viên
khuyến khích GV nghiên cứu, vì vậy ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của Nhà
trường. Nếu đề xuất được một hệ thống biện pháp quản lý hoạt động NCKH của
GV hợp lý, khả thi thì sẽ tăng cường hiệu quả quản lý hoạt động NCKH của GV ở
trường CĐCĐ Hà Tây, từ đó góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau :
4
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, khái quát hóa
tài liệu nhằm xác lập cơ sở lý luận về quản lý hoạt động NCKH của GV trường
CĐ, ĐH.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra viết.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp chuyên gia.
- Phương pháp phỏng vấn sâu.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động.
7.3. Nhóm phương pháp xử lý thông tin
Sử dụng một số công thức toán học để xử lý số liệu điều tra thu thập được.
5
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC CỦA GIẢNG VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề
Các thành tựu nghiên cứu giáo dục đã thừa nhận quản lý giáo dục là nhân tố
then chốt đảm bảo cho sự thành công của giáo dục. Theo kinh nghiệm của các
trường đại học lớn trên thế giới thì việc đẩy mạnh nghiên cứu, gắn kết đào tạo và
nghiên cứu là vấn đề sống còn của trường CĐ, ĐH. Kết quả của NCKH là tiêu chí
để xếp hạng các trường ĐH trên thế giới. Hoạt động NCKH của GV nhằm phục vụ
hoạt động giảng dạy và hoạt động giảng dạy nhằm phổ biến các kết quả NCKH. Vì

vậy công tác quản lý hoạt động NCKH của trường CĐ, ĐH là nhân tố quan trọng có
tính quyết định đối với sự phát triển của nhà trường.
Phần lớn các trường CĐ, ĐH nước ngoài coi NCKH là hoạt động không thể
thiếu và là hoạt động tất yếu. Vì vậy, không có nhiều nghiên cứu riêng về quản lý
NCKH trong trường CĐ, ĐH mà những nghiên cứu về quản lý ĐH nói chung đều đề
cập đến hoạt động NCKH.
Từ nguồn tài liệu ít ỏi đó, trong quá trình thực hiện đề tài, tôi có tham khảo các
tác phẩm ít nhiều đề cập, nghiên cứu về vấn đề này.
Nhằm chỉ dẫn cho sinh viên, GV, các nhà quản lý trong công tác tổ chức, quản
lý và thực hiện NCKH một cách sáng tạo, một loạt các tác phẩm như: "Phương
pháp luận khoa học giáo dục" của Phạm Minh Hạc (Chủ biên), "Phương pháp luận
nghiên cứu khoa học" của Vũ Cao Đàm, "Phương pháp luận nghiên cứu khoa học"
của Lưu Xuân Mới, "Phương pháp luận nghiên cứu khoa học" của Phạm Viết
Vượng,… nhằm giúp cho người nghiên cứu có cách tiếp cận đúng trong việc thiết
kế công trình NCKH, tìm chọn phương pháp nghiên cứu phù hợp, tổ chức nghiên
cứu hợp lý,…để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu và đạt mục đích nghiên cứu. Các
tác phẩm này chủ đề cập đến vấn đề NCKH, còn nội dung quản lý NCKH chưa
được đề cập đến.
6
Tạp chí Giáo dục đã đăng tải một số công trình nghiên cứu và bài viết về hoạt
động NCKH ở GDĐH với các cách tiếp cận khác nhau như: “Nghiên cứu khoa học
góp phần đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo đại
học” của TS. Đỗ Thị Châu - Tạp chí giáo dục số 96/2004; “Nghiên cứu khoa học
giáo dục trong giai đoạn tới” của PGS.TS. Nguyễn Hữu Châu - Tạp chí giáo dục số
98/2004; “Logic nội dung và các nhiệm vụ nghiên cứu đề tài khoa học về giải pháp
quản lý giáo dục” của TS. Nguyễn Phúc Châu - Tạp chí giáo dục số143(kỳ I)/2006;
“Khảo sát thực trạng quản lý nghiên cứu khoa học trong Đại học đa ngành, đa lĩnh
vực” của Lê Yên Dung - Tạp chí Giáo dục số 211/2009… Các bài viết này đã đề
cập đến vai trò, ý nghĩa của NCKH đối với việc đổi mới phương pháp giảng dạy
nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đại học, chỉ ra nội dung, nhiệm vụ và

