Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Luận văn thạc sĩ Hoạt động mua lại và sáp nhập tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.94 MB, 83 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH




NGUYỄN QUANG QUÝ



HOẠT ĐỘNG MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP
TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Tài chính - Ngân hàng
Mã số : 60340201


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC :
PGS-TS TRƯƠNG QUANG THÔNG



Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi nghiên cứu và thực hiện.


Các số liệu và thông tin sử dụng trong luận văn đều có nguồn gốc trung thực
và được phép công bố.
Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2014.



Nguyễn Quang Quý















MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các hình
Lời mở đầu
Trang

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI 1

1.1 Khái niệm về mua lại và sáp nhập ngân hàng 1

1.2 Phân loại mua lại và sáp nhập ngân hàng 3

1.2.1 Phân loại mua lại ngân hàng 3

1.2.2 Phân loại sáp nhập ngân hàng 3

1.3 Động cơ, phương thức mua lại và sáp nhập ngân hàng 4

1.3.1 Động cơ mua lại và sáp nhập ngân hàng 4

1.3.2 Phương thức mua lại và sáp nhập ngân hàng 5

1.4 Những lợi ích và tiêu cực của việc mua lại và sáp nhập ngân hàng 7

1.4.1 Những lợi ích của việc mua lại và sáp nhập ngân hàng 7

1.4.2 Những tiêu cực của việc mua lại và sáp nhập ngân hàng 9

1.5 Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng trên thế giới 10

1.5.1 Thực trạng hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng trên thế giới
10

1.5.2 Những bài học kinh nghiệm trong hoạt động mua lại và sáp nhập
ngân hàng 18


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 21

CHƯƠNG 2 : HOẠT ĐỘNG MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 22

2.1 Vấn đề tái cấu trúc hệ thống ngân hàng Việt Nam và hoạt động mua lại
và sáp nhập ngân hàng thương mại 22



2.1.1 Tái cấu trúc ngân hàng thương mại và Ngân hàng Nhà nước 22

2.1.2 Sáp nhập ngân hàng thương mại trong quá trình tái cấu trúc 23

2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng hoạt động sáp nhập ngân hàng thương mại
trong quá trình tái cấu trúc 25

2.1.4 Cơ quan thực hiện tái cấu trúc 28

2.1.5 Những khó khăn, thách thức chính trong quá trình tái cấu trúc 29

2.1.6 Những thiếu sót của quá trình tái cấu trúc 31

2.2 Nghiên cứu tình huống hợp nhất ba ngân hàng : Ngân hàng thương mại
cổ phần Đệ Nhất, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn và Ngân hàng
thương mại cổ phần Việt Nam Tín Nghĩa 34

2.3 Nghiên cứu tình huống sáp nhập Ngân hàng thương mại cổ phần Sài
Gòn - Hà Nội và Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội 42


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 54

CHƯƠNG 3 : MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM 55

3.1 Đề xuất đối với Ngân hàng Nhà nước 55

3.2 Đề xuất đối với Ngân hàng thương mại : nâng cao hiệu quả định giá và
quy trình mua lại và sáp nhập 59

3.2.1 Tìm kiếm mục tiêu phù hợp 59

3.2.2 Định giá và soát xét 61

3.2.3 Hoàn tất giao dịch và chuẩn bị các vấn đề sau sáp nhập 64

3.3 Các đề xuất hỗ trợ 66

3.3.1 Chủ động chuẩn bị sẽ mang lại kết quả tốt 66

3.3.2 Đánh giá và rút kinh nghiệm M&A 68

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 69

KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHTG bảo hiểm tiền gửi
BIDV Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
DN doanh nghiệp
ĐHCĐ đại hội cổ đông
HBB Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
M&A mergers and acquisitions (sáp nhập và mua lại)
NH ngân hàng
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM ngân hàng thương mại
NHTW ngân hàng trung ương
SCB Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn
SHB Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn – Hà Nội
TCTD tổ chức tín dụng
TMCP thương mại cổ phần
VAMC Công ty thu mua nợ quốc gia (Vietnam Asset Management
Company)
WTO Tổ chức Thương mại Thế giới
XĐGTDN xác định giá trị doanh nghiệp













DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 2.1 : Vốn chủ sở hữu, nợ phải trả, tổng tài sản của SCB giai đoạn 2010-
2013.
Hình 2.2 : Mức tăng so với năm trước của Vốn chủ sở hữu, nợ phải trả, tổng
tài sản của SCB giai đoạn 2010-2013.
Hình 2.3 : Hệ số lợi nhuận sau thuế/tổng doanh thu, tỷ số lợi nhuận trên tài
sản, tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu ngành ngân hàng theo
Bảng xếp hạng V1000 năm 2013.
Hình 2.4 : Tỷ số lợi nhuận trên tài sản, tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
của ngân hàng SHB giai đoạn 2010 – 2013.

