Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
–––––––––––––––––––––––––––––
PHẠM THỊ MINH HẰNG
TỈNH THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
THÁI NGUYÊN – 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
–––––––––––––––––––––––––––––
PHẠM THỊ MINH HẰNG
G
HÚ LƢƠNG
TỈNH THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. NGUYỄN VĂN CÔNG
THÁI NGUYÊN – 2014
i
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn này
là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào. Mọi sự giúp đỡ cho
việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và thông tin trích dẫn trong luận văn
đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Tác giả
Phạm Thị Minh Hằng
ii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và viết luận văn tôi đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến GS. TS. Nguyễn Văn Công,
người đã tận tình hướng dẫn, định hướng và giúp đỡ tôi về chuyên môn trong suốt
thời gian hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cám ơn tập thể các thầy cô giáo trong phòng QLĐT Sau
Đại học, trường ĐH Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu để tôi thực hiện tốt luận văn này.
Đồng thời xin chân thành cám ơn UBND huyện Phú Lương, các ban ngành đoàn thể
và các xã của huyện đã tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình công tác và học tập
cũng như cơ sở nghiên cứu để tôi hoàn thành luận văn này một cách tốt nhất.
Qua đây tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình, người thân, an
hem, bạn bè những người luôn ủng hộ, động viên tạo điều kiện cho tôi trong quá
trình học tập, nghiên cứu và thực hiện đề tài. Trong quá trình thực hiện, luận văn
khó tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý
thầy cô và bạn đọc để luận văn được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cám ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Tác giả
Phạm Thị Minh Hằng
iii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN vii
DANH MỤC CÁC BẢNG viii
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH ix
MỞ ĐẦU 1
1
2
2
3
3
Chƣơng 1 4
LÀM VÀ 4
4
1.1. Việc làm và chính sách việc làm 4
1.1.1. Việc làm và thị trƣờng việc làm 4
1.1.1.1. Việc làm và nguồn lao động 4
1.1.1.2. Thất nghiệp 8
1.1.1.3. Thị trường việc làm 11
1.1.2. Chính sách việc làm 13
1.2. Giải quyết việc làm 16
1.2.1. Giải quyết việc làm và vai trò của giải quyết việc làm 16
1.2.1.1. Giải quyết việc làm 16
1.2.1.2. Vai trò giải quyết việc làm 17
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm tại chỗ 18
18
19
1.2.2.3. Điều kiện xã hội 22
1.2.2.4. Điều kiện chính trị 22
iv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
24
1.3. Ki
giải quyết việc làm và bài học cho Phú Lương 29
29
1.3.1.1. Trung Quốc 29
1.3.1.2. Đài Loan 32
1.3.1.3. Nhật Bản 33
33
1.3.2.1. Thái Bình 33
1.3.2.2. Lạng Sơn 34
1.3.2.3. Quảng Ninh 35
, tỉnh Thái Nguyên 35
Chƣơng 2 38
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 38
2.1. 38
38
38
39
39
Chƣơng 3 42
42
TẠI CHỖ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN PHÚ LƢƠNG 42
- 42
- 42
42
42
42
i nguyên thiên nhiên 43
44
44
45
49
3.1.3. Điều kiện văn hóa 50
v
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
huyện Phú Lương 51
51
51
ng 52
55
55
58
60
61
3.4. Các hoạt động tạo việc làm tại chỗ của huyện Phú Lương 68
68
73
3.4.3. Tồn tại và nguyên nhân 74
3.4.3.1. Tồn tại, hạn chế 74
3.4.3.2. Nguyên nhân của hạn chế 75
3.4. 76
Chƣơng 4 79
79
79
TỈNH THÁI NGUYÊN 79
Phú Lương 79
79
4.1.1.1. Quan điểm của Nhà nước và các cấp chính quyền 79
4.1.1.2. Quan điểm của người lao động 80
81
81
81
82
- 82
4.2.2. Thực hiện các chương trình, chính sách của Nhà nước về giải quyết việc làm 84
4.2.2.1. Chính sách trọng dụng và thu hút nhân tài 84
vi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
4.2.2.2. Chính sách ưu tiên phát triển nhân lực các dân tộc thiểu số, vùng cao và vùng
sâu, vùng xa 84
4.2.3. Phát triển quỹ giải quyết việc làm 85
4.2.4. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực 86
4.2.5. Tổ chức hoạt động giới thiệu việc làm 89
89
90
4.4. Điều kiện thực hiện các giải pháp giải quyết việc làm tại chỗ trên địa bàn huyện
Phú Lương 91
4.4.1. Về phía Nhà nước và các cơ quan công quyền 91
4.4.2. Về phía người lao động 91
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
vii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CN : Công nghiệp