định hướng nghiên cứu khoa học giáo dục. Tuy nhiên, các nghiên cứu trên chỉ dừng
lại ở các nghiên cứu công bố trên các tạp chí cho nên chưa làm rõ được thực trạng
và đưa ra những giải pháp cụ thể để góp phần nâng cao công tác quản lý hoạt động
NCKH trong các trường ĐH, CĐ.
Về các công trình nghiên cứu, vấn đề quản lý hoạt động NCKH của GV đã và
đang được tiến hành nghiên cứu như: “Nghiên cứu các giải pháp đẩy mạnh hoạt
động khoa học, công nghệ của các trường Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp"
(Nguyễn Đức Trí chủ nhiệm); “Nghiên cứu những biện pháp để phát triển và nâng
cao hiệu quả hoạt động khoa học, công nghệ và lao động sản xuất trong nhà
trường” (Vũ Tiến Thành chủ nhiệm); “Điều tra đánh giá hiện trạng tiềm lực khoa
học và công nghệ của các trường đại học và cao đẳng Việt Nam” (Thân Đức Hiền
chủ nhiệm),… cũng đã phân tích thực trạng và đưa ra những giải pháp để đẩy mạnh
và nâng cao hiệu quả hoạt động NCKH. Những nghiên cứu này mới chỉ đưa ra
những giải pháp nói chung cho tất cả các trường và nội dung quản lý hoạt động
NCKH chưa được đề cập nhiều.
Một số luận văn thạc sĩ “Các biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa
học của trường Cao đẳng sư phạm Hưng Yên” (2005) của Đỗ Thị Nhung; “Một số
biện pháp cải tiến công tác quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của GV trường
Cao đẳng Sư phạm Nghệ An” (2006) của Trần Văn Phước; “Một số biện pháp quản
7
lý hoạt động nghiên cứu khoa học của GV trường Cao đẳng sư phạm Điện Biên”
(2007) của Lê Thị Tuyết; “Biện pháp tăng cường công tác quản lý hoạt động
nghiên cứu khoa học ở trường Cao đẳng Sư phạm Lạng Sơn” (2008) của Vũ Thị
Lan Anh… cũng đã đề cập đễn công tác quản lý hoạt động NCKH ở các trường CĐ,
ĐH. Trong đó, các tác giả luận văn đã xây dựng cơ sở lý luận của vấn đề quản lý
hoạt động NCKH ở trường Cao đẳng Sư phạm, chỉ ra thực trạng các biện pháp quản
lý hoạt động NCKH và đưa ra những nhóm giải pháp tăng nhằm cường công tác
quản lý hoạt động NCKH của GV Trường CĐSP cụ thể có đặc thù riêng.
Từ góc độ nghiên cứu bình đẳng giới, luận án tiến sĩ "Cơ sở lý luận và thực
tiễn quản lý hoạt động NCKH ở các trường đại học Việt Nam theo hướng bình đẳng

giới " của Nguyễn Thị Tuyết (năm 2009) đã tập trung nghiên cứu vai trò và vị thế
của cán bộ nữ trong hoạt động NCKH ở một số trường ĐH Việt Nam. Trên cơ sở
phân tích các vấn đề lý luận về quản lý, về giới và về hoạt động NCKH, luận án đã
xây dựng luận cứ khoa học để nghiên cứu về quản lý hoạt động NCKH theo định
hướng bình đẳng giới, đánh giá thực trạng về quản lý hoạt động NCKH ở các
trường đại học theo tiếp cận bình đẳng giới. Luận án đã xác định được những
nguyên nhân, yếu tố ảnh hưởng và các điều kiện tăng cường tham gia NCKH của
cán bộ nữ. Luận án dự báo được các yếu tố cá nhân ảnh hưởng có ý nghĩa đến hoạt
động NCKH, tác giả đã chỉ ra các yếu tố về giới, tuổi và đặc biệt là yếu tố về trình
độ học vị là những yếu tố ảnh hưởng có ý nghĩa đến việc tham gia NCKH của cán
bộ nữ. Luận án đã đề xuất ba nhóm giải pháp quản lý nhằm tăng cường bình đẳng
giới trong quản lý hoạt động NCKH ở các trường đại học Việt Nam, đó là nhóm
giải pháp tác động vào chính sách và cơ chế thực hiện; nhóm giải pháp tác động vào
chiến lược của các trường đại học và nhóm giải pháp tác động vào việc tham gia và
hỗ trợ tham gia NCKH. Trong đó nhóm giải pháp tác động vào chiến lược của các
trường đại học được coi là nhóm giải pháp mang tính đột phá. Luận án khuyến nghị
kết quả thu được của luận án giúp cho các nhà quản lý, hoạch định chính sách của
ngành, các trường đại học có một hình dung toàn cảnh về bức tranh NCKH của cán
8
bộ nữ và hướng giải quyết nhằm nâng cao vai trò vị thế của cán bộ nữ trong hoạt
động này.
Trên quan điểm tiếp tiếp cận hệ thống, tiếp cận phát triển và tiếp cận mục tiêu
luận án tiến sĩ "Mô hình quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học trong đại học đa
ngành, đa lĩnh vực" của Lê Yên Dung (năm 2010) đã tập trung nghiên cứu để tìm ra
phương thức tổ chức, cơ chế vận hành, giải pháp tác động,… cho mô hình quản lý
NCKH ở các trường ĐH đa ngành đa lĩnh vực ở Việt Nam. Cơ sở lý luận của luận
án được xây dựng trên quan điểm quản lý chất lượng tổng thể, đó là xây dựng mô
hình cấu trúc chức năng quản lý hoạt động NCKH ở đại học đa ngành, đa lĩnh vực.
Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực trạng mô hình và quy trình quản lý nghiên
cứu khoa học, quy trình quản lý đề tài, nguồn nhân lực quản lý ở đại học đa ngành,