Hình 2.5 : Tỷ số lợi nhuận trên tài sản, tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
của ngân hàng SCB giai đoạn 2010 – 2013.
Hình 3.1 : Thời gian từ khi hình thành ý tưởng đầu tư đến lúc hoàn tất giao
dịch M&A.
Hình 3.2 : Giao dịch được tài trợ từ đâu ?
Hình 3.3 : Các biện pháp bổ sung khi thực hiện giao dịch














LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trong những năm gần đây, những thuật ngữ kinh tế như : tái cấu trúc,
sáp nhập, mua lại, thâu tóm, … đã trở nên phổ biến và quen thuộc tại Việt
Nam. Các hoạt động mua bán, sáp nhập ngày càng tăng lên về số lượng và
phát triển mạnh cùng với thị trường chứng khoán Việt Nam, trở thành xu
hướng thu hút sự quan tâm của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp cổ phần - tài chính.
Trên thế giới, hoạt động mua lại và sáp nhập đã có từ những năm cuối
thế kỷ 19 với những xu hướng khác nhau khá rõ rệt và đem lại những kết quả
khác nhau, kể cả trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Tại Việt Nam, M&A
tuy còn khá mới mẻ nhưng đang có những bước đi đáng kể. Phát biểu tại Hội
nghị cạnh tranh Asean lần 2 ngày 13/09/2012 tại Thành phố Hồ Chí Minh,
Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh cho biết trong ba năm qua, các
thương vụ M&A đã không ngừng tăng lên, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng.
Cụ thể, trong năm 2011 có 266 vụ với tổng giá trị giao dịch đạt 6,25 tỉ USD,
tăng mạnh so với con số 295 vụ, trị giá 1,14 tỉ USD vào năm 2009. Riêng
trong ba tháng đầu năm 2012, có 60 vụ M&A với trị giá khoảng 2 tỉ USD …
Trong năm 2011 tình hình kinh tế nói chung cũng như thị trường chứng
khoán gặp nhiều khó khăn chính là nhân tố quan trọng thúc đẩy các thương
vụ M&A. Hiểu đúng bản chất thì M&A đem lại lợi ích to lớn cho các bên
tham gia, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng. Nó không chỉ giúp
các ngân hàng yếu kém thoát khỏi nguy cơ tan vỡ mà còn giúp ngân hàng mới
tạo ra tổng giá trị lớn hơn, có năng lực cạnh tranh cao hơn, đạt hiệu quả tốt về
chi phí, chiếm lĩnh thị trường tốt hơn, hiệu quả vận hành cũng tốt hơn.
Tuy nhiên thời gian qua, các diễn biến xung quanh các vụ thâu tóm

NHTM cổ phần Sài Gòn Thương Tín, sáp nhập SHB-HBB lại cho thấy một


thực tế là một ngân hàng nhỏ bé lại có thể thâu tóm các ngân hàng khác lớn
hơn mình rất nhiều. Từ đây vấn đề đặt ra chính là động cơ của các vụ M&A
mang màu sắc lợi ích cá nhân, sử dụng sáp nhập và thâu tóm để trục lợi, chu
chuyển vốn không minh bạch, …
Bên cạnh đó tồn tại một thực trạng là tỉ lệ thành công của các vụ M&A
ngân hàng đang còn rất thấp và đa phần các vụ M&A không tạo ra giá trị gia
tăng, hoặc không tăng cường năng lực tài chính cũng như khả năng tuân thủ
và minh bạch hóa thông tin của hệ thống.
Những dự báo cũng như thực tế đã diễn ra trong năm 2012 cho thấy xu
thế M&A ngân hàng đã và đang tăng bên cạnh những dấu hiệu khả quan và
các động thái hỗ trợ tích cực từ phía