CNH : Công nghiệp hóa
DS : Dân số
HĐH : Hiện đại hóa
LLLĐ : Lực lượng lao động
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
UBND : Ủy ban nhân dân
viii
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của huyện (giai đoạn 2010 – 2013) 45
Bảng 3.2: Cơ cấu giá trị sản xuất (Go) phân theo ngành kinh tế của huyện
Phú Lương qua các năm (theo giá so sánh năm 1994) 46
Bảng 3.3: Nguồn lao động thời kỳ 2010 – 2013 51
Bảng 3.4: Cơ cấu LLLĐ huyện Phú Lương theo trình độ văn hóa năm
2010 – 2013 53
Bảng 3.5: Cơ cấu LLLĐ huyện Phú Lương theo trình độ chuyên môn kỹ
thuật năm 2010 – 2013 54
Bảng 3.6: Cơ cấu lao động làm việc theo khu vực kinh tế (2010 – 2013) 55
Bảng 3.7: Năng suất lao động bình quân theo ngành kinh tế của huyện Phú
Lương (2010 – 2013) 56
Bảng 3.8: Cơ cấu lao động làm việc theo loại hình kinh tế huyện Phú Lương
(2010 – 2013) 58
Bảng 3.9: Cơ cấu việc làm của huyện Phú Lương theo vị thế công việc năm
2010 – 2013 60
Bảng 3.10: Một số chỉ tiêu về thất nghiệp và thiếu việc làm huyện Phú Lương 61
ix
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH
Biểu đồ 3.1: Cơ cấu giá trị sản xuất phân theo ngành kinh tế của huyện Phú
Lương qua các năm 47
Biểu đồ 3.2: Cơ cấu lao động làm việc phân theo khu vực kinh tế của huyện
Phú Lương (2010 – 2013) 56
Biểu đồ 3.3: Năng suất lao động bình quân theo ngành kinh tế của huyện Phú
Lương (2010 – 2013) 57
Biểu đồ 3.4: Cơ cấu lao động làm việc theo loại hình kinh tế 59
Biểu đồ 3.5: Cơ cấu việc làm theo vị thế công việc 60
Biểu đồ 3.6: Tỷ lệ thất nghiệp thành thị và thời gian lao động sử dụng ở nông thôn 62
Hình 1.1. Cân bằng thị trường việc làm 9
1
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
MỞ ĐẦU
Việc làm có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, nó không thể thiếu đối
với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế, là vấn đề cố
.
Đối với nước ta giải quyết việc làm còn là giải quyết một vấn đề cấp thiết
trong xã hội đồng thời là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lực lao
động, góp phần chuyển đổi cơ cấu lao động đáp ứng nhu cầu của quá trình CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế, là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người. Sau
hơn 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề việc làm ở nước ta đã
từng bước được giải quyết theo hướng tuân theo quy luật khách quan của kinh tế
hàng hóa và thị trường lao động, góp phần đưa nền kinh tế nước ta phát triển đạt
được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, thực trạng vấn đề việc
làm ở nước ta hiện nay vẫn còn có nhiều bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát
triển của nền kinh tế, đặc biệt là từ sau khi nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại
quốc tế (WTO). Những tồn tại chủ yếu đó thể hiện trên nhiều mặt. Cung- cầu lao
động, việc làm mất cân đối lớn (cung lớn hơn cầu); tỉ lệ thất nghiệp giảm chậm; số
doanh nghiệp trên đầu dân số còn thấp nên khả năng tạo việc làm và thu hút lao
động còn hạn chế. Tình trạng thiếu việc làm còn cao, chính sách tiền lương, thu
nhập chưa động viên được người lao động gắn bó tận tâm với công việc. D
.
2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
2020 th
dân, .
Huyện Phú Lương là huyện có 85% dân số với công việc chính là sản xuất
nông nghiệp. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, cùng với việc
ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp ngày càng
nhiều và có hiệu quả nên dẫn đến tình trạng giảm đi rõ rệt về nhu cầu sử dụng lao
động. Thêm vào đó, nguồn lực đất đai hạn chế do nhu cầu phát triển đô thị và một
số mục đích khác đã dẫn đến tình trạng dư thừa lao động dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp ở
địa phương tăng lên là vấn đề bất cập cần được giải quyết.
Phú Lương
- tỉnh Thái Nguyên” .
Mục tiêu cơ bản, xuyên suốt của đề tài là tìm ra giải pháp phù hợp để giải
quyết việc làm tại chỗ cho người lao động trên địa bàn huyện Phú Lương.
Từ mục tiêu cơ bản đó, các mục tiêu nghiên cứu chính được xác định là:
- Làm rõ bản chất và vai trò của việc làm và giải quyết việc làm;
- Phân tích và đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm trên địa
bàn huyện Phú Lương;
- Đề xuất các giải pháp cơ bản để giải quyết việc làm tại chỗ cho người lao
động trên địa bàn huyện Phú Lương.
- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động. Với đối
tượng này, đề tài đi sâu nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản và tiến hành khảo sát
thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cùng với việc đề xuất giải pháp giải
quyết việc làm tại chỗ cho người lao động trên địa bàn huyện Phú Lương.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu các vấn đề về việc làm và các yếu tố
ảnh hưởng đến công tác giải quyết việc làm tại chỗ.
+ Về không gian: Giới hạn tại địa bàn huyện Phú Lương.
3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
+ Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2010 đến 2013.
Luận văn hệ thống hóa và góp phần làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về
việc làm và vai trò của giải quyết việc làm.
Luận văn nghiên cứu và phản ánh khá toàn diện về thực trạng việc làm và
tình hình phát triển kinh tế nhằm tạo việc làm của huyện Phú Lương.
Luận văn đưa ra các giải pháp nhằm phát triển kinh tế và tạo việc làm tại
chỗ trên địa bàn huyện Phú Lương
4 chương:
Chương 1: việc làm và .
Chương 2:
Chương 3: Kết quả nghiên cứu về t và giải quyết việc làm
tại chỗ huyện Phú Lương – tỉnh Thái Nguyên
Chương 4: G tại chỗ huyện Phú
Lương – tỉnh Thái Nguyên
4
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Chƣơng 1
VIỆC LÀM VÀ
1.1. Việc làm và chính sách việc làm
1.1.1. Việc làm và thị trường việc làm
1.1.1.1. Việc làm và nguồn lao động
Việc làm đối với mỗi người lao động, được làm việc gắn với mỗi công việc
cụ thể, không chỉ để tồn tại mà còn là sự hoàn thiện bản thân. Đối với xã hội, việc
làm tạo ra của cải vật chất và các dịch vụ tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Việc làm là mối quan tâm số một của người lao động và giải quyết việc làm là
công việc quan trọng của tất cả các quốc gia. Cuộc sống của bản thân và gia đình
người lao động phụ thuộc rất lớn vào công việc của họ. Sự tồn tại và phát triển của
mỗi quốc gia cũng gắn liền với tính hiệu quả của chính sách giải quyết việc làm.
Trong thời kỳ nguyên thủy với nền sản xuất giản đơn thì việc làm của con
người là sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao
động theo mục đích lao động của mình. Các hoạt động săn bắn, hái lượm… là hoạt
động tạo ra của cải, là việc làm con người hoạt động để phục vụ đời sống của bộ tộc.
Trong cơ chế kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp, người lao động được coi là
có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần
kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể) và quan niệm về việc làm là những
công việc đòi hỏi người làm việc phải có một chuyên môn nhất định nào đó để tạo ra
một thu nhập nhất định. Trong chế độ đó, xã hội không thừa nhận việc làm ở các thành
phần kinh tế khác và cũng không thừa nhận thiếu việc làm và thất nghiệp…
Hiện nay, nước ta với nền kinh tế đã chuyển sang một nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, với nhiều tư duy thay đổi thì quan niệm về việc làm cũng đã thay
đổi một cách căn bản, được hiểu rộng hơn, đúng đắn và khoa học hơn, đó là các
hoạt động của con người nhằm tạo ra thu nhập, mà pháp luật không cấm. Điều 13,
chương II Bộ luật Lao động nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
“Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được
thừa nhận là việc làm”. [13,tr11]
5
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Như vậy, việc làm là các hoạt động lao động được hiểu như sau: làm các
công việc để nhận tiền công, tiền lương hoặc hiện vật của công việc đó. Làm những
công việc tự làm mang lại lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình, cho
cộng đồng, kể cả những công việc không được trả công bằng hiện vật.
Theo khái niệm trên, một hoạt động được coi là việc làm cần thỏa mãn hai
điều kiện:
- Một là, hoạt động đó phải có ích và tạo ra thu nhập cho người lao động và
các thành viên trong gia đình.
- Hai là, người lao động được tự do hành nghề, hoạt động đó không bị pháp
luật cấm. Điều này chỉ rõ tính pháp lý của việc làm.
Hai điều kiện này có quan hệ chặt chẽ với nhau, là điều kiện cần và đủ của
một hoạt động được thừa nhận là việc làm. Quan niệm này đã góp phần mở rộng
khái niệm về việc làm, khi đa số lao động đương thời chỉ muốn chen chân vào các
doanh nghiệp, cơ quan nhà nước. Về mặt khoa học, quan điểm của Bộ luật Lao
động nêu đầy đủ yếu tố cơ bản nhất của việc làm.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy việc làm phụ thuộc vào
điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong các giai đoạn phát triển khác
nhau. Mặt khác, việc mở rộng hay thu hẹp việc làm, phát huy hay kìm hãm năng
lực tạo việc làm phụ thuộc nhiều vào yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia, địa
phương, doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong quan điểm đó còn có một số hạn chế sau khi áp dụng vào thực
tế như sau: Thứ nhất, hoạt động nội trợ không được coi là việc làm trong khi đó hoạt
động nội trợ tạo ra các lợi ích phi vật chất và gián tiếp tạo ra lợi ích vật chất không hề
nhỏ. Thứ hai, khó có thể so sánh tỷ lệ người có việc làm giữa các quốc gia với nhau
vì quan niệm việc làm giữa các quốc gia có thể khác nhau phụ thuộc vào pháp luật,
phong tục tập quán… có những nghề ở nước này cho phép và được coi là việc làm,
nhưng ở quốc gia khác lại cấm và không được coi là việc làm.