đa lĩnh vực, tác giả đề xuất mô hình quản lý và 4 nhóm giải pháp với các giải
pháp cụ thể để triển khai mô hình trên các mặt: tổ chức, chính sách, tăng cường
quản lý chất lượng và phát triển nguồn nhân lực quản lý. Kết quả nghiên cứu của
tác giả cho thấy việc vận dụng mô hình quản lý hoạt động NCKH ở đại học đa
ngành, đa lĩnh vực theo quan điểm quản lý chất lượng tổng thể là phù hợp và góp
phần nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học nói riêng, phát triển và
nâng cao vị thế trường đại học nói chung.
Nhìn chung, các tác giả trên đã có những đóng góp đáng kể cho nghiên cứu lý
luận và thực tiễn quản lý hoạt động NCKH ở các trường CĐ, ĐH. Các tác giả đều đề
cao vai trò của NCKH đối với việc nâng cao chất lượng đào tạo trong các nhà trường.
Mỗi đề tài nghiên cứu trên một phạm vi, thời gian, đối tượng GV và sinh viên khác
nhau gắn với một nhà trường cụ thể. Có thể nói ở Việt Nam, chưa có một công trình
nghiên cứu nào giải quyết tương đối đầy đủ và cụ thể vấn đề quản lý hoạt động
NCKH ở trường CĐ, ĐH. Hơn nữa, vấn đề quản lý hoạt động NCKH ở nhóm các
trường Cao đẳng Cộng đồng vẫn chưa được tác giả nào đề cập tới. Vì vậy, vấn đề
này cần phải tiếp tục được nghiên cứu, phát triển và hoàn thiện nhằm góp phần
9
nâng chất lượng đào tạo và đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐH hiện
nay.
Kế thừa những thành quả nghiên cứu của các tác giả đi trước, đề tài xác định
mảng nghiên cứu về quản lý hoạt động NCKH ở trường CĐ, ĐH nói chung và của
trường Cao đẳng Cộng đồng nói riêng cần được tiếp tục đặt ra, triển khai nghiên
cứu trong bối cảnh giáo dục Việt Nam đang có nhiều thách thức và đòi hỏi phải đổi
mới căn bản và toàn diện để từng bước nâng cao chất lượng GDĐH.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Khoa học và nghiên cứu khoa học
1.2.1.1. Khái niệm khoa học
Trước tiên, cần xác định khái niệm khoa học. Khoa học là một khái niệm có
nội hàm phức tạp, tùy theo mục đích nghiên cứu và cách tiếp cận, có thể phân tích ở
nhiều khía cạnh khác nhau. Hiện nay, có nhiều cách hiểu về khái niệm khoa học