“Người có việc làm” là những người làm việc và được trả tiền công, lợi
nhuận hoặc thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động
mang tính chất tự tạo ra việc làm vì lợi ích và thu nhập của gia đình nhưng không
6
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
nhận được tiền công hoặc hiện vật cho những công việc đó. Như vậy, người có việc
làm khi làm những công việc mà pháp luật không cấm và được trả công, hoặc thu
được lợi nhuận hoặc có ích cho gia đình…
Trong nền kinh tế thị trường, việc làm được giải quyết thông qua quan hệ
cung, cầu lao động và cạnh tranh trên thị trường lao động. Cơ chế thị trường có khả
năng điều tiết việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực lao động của xã hội. Cơ chế
này có mặt tích cực là đảm bảo quyền tự do lựa chọn của người lao động và người
sử dụng lao động, kích thích tính tích cực, năng động của họ, điều chỉnh nhu cầu lao
động xã hội hết sức linh hoạt. Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm đầy đủ, việc làm
hợp lý, việc là tự do.
“Việc làm đầy đủ” là thỏa mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả
năng lao động trong nền kinh tế, hay nói cách khác việc làm đầy đủ ở trạng thái mà
mỗi người có khả năng lao động, muốn làm việc thì có thể tìm được việc làm trong
thời gian tương đối ngắn” [16,tr23]. Để đạt được mức độ đảm bảo việc làm đầy đủ
phải có một quá trình nhất định. Quá trình ấy ngắn hay dài tùy thuộc vào trình độ,
hoàn cảnh khách quan, chủ quan của mỗi quốc gia, mỗi địa phương. Việc làm đầy
đủ mới chỉ nói lên sự giải quyết việc làm về mặt số lượng, chưa tính đến việc làm
đó có phù hợp với khả năng, trình độ sở trường của người lao động hay không.
“Việc làm hợp lý” là sự thỏa mãn nhu cầu làm việc cho bất kỳ ai có khả năng
làm việc, không chỉ tính trong nền kinh tế và phù hợp với trình độ và nguyện vọng
của họ. Việc làm hợp lý là việc làm không chỉ tính về mặt số lượng, mà còn tính
đến khả năng, trình độ, nguyện vọng, năng khiếu của người lao động, là sự phù hợp
về cả số lượng và chất lượng của các yếu tố con người, vật chất của sản xuất và xã
hội, sự hợp lý giữa lợi ích cá nhân người lao động với lợi ích xã hội. Việc làm hợp
lý có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn hẳn so với việc làm
đầy đủ. Đó là bước phát triển cao hơn của việc làm đầy đủ.
Hiện nay, ở nước ta số người chưa có việc làm còn khá lớn, vì vậy nhiệm vụ
đặt ra trước mắt là giải quyết việc làm đầy đủ. Cùng với quá trình phát triển kinh tế
xã hội, cũng đồng thời giải quyết việc làm một cách hợp lý, nâng cao hiệu quả kinh
tế xã hội. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại ngày càng phát
triển và quá trình toàn cầu hóa từng bước nâng cao tỷ trọng việc làm hợp lý.
7
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
“Việc làm tự do” là việc làm trong đó người lao động được tự do chọn việc
làm với nghề nghiệp, thời gian thích hợp, phát huy cao nhất hiệu quả sáng tạo của
mình. Hiện nay, việc làm tự do ở nước ta còn chiếm tỷ lệ nhỏ. Tỷ lệ việc làm tự do
sẽ tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội và khoa học kỹ thuật.
“Việc làm bền vững” gồm 6 yếu tố: (1) Cơ hội việc làm; (2) làm việc trong
điều kiện tự do; (3) việc làm có năng suất; (4) công bằng; (5) an ninh việc làm và
(6) bảo vệ nhân phẩm. Hai yếu tố đầu tập trung vào tính sẵn có của việc làm, trong
khi 4 yếu tố sau tập trung vào tình trạng, chất lượng của việc làm.
Nguồn lao động luôn được xem xét trên hai mặt, biểu hiện đó là số lượng và
chất lượng.
Số lượng lao động là toàn bộ những người trong độ tuổi lao động có khả năng
lao động gồm: Dân số đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và dân số trong độ tuổi lao
động có khả năng lao động nhưng đang thất nghiệp, đang đi học, đang làm công
việc nội trợ trong gia đình, không có nhu cầu việc làm và những người thuộc tình
trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi quy định)
Chất lượng lao động: Cơ bản đánh giá ở trình độ chuyên môn, tay nghề (trí
lực) và sức khỏe (thể lực) của người lao động.
Một nền kinh tế muốn tăng trưởng và phát triển bền vững cần chú trọng đến
chất lượng lao động hơn là số lượng lao động, vì năng suất lao động, trình độ công
nghệ, nền kinh tế tri thức… đều do chất xám, trình độ, kiến thức và sức khỏe của
người lao động đem lại.
Lực lượng lao động (LLLĐ): Theo quan niệm của Tổ chức Lao động Quốc tế
(ILO) là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động theo thực tế đang có việc làm và
những người thất nghiệp.
Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam và Bộ Lao động, thương binh và Xã hội
Việt Nam cho rằng: LLLĐ (hay còn gọi là dân số hoạt động kinh tế) gồm toàn bộ
những người đủ 15 tuổi trở lên đang có việc làm hoặc những người thất nghiệp
trong thời gian quan sát.
LLLĐ trong độ tuổi lao động (tương đương với khái niệm dân số hoạt động
kinh tế trong độ tuổi lao động) gồm toàn bộ những người trong độ tuổi lao động
8
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
(nam từ 15 tuổi đến hết 60 tuổi, nữ từ 15 tuổi đến hết 55 tuổi) đang có việc làm hoặc
không có việc làm (thất nghiệp) những có nhu cầu làm việc và sẵn sàng làm việc.
1.1.1.2. Thất nghiệp
Trong “kinh tế học” cho rằng: Thất nghiệp làm những người không có việc
làm nhưng đang chờ để trở lại làm việc hoặc đang tích cực đi xin việc.[10,tr235]
Những người có việc làm hoặc không có việc làm đều nằm trong LLLĐ.
Những người đang đi học, trông coi nhà cửa, về hưu, ốm đau không đi làm được
hoặc thôi không đi làm việc nữa, đó là những người nằm ngoài LLLĐ.
Quan niệm của A. Sammuelson cho rằng “Người có việc làm là người đi
làm, người không có việc làm là người thất nghiệp. Những người không có việc
làm, nhưng không tìm được việc làm là những người ngoài lực lượng lao
động”[10,tr235]. Quan niệm này khá chung chung không cụ thể và có vấn đề không
phù hợp với thực tế hiện nay, như những người làm nội trợ, tàn tật, nghỉ hưu…
không thể coi họ là những người thất nghiệp do vậy quan niệm của Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội về người thất nghiệp có phần hợp lý hơn: “Những người
thuộc lực lượng lao động có khả năng lao động trong tuần lễ điều tra không có việc
làm, có nhu cầu về việc làm nhưng không tìm được việc làm” [13,tr23].
Như vậy, người thất nghiệp tất yếu họ phải thuộc LLLĐ hay dân số hoạt
động kinh tế. Một người thất nghiệp thường có 3 đặc trưng:
+ Đang mong muốn và tìm việc làm
+ Có khả năng làm việc
+ Hiện chưa có việc làm
Với cách hiểu như trên, không phải bất kỳ ai có sức lao động nhưng chưa
có việc làm đều được coi là thất nghiệp. Do đó một tiêu chí quan trọng để xem xét
một người được coi là thất nghiệp thì cần phải biết được người đó có muốn đi làm
hay không. Bởi lẽ, trên thực tế nhiều người có sức khỏe, có nghề nghiệp song
không có nhu cầu làm việc, họ sống chủ yếu dựa vào “nguồn dự trữ” như thừa kế
của bố mẹ, nguồn tài trợ.
Theo ILO, “Thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong độ tuổi
lao động muốn có việc làm nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công
9
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
nhất định. Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,
không có việc làm và đang có nhu cầu tìm việc làm” [9,tr27]
Hình 1.1. Cân bằng thị trƣờng việc làm
: Ngân hàng phát triển Châu Á - 2007)
Trong đó: S: Đường cung
D: Đường cầu
E: Điểm cân bằng thị trường – Cầu việc làm phù hợp với cung việc làm
LA: Lượng cầu việc làm
LB: Lượng cung việc làm
W: Tiền lương
Khi ở mức tiền công W1 thì dư cung việc làm và thiếu cầu việc làm, đó là quy
mô nền kinh tế được mở rộng và không có thất nghiệp. Ở mức tiền công W0 thì cung
cầu việc làm vận động phù hợp với nhau tại điểm cân bằng E, không có dư thừa, cũng
không có thất nghiệp. Trên thực tế không tồn tại điểm E, chỉ là tương đối với việc làm
của từng nước, từng địa phương. Còn ở mức tiền công W2 thì dư thừa nhu cầu việc làm
và thiếu cung việc làm, xuất hiện tình trạng thất nghiệp và lượng thất nghiệp là (Ld - Lc).