xuất phát từ nhiều cách tiếp cận và mức độ khác nhau.
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc - UNESCO
(United Nations Educational Scientific and Cultural organization) thì “Khoa học là
hệ thống tri thức về mọi loại quy luật của vật chất và sự vận động của vật chất,
những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy”. [15, 12]. Định nghĩa này được giới
nghiên cứu trên thế giới thừa nhận.
Trong Luật Khoa học và Công nghệ 2000, điều 2, khoản 1 định nghĩa như sau:
“Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã
hội và tư duy.” [31, 7]
Theo Đại bách khoa toàn thư Liên Xô thì: “Khoa học là hệ thống các tri thức
về tự nhiên, xã hội và tư duy, về những quy luật phát triển khách quan của tự nhiên,
xã hội và tư duy, hệ thống tri thức này được hình thành trong lịch sử và không
ngừng phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội” [41,10]
Theo tác giả Lưu Xuân Mới thì: Khoa học là hệ thống những tri thức được hệ
thống hóa, khái quát hóa từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm; nó phản ánh
dưới dạng lôgic, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những cấu trúc, những
10
mối liên hệ bản chất, những quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; đồng thời khoa
học còn bao gồm hệ thống tri thức về những biện pháp tác động có kế hoạch đến
thế giới xung quanh, đến sự nhận thức và làm biến đổi thế giới đó phục vụ cho lợi
ích con người.[24, 11].
1.2.1.2. Nghiên cứu khoa học
Cũng như khái niệm khoa học, khái niệm NCKH cũng có nhiêu quan niệm
theo nhiều góc độ khác nhau.
Theo Vũ Cao Đàm: "Nghiên cứu khoa học là hoạt động xã hội, hướng vào việc
tìm kiếm những điều mà khoa học chưa biết, hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát
triển nhận thức khoa học về thế giới, hoặc là sáng tạo phương pháp mới để cải tạo
thế giới. [14, 20]
Lưu Xuân Mới quan niệm: “Nghiên cứu khoa học là quá trình nhận thức chân
lý khoa học, một hoạt động trí tuệ đặc thù bằng những phương pháp nghiên cứu

nhất định để tìm kiếm, để chỉ ra một cách chính xác và có mục đích những điều mà
con người chưa biết đến (hoặc biết chưa đầy đủ) tức là tạo ra sản phẩm mới dưới
dạng tri thức mới có giá trị mới về nhận thức hoặc phương pháp.” [ 24, 25].
Tác giả Phạm Viết Vượng-Nguyễn Xuân Thức cho rằng: “Bản chất của
nghiên cứu khoa học là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học, tạo ra hệ thống
tri thức có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới”.[41,22]
Với quan niệm về bản chất của NCKH là hoạt động sáng tạo, thì sản phẩm của
NCKH chính là hệ thống thống thông tin mới về thế giới và những giải pháp cải tạo
thế giới. Sản phẩm khoa học luôn được kế thừa, hoàn thiện và bổ sung theo sự phát
triển của xã hội loài người và tiệm cận tới chân lý khách quan. Các sản phẩm
NCKH có thể được chia thành các loại khác nhau.
Theo tác giả Phạm Viết Vượng - Nguyễn Xuân Thức, căn cứ vào trình độ nhận
thức khoa học của loài người, có thể phân chia các loại hình NCKH thành 4 loại
hình nghiên cứu:
(1) Nghiên cứu cơ bản: là loại hình nghiên cứu nhằm mục tiêu tìm tòi, sáng tạo
ra những tri thức mới, những giá trị mới cho nhân loại.
11
(2) Nghiên cứu ứng dụng: là loại hình nghiên cứu nhằm tìm ra cách vận động
những tri thức cơ bản để tạo ra những quy trình công nghệ mới, những nguyên lý
mới trong quản lý kinh tế và xã hội.
(3) Nghiên cứu triển khai: là loại hình nghiên cứu nhằm tìm khả năng áp dụng
đại trà các kết qủa nghiên cứu ứng dụng vào thực tế sản xuất và đời sống xã hội, tạo
ra các mô hình chế biến thông tin khoa học thành sản phẩm tinh thần hay vật chất.
(4) Nghiên cứu dự báo: là loại hình nghiên cứu nhằm phát hiện những triển
vọng, những khả năng, những xu hướng mới của sự phát triển khoa học và thực
tiễn. Nghiên cứu dự báo dựa trên các quy luật và tốc độ phát triển của khoa học hiện
đại, trên các cơ sở tiềm lực khoa học quốc gia và thế giới. Nghiên cứu dự báo dựa
trên kết quả phân tích và tổng hợp một số lượng lớn các thông tin khách quan về
thành tựu của khoa học, đồng thời dựa vào nhu cầu và khả năng phát triển của cuộc
sống xã hội hiện tại. Các dự báo bao gồm:

- Những thành tựu của khoa học và thực tiễn có thể đạt được trong tương lai
- Những xu hướng, trường phái khoa học, những chương trình khoa học mới,
những khả năng phát triển của những xu hướng đó.
- Những khả năng hình thành các tổ chức khoa học mới và những triển vọng
của sự phát triển tiềm lực khoa học quốc gia và quốc tế. [41,25-27]
Tác giả Vũ Cao Đàm khi bàn về phân loại nghiên cứu khoa học, căn cứ vào
chức năng nghiên cứu, chia làm bốn loại:
(1) Nghiên cứu mô tả: là những nghiên cứu nhằm đưa ra một hệ thống tri thức
về nhận dạng một sự vật, đánh giá một sự vật.
(2) Nghiên cứu giải thích: là những nghiên cứu nhằm giải thích nguồn gốc,
động thái, cấu trúc, tương tác, hậu quả, quy luật chung chi phối quá trình vận động
của sự vật.
(3) Nghiên cứu giải pháp: là những nghiên cứu nhằm tạo ra các giải pháp, có
thể là giải pháp công nghệ, giải pháp tổ chức và quản lý.
12
(4) Nghiên cứu dự báo: là những nghiên cứu nhằm nhận dạng trạng thái của sự
vật trong tương lai và con đường đi đến tương lai đó, thường là thời hạn trên 5 năm.
[14, 39]
Luật Khoa học và Công nghệ (2000), điều 2, khoản 4 định nghĩa: “Nghiên cứu
khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn.
Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng.” [31, 7]
Như vậy, có thể nói rằng: NCKH là hoạt động có kế hoạch, có tổ chức của
các nhà khoa học hướng vào việc tìm kiếm những điều mà con người chưa biết hoặc
là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về thế giới, hoặc là sáng
tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để cải tạo thế giới.
Bản chất của NCKH là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận
thức thế giới, tạo ra hệ thống tri thức để sử dụng vào cải tạo thế giới:
- Chủ thể của NCKH là các nhà khoa học với những phẩm chất trí tuệ và tài
năng vượt trội. Sự sáng tạo khoa học thường được bắt đầu từ một ý tưởng của cá

nhân và sau đó được sự hỗ trợ, hợp tác nghiên cứu của một tập thể, theo ý tưởng
định hướng của người chủ trì. Vì vậy có thể nói chủ thể NCKH vừa là cá nhân vừa
là tập thể.
- Khách thể của NCKH là các sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã hội và tư duy
mà nhà khoa học nghiên cứu để khám phá, sáng tạo ra tri thức khoa học.
- Đối tượng của NCKH là tri thức khoa học. Tri thức khoa học là “kết quả của
quá trình nhận thức có mục đích, có kế họach, có phương pháp và phương tiện đặc
biệt, do đội ngũ các nhà khoa học thực hiện.”[40,16].
1.2.1.3. Khái niệm hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
Theo một cách chung nhất hoạt động NCKH là tất cả các hoạt động có hệ
thống liên quan chặt chẽ đến việc sản xuất, nâng cao, truyền bá và ứng dụng các
kiến thức KHCN.
Theo tác giả Lê Yên Dung thì: "Hoạt động nghiên cứu khoa học là loại hình
lao động đặc biệt, được tiến hành bởi các nhà khoa học, thông qua hệ thống các
13
phương pháp, các phương tiện kỹ thuật phù hợp nhằm phát hiện những hiểu biết
mới mang tính quy luật, tạo ra sản phẩm mới phục vụ cho mục tiêu hoạt động của
con người." [13, 27].
Tùy theo mục tiêu nghiên cứu và các sản phẩm thu được sau nghiên cứu mà
người ta chia thành những loại hình NCKH khác nhau. NCKH thông thường gồm
những loại hình sau: (1) Nghiên cứu cơ bản là hoạt động nghiên cứu nhằm phát hiện
bản chất và quy luật của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, con người,
nhờ đó làm thay đổi nhận thức của con người; (2) Nghiên cứu ứng dụng là hoạt
động nghiên cứu vận dụng các quy luật đã được phát hiện từ nhgiên cứu cơ bản để
giải thích sự vật, tạo dựng các nguyên lý công nghệ mới, nguyên lý sản phẩm mới
và nguyên lý dịch vụ mới, áp dụng chúng vào sản xuất và đời sống; (3) Nghiên cứu
triển khai là hoạt động nghiên cứu vận dụng các quy luật (thu được từ nghiên cứu
cơ bản) và các nguyên lý công nghệ hoặc nguyên lý vật liệu (thu được từ nghiên
cứu ứng dụng) để đưa ra những hình mẫu về một phương diện kỹ thuật mới, sản
phẩm mới, dịch vụ mới với những tham số đủ mang tính khả thi về mặt kỹ thuật; (4)