Mối liên hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp có thể được giải
thích dưới dạng sản lượng hàng hóa cần thiết sản xuất ra của việc làm cung cấp bởi
những người lao động cần có để duy trì nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khi tỷ lệ thất nghiệp cao, mức sản lượng sẽ giảm do việc giảm số lượng đóng góp
cho sản lượng hàng hóa sản xuất ra. Mối tương quan giữa tăng trưởng kinh tế và tỷ
lệ thất nghiệp này có thể được rút ra từ thực tế là tỷ lệ thất nghiệp tăng cao nhất
W1
W0
W2
W
La Lc L0 Lb Ld
A R
E
S
D
L
10
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
trong giai đoạn khủng hoảng của nền kinh tế. Ngược lại, giảm tối đa trong trường
hợp có sự phát triển nhanh chóng, hoặc trong giai đoạn tăng trưởng của nền kinh tế.
Tỷ lệ thất nghiệp được các nhà kinh tế sử dụng làm một trong những nhân tố
kinh tế vĩ mô đo lường tốc độ tăng trưởng và sức khỏe hiện tại của nền kinh tế. Khi
tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu giảm, nó thường kết nối với các nhân tố vĩ mô khác như sự
gia tăng nhu cầu đối với hàng hóa và dịch vụ, được coi là chất xúc tác cho sự gia
tăng việc làm. Ví dụ, khi khách hàng bắt đầu đặt những đơn hàng cho các sản phẩm,
doanh nghiệp sẽ thuê thêm lao động để kịp theo tiến độ của nhu cầu. Khi nhu cầu
giảm, người lao động sẽ bị sa thải do các doanh nghiệp phải giảm gánh nặng không
cần thiết để bảo tồn nguồn lực. Do vậy khi nền kinh tế tăng trưởng kéo theo việc
làm gia tăng và do đó tỷ lệ thất nghiệp sẽ giảm.
Thất nghiệp được phân thành các loại sau:
Thất nghiệp tự nhiên: là loại thất nghiệp được dùng để chỉ mức thất nghiệp
mà bình thường nền kinh tế trải qua. Nó đơn giản là loại thất nghiệp không tự biến
mất ngay cả trong dài hạn.
Thất nghiệp tạm thời: là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển không
ngừng của lao động giữa các vùng, các loại công việc hoặc giữa các giai đoạn khác
nhau của cuộc sống (sinh viên tốt nghiệp tìm kiếm việc làm, phụ nữ sau sinh con có
thể quay lại LLLĐ…)
Thất nghiệp cơ cấu: là loại thất nghiệp xảy ra khi có sự mất cân đối giữa
cung – cầu lao động trong một ngành hoặc một vùng nào đó do biến đổi cơ cấu kinh
tế, thay đổi công nghệ. Vì vậy loại thất nghiệp này còn có tên là thất nghiệp công
nghệ (thường xảy ra trong nền kinh tế hiện đại)
Thất nghiệp chu kỳ: là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản
lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị
sản lượng của nền kinh tế giảm dần hầu hết các nhà sản xuất giảm sản lượng cầu đối
với đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, những chính sách
khuyến khích tăng cầu thường mang lại kết quả tích cực.
Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp có thể chia thành:
11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Thất nghiệp tự nguyện: là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó người
lao động không muốn làm việc vì lý do cá nhân nào đó (di chuyển, sinh con) thất
nghiệp này thường gắn với thất nghiệp tạm thời.
Thất nghiệp không tự nguyện: là loại thất nghiệp mà ở mức tiền công nào đó
người lao động chấp nhận nhưng vẫn không được làm việc do kinh tế suy thoái,
cung lớn hơn cầu về lao động.
Thất nghiệp trá hình: là hiện tượng xuất hiện khi người lao động được sử
dụng ở dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sang làm việc. Hiện
tượng này xảy ra khi năng suất lao động của một ngành nào đó thấp. Thất nghiệp
loại này thường gắn với việc sử dụng không hết thời gian lao động.
Xét theo hình thức thất nghiệp có thể chia thành:
Thất nghiệp theo giới tính: là loại thất nghiệp của lao động nam (hoặc nữ)
Thất nghiệp theo lứa tuổi: là loại thất nghiệp của một lứa tuổi nào đó trong
tổng số LLLĐ.
Thất nghiệp theo vùng lãnh thổ: là hiện tượng thất nghiệp xảy ra thuộc vùng
lãnh thổ (thành thị, nông thôn, đồng bằng, miền núi).
Thất nghiệp theo ngành nghề: là loại thất nghiệp xảy ra ở một ngành nghề nào đó.
Ngoài các loại thất nghiệp nêu trên người ta còn có thể chia thất nghiệp theo
dân tộc, chủng tộc, tôn giáo…
1.1.1.3. Thị trường việc làm
- Cung việc làm:
Cung việc làm là mối quan hệ giữa lượng cung việc làm với giá cả của lao
động, với giả thiết là các yếu tố khác không thay đổi.
Trong nền kinh tế, cung việc làm được tạo ra nhiều hay ít phụ thuộc vào các
đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước, tư nhân và của các hộ gia đình (chính
những người lao động). Khi việc làm tăng lên là các doanh nghiệp thuê mướn lao
động nhiều hơn, việc thuê mướn nhiều hay ít phụ thuộc vào việc người tiêu dùng
mua hàng hóa và dịch vụ của họ sản xuất ra nhiều hay ít. Nhu cầu thuê mướn lao
động cũng như về các đầu vào khác của quá trình sản xuất (đất đai, nhà xưởng, máy
móc, vốn, công nghệ,…) là cầu phát sinh, xuất phát từ mong muốn của khách hàng.
12
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Vì thế, người sử dụng lao động thuê nhiều hay ít phụ thuộc vào cầu sản phẩm, điều
kiện hoàn cảnh của từng tổ chức, từng doanh nghiệp và của nền kinh tế dẫn đến
cung việc làm nhiều hay ít biến động theo. Ngoài ra, khi quyết định tạo ra thêm một
hay nhiều việc làm, cả hai bên người lao động và người sử dụng lao động cần chú
trọng đến số lượng lao động, chất lượng lao động để xác định giá cả sức lao động và
các quyết định về quan hệ lao động như điều kiện làm việc, các chế độ khuyến
khích, chính sách tiền lương, bảo hiểm… Số lượng việc làm trong nền kinh tế có
tăng lên hay không là phụ thuộc vào quyết định thuê lao động của các đơn vị sản
xuất kinh doanh. Giả sử trong một doanh nghiệp mục đích cuối cùng là tối đa hóa
lợi nhuận và là một đối tác không làm thay đổi đến các giá cả thị trường thì doanh
nghiệp đó tối đa hóa lợi nhuận bằng cách thuê “đủ và đúng” số lượng vốn và lao
động cần thiết. Và mức độ thuê này khác nhau trong dài hạn và trong ngắn hạn.
Ngắn hạn là một khoảng thời gian mà doanh nghiệp không thể thay đổi quy mô nhà
xưởng hoặc thay đổi thiết bị máy móc nên số lượng vốn của đơn vị là cố định ở một
mức K nào đó. Cung việc làm ngắn hạn cho biết những thay đổi về số việc làm (hay
số lao động cần thuê) của đơn vị sản xuất khi tiền công thay đổi và số vốn được giữ
nguyên. Trong dài hạn, doanh nghiệp có thể tối đa hóa lợi nhuận bằng cách thay đổi
cả số lượng lao động thuê và số lượng vốn đầu tư vào nhà xưởng, thiết bị. Vì ngoài
việc thay đổi số lượng lao động, lượng vốn của doanh nghiệp còn thay đổi dẫn đến
kết quả sản xuất khác nhau và từ đó cung việc làm cũng khác nhau.
- Cầu việc làm
Mỗi người lao động ở thời điểm khác nhau của cuộc đời đều phải tự quyết
định có làm việc hay không làm việc, nếu làm việc thì làm việc cho ai và với thời
gian bao lâu? Đó chính là biểu hiện của cầu việc làm ở mỗi thời điểm nhất định.
Cầu việc làm là mối quan hệ giữa lượng cầu việc làm với giá cả lao động
trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Nó được thể hiện ở số lượng, chất
lượng con người hoặc ở thời gian của những người tham gia và mong muốn tham
gia lao động trên thị trường lao động.
Cầu việc làm là yếu tố xuất phát từ chính người lao động và những người
mong muốn làm việc. Cầu việc làm thay đổi như thế nào là phụ thuộc vào quy mô,
tốc độ, cơ cấu dân số, số lượng lao động, chất lượng lao động và thời gian làm việc.
13
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Khi quy mô dân số càng lớn sẽ tạo ra nguồn lực sẵn sàng cung cấp sức lao động cho
xã hội càng lớn. Trong quy mô dân số yếu tố cấu thành lên đường cầu việc làm là
dân số hoạt động kinh tế có việc làm hay chính là tỷ lệ tham gia LLLĐ quyết định
cầu việc làm về số lượng. Khi tỷ lệ tham gia của LLLĐ càng tiến gần đến 100%
chính là tạo ra cầu việc làm càng lớn, thu hút nguồn nhân lực càng lớn. Tuy nhiên,
phần lớn những người có việc làm (làm việc được trả công) đều được tính vào
LLLĐ mà không cần biết họ làm việc bao nhiêu giờ trong ngày, trong tuần hoặc
trong năm. Thời gian làm việc khác nhau của người lao động sẽ tạo nên cầu việc
làm và cung thời gian lao động là khác nhau. Với một khoảng thời gian nhất định có
sự đánh đổi thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi. Theo “mô hình lựa chọn làm
việc – nghỉ ngơi” nếu nghỉ ngơi nhiều, chúng ta sẽ sống không có những tiện nghi.