Nghiên cứu thăm dò là hoạt động nghiên cứu nhằm xác định hướng nghiên cứu, là
dạng thăm dò thị trường để tìm kiếm cơ hội nghiên cứu"[24, 31-37]
Vì vậy, hoạt động NCKH học của GV là hoạt động nghiên cứu trong chức
trách của GV bao gồm tất cả các hoạt động phát hiện hoặc tích hợp các kiến thức có
thể đóng góp cho kho tàng kiến thức của nhân loại hoặc cho chính bản thân GV,
giúp họ có hiểu biết sâu hơn, rộng hơn về chuyên ngành đang giảng dạy hoặc tìm ra
những kiến thức tổng hợp, liên ngành. NCKH của GV cũng giống như NCKH nói
chung là nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của con người. Một cách cụ thể hơn,
NCKH là nhằm tìm ra lời giải cho một tình huống có vấn đề, lời giải đó có thể là
một thông tin, một phương pháp, mà trước đó chưa có.
* Đặc điểm hoạt động NCKH của giảng viên:
+ Ngoài những tác nhân tạo động lực nghiên cứu giống với NCKH nói chung,
nghiên cứu của GV còn được thúc đẩy bởi thực tiễn giảng dạy của họ. Nhu cầu
14
nâng cao chất lượng giảng dạy chuyên ngành là một trong những động lực đối với
hoạt động NCKH của GV. NCKH của GV gắn liền với hoạt động giảng dạy của họ;
+ Hoạt động NCKH của GV được thực hiện đồng thời với những hoạt động
khác thuộc chức trách GV. Do đó, khi thực hiện NCKH, người GV gặp những khó
khăn về điều kiện thực hiện. Nếu như định mức lao động NCKH trong quy định về
chế độ làm việc của GV không được quan tâm thoả đáng, hoặc tăng tỷ trọng các
hoạt động khác trong chế độ làm việc của GV đều có thể gây ra các khó khăn đối
với hoạt động NCKH của GV;
+ Nghiên cứu khoa học của GV còn có mục đích giáo dục. Bởi lẽ, việc tìm lời
giải cho tình huống có vấn đề là một loại lao động cao cấp mang tính giáo dục cao
do nó phải tuân theo những yêu cầu nghiêm ngặt để đảm bảo tính khách quan, tính
chính xác và sáng tạo. Như vậy, ngoài những kết quả NCKH (lời giải cho tình
huống có vấn đề) mà GV thu được, người GV còn rèn luyện được nhiều phẩm chất
và năng lực phù hợp với mục tiêu đào tạo mà họ có trách nhiệm và vai trò quan
trọng trong quá trình thực hiện. Điều này khiến cho GV thực sự là tấm gương về
nhân cách và NCKH đối với sinh viên. [30,20]

Từ những phân tích trên, khái niệm hoạt động NCKH của GV trong luận văn
này được hiểu là: hoạt động nghiên cứu có kế hoạch, có tổ chức, trong chức
trách của GV nhằm tìm kiếm những tri thức khoa học hoặc là sáng tạo phương
pháp mới và phương tiện kỹ thuật mới để phục vụ lợi ích của con người, thông
qua hệ thống các phương pháp, các phương tiện kỹ thuật phù hợp.
1.2.2. Biện pháp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học của giảng viên
1.2.2.1. Quản lý
Quản lý là một trong những loại hình hoạt động quan trọng nhất của con người
và là một nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội. Quản lý trở thành một hoạt
động phổ biến, diễn ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi cấp độ và liên quan đến mọi
người. Nghiên cứu về quản lý sẽ giúp cho con người có được những kiến thức cơ
bản nhất, chung nhất đối với các hoạt động quản lý.
15
Ngày nay, khái niệm quản lý đã trở nên phổ biến, nhưng chưa có một định
nghĩa thống nhất. Có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm quản lý theo những
góc độ và cách tiếp cận khác nhau.
Frederick Winslow Taylor (1856 – 1915) người Mỹ, cha đẻ của Thuyết quản lý
khoa học cho rằng: "Quản lý là biết chính xác điều mình muốn người khác làm và
sau đó thấy được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất".
Henry Fayol (1841 - 1925) người Pháp, đại diện tiêu biểu cho "Thuyết quản lý
hành chính" định nghĩa: "Quản lý là sự dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức, điều
khiển, phối hợp và cuối cùng là kiểm tra". [20, 20]
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: "Quản lý là tác động có mục đích, có kế
hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động nói chung là khách
thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến" [28, 45]
Theo tập thể tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo: “Quản
lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản
lý nhằm đạt mục tiêu đề ra” [20,12].
Theo Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc
huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân

lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu
nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất." [23, 8]
Khái quát lại có thể nói rằng: Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng
đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý trong việc huy động, phát huy, kết
hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực một cách tối ưu nhằm đạt mục
đích đề ra.
Bản chất của quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến
khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Chủ thể quản lý với những công
cụ, phương pháp quản lý tác động tới khách thể quản lý những nội dung quản lý để
thực hiện mục tiêu quản lý.
Ta có thể biểu diễn bản chất hoạt động quản lý qua sơ đồ 1.1.
16
Sơ đồ 1.1: Bản chất hoạt động quản lý
* Chức năng của quản lý
Chức năng quản lý là hình thái biểu hiện sự tác động có mục đích của chủ
thể quản lý đến đối tượng quản lý. Trong quản lý, chức năng quản lý là một phạm
trù quan trọng, mang tính khách quan, có tính độc lập tương đối. Chức năng quản
lý nảy sinh và kết quả của quá trình phân công lao động, là bộ phận tạo thành hoạt
động quản lý tổng thể, được tách riêng, có tính chất chuyên môn hóa. [23, 79]
Các nhà nghiên cứu về quản lý đã đưa ra nhiều ý kiến khác nhau về số lượng
các chức năng quản lý. Song, hầu hết đều đề cập đến bốn chức năng chủ yếu sau:
- Lập kế hoạch: Là chức năng cơ bản nhất trong các chức năng quản lý, là cái
khởi điểm của một chu trình quản lý. Lập kế hoạch là quá trình bao gồm: việc xây
dựng mục tiêu cho tổ chức; xác định chương trình hành động để đạt được mục tiêu;
xác định các nguồn lực và các biện pháp hoạt động để đạt được mục tiêu đề ra. Căn
cứ thực trạng của tổ chức và căn cứ vào mục tiêu cần phải hướng tới để cụ thể hoá
bằng những nhiệm vụ của tổ chức trong từng thời kỳ, từng giai đoạn. Từ đó tìm ra
con đường, biện pháp đưa đơn vị đạt được mục tiêu. Để thực hiện được chức năng
lập kế hoạch nhà quản lý phải làm thế nào để cho mọi thành viên trong tổ chức biết
nhiệm vụ của mình, biết phương pháp hoạt động nhằm thực hiện có hiệu quả mục

tiêu của tổ chức.
- Tổ chức: Chức năng tổ chức trong quản lý là việc xây dựng vai trò, nhiệm vụ,
cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, các bộ phận và sắp xếp, phân bổ các
17
Mục tiêu quản lýKhách thể quản lý
Công cụ quản lý
Chủ thể quản lý
Phương pháp quản lý
nguồn lực cho từng bộ phận, từng thành viên trong tổ chức nhằm bảo đảm cho họ
có thể thực hiện thành công nhiệm vụ của mình qua đó góp phần thực hiện được
mục tiêu của tổ chức. Từ đó, chủ thể quản lý tác động đến đốí tượng quản lý một
cách có hiệu quả bằng cách điều phối các nguồn lực của tổ chức như nhân lực, vật
lực và tài lực. Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức phải đảm bảo các
yêu cầu: tính tối ưu, tính linh hoạt, độ tin cậy và tính kinh tế.
- Chỉ đạo: Là phương thức tác động của chủ thể quản lý nhằm điều hành tổ
chức - nhân lực đã có của đơn vị vận hành theo đúng kế hoạch đã vạch ra. Trong
chức năng chỉ đạo, chủ thể quản lý phải trực tiếp ra quyết định (mệnh lệnh) cho
nhân viên dưới quyền và hướng dẫn, quan sát, giúp đỡ, động viên để thuyết phục,
thúc đẩy họ hoạt động đạt được các mục tiêu của tổ chức bằng nhiều biện pháp khác
nhau. Sau khi lập kế hoạch và tổ chức bộ máy, chủ thể quản lý phải điều khiển hệ
thống hoạt động, chỉ dẫn, giúp đỡ các thành viên và các bộ phận trong hệ thống
thực hiện nhiệm vụ nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Đây là quá trình sử dụng quyền
lực quản lý để tác động đến các đối tượng bị quản lý (các thành viên, các bộ phận)
một cách có chủ đích nhằm phát huy hết tiềm năng của họ hướng vào việc đạt mục
tiêu chung của tổ chức.
- Kiểm tra: Là hoạt động của chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý
thông qua một cá nhân, một nhóm hay tổ chức để xem xét thực tế, đánh giá, giám
sát thành quả hoạt động, đồng thời uốn nắn, điều chỉnh các sai lệch nhằm thúc đẩy
hệ thống đạt được mục tiêu đã định. Để tiến hành kiểm tra, cần phải có các tiêu
chuẩn, nội dung và phương pháp kiểm tra, dựa trên các nguyên tắc khoa học để hình