Còn nếu làm việc, chúng ta sẽ có tiền để mua hàng hóa như mong muốn và phải từ
bỏ thời gian nghỉ ngơi của mình. Vậy quyết định làm việc của con người phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như sự tăng lương và thu nhập thực tế trên thị trường hay sự
thay đổi sở thích, hành vi nghề nghiệp hứng thú và hoàn cảnh gia đình. Khi quyết
định đi làm thì người lao động mong muốn có một mức tiền lương và đó là mức tiền
lương giới hạn. Người lao động sẽ không làm việc nếu tiền lương trên thị trường (là
mức tiền lương mà người chủ sẵn sàng trả) thấp hơn tiền lương giới hạn (là mức
lương người lao động muốn có đề chấp nhận việc làm). Như vậy, cầu việc làm là
yếu tố do người lao động và những người mong muốn có việc làm quyết định, trái
lại với cung việc làm là yếu tố do các đơn vị sản xuất kinh doanh tạo GDP cho nền
kinh tế quyết định. Sự vận động giữa hai yếu tố này như thế nào và đem lại kết quả
gì, có như mong muốn của các nhà lãnh đạo, của người lao động không?
1.1.2. Chính sách việc làm
Chính sách việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản của mọi quốc
gia nhằm góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Hội nghị thượng
đỉnh Copenhagen tháng 3 năm 1995 đã coi mở rộng việc làm là một trong những nội
dung cơ bản nhất của chiến lược phát triển xã hội của các nước trên thế giới.
Đối với nước ta, tạo thêm việc làm cho người lao động, kiềm chế thất nghiệp
ở tỷ lệ thấp là một trong những mục tiêu kinh tế vĩ mô mà Nhà nước thường xuyên
quan tâm thực hiện.
14
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
Chính sách việc làm là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các mục tiêu, các
giải pháp và công cụ nhằm sử dụng LLLĐ và tạo việc làm cho LLLĐ đó.
Nói cách khác, chính sách việc làm là sự thể chế hóa pháp luật của Nhà nước
trên lĩnh vực lao động và việc làm, là hệ thống các quan điểm, phương hướng, mục
tiêu và các giải pháp giải quyết việc làm cho người lao động nhằm góp phần ổn
đinh, an toàn và phát triển xã hội.
Chính sách việc làm thực chất là một hệ thống các chính sách chung có quan
hệ và tác động đến việc mở rộng và phát triển việc làm cho LLLĐ của toàn xã hội,
như các chính sách: Khuyến khích phát triển các lĩnh vực, những ngành nghề có khả
năng thu hút nhiều lao động; chính sách tạo việc làm cho những đối tượng đặc biệt
(người tàn tật, đối tượng tệ nạn xã hội, người hồi hương,…); chính sách hợp tác và
xuất khẩu lao động đi nước ngoài…
Chính sách việc làm tác động đến một vấn đề nhạy cảm, vừa có ý nghĩa về
mặt kinh tế, vừa có ý nghĩa về mặt chính trị và xã hội. Việc hoạch định và thực hiện
không tốt chính sách việc làm sẽ dẫn đến những hậu quả, những thiệt hại trực tiếp
cả về kinh tế (không sử dụng hết tiềm năng lao động để phát triển kinh tế) và cả về
chính trị, xã hội cho đất nước (Ví dụ: Thất nghiệp thì tệ nạn xã hội cũng tăng; thất
nghiệp đồng hành với nghèo đói…)
Chính sách việc làm có mối quan hệ biện chứng với chính sách kinh tế và
các chính sách xã hội khác, đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách như:
Chính sách dân số; chính sách giáo dục – đào tạo; chính sách cơ cấu kinh tế; chính
sách công nghệ. Có thể nhận thấy rằng: Giáo dục đào tạo tốt thì cơ hội việc làm
tăng; giảm tốc độ tăng dân số sẽ khắc phục được tình trạng thất nghiệp về lâu dài.
Việc phát triển các ngành nghề sản xuất, các lĩnh vực, các doanh nghiệp quy mô
nhỏ sử dụng nhiều lao động ở cả nông thôn lẫn thành thị là một vấn đề được tính
toán đến khi xây dựng chính sách cơ cấu kinh tế (theo ngành, theo vùng lãnh thổ
hoặc theo thành phần kinh tế). Việc lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp sử
dụng nhiều lao động đôi khi có hiệu quả kinh tế xã hội hơn là nhập những công
nghệ quá hiện đại (sử dụng ít lao động và sử dụng lao động có trình độ cao).