thành hệ thống kiểm tra thích hợp. Nhà quản lý phải thu thập thông tin từ các bộ
phận và các thành viên trong tổ chức để xem xét, đánh giá, kịp thời phát hiện những
sai sót và điều chỉnh. Đồng thời nhà quản lý phải tìm ra nguyên nhân của thành
công và thất bại để rút ra bài học kinh nghiệm cho quá trình quản lý tiếp theo. Quá
trình kiểm tra gồm ba bước như sau:
- Xây dựng các tiêu chuẩn (những chỉ tiêu thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ).
- Đo đạc việc thực hiện.
- Điều chỉnh các sai lệch nhằm làm cho toàn bộ hệ thống đạt mục tiêu đã định.
18
Tất cả các chức năng trên đều cần đến yếu tố thông tin. Thông tin chính xác,
đầy đủ, kịp thời và cập nhật là một căn cứ quan trọng để lập kế hoạch; thông tin
giúp các bộ phận trong tổ chức tương tác với nhau một cách hiệu quả nhất; thông tin
giúp nhà quản lý chuyền tải mệnh lệnh chỉ đạo (thông tin xuôi) và nhận phản hồi
(thông tin ngược) về hoạt động của tổ chức; và thông tin rất cần thiết để nhà quản lý
xem xét mức độ đạt mục tiêu của toàn bộ tổ chức (kiểm tra).
Các chức năng trên lập thành chu trình quản lý (xem sơ đồ 1.2). Chủ thể
quản lý khi triển khai hoạt động quản lý đều phải thực hiện chu trình này.
Sơ đồ 1.2: Chu trình quản lý [23, 80]
Tóm lại, chức năng quản lý là một trong những vấn đề cơ bản của lý luận
quản lý, giữ vai trò trọng yếu trong thực tiễn quản lý. Thực hiện đầy đủ các chức
năng quản lý và các giai đoạn của chu trình quản lý là cơ sở đảm bảo cho hệ thống
được quản lý một cách có hiệu quả mà trong đó yếu tố thông tin là điều kiện tất yếu,
là phương tiện quan trọng để thực hiện hoạt động quản lý.
1.2.2.2. Biện pháp quản lý hoạt động NCKH của GV
*Biện pháp
Theo "Từ điển Tiếng Việt tường giải và liên tưởng", tác giả Nguyễn Văn Đạm
cho rằng : "Biện pháp là cách làm, cách hành động, đối phó để đi tới một mục đích
nhất định" [16, 66].
"Từ điển Tiếng Việt" do Hoàng Phê (chủ biên) đưa ra khái niệm "Biện pháp là
cách thức xử lý công việc hoặc giải quyết vấn đề" [26, 89].

Theo tác giả Nguyễn Phúc Châu thì: "Biện pháp là chỉ ra cách phân tích các
mặt đúng hoặc sai, tốt hoặc xấu của một sự vật hoặc một hiện tượng để từ đó chỉ ra
cách thức duy trì hoặc phát huy cái đúng và cái tốt, loại bỏ đi cái sai và cái xấu, bổ
19
Chức
năng
lập
kế
hoạch
Chức
năng
tổ
chức
Chức
năng
chỉ
đạo
Chức
năng
kiểm
tra
Thông tin quản lý

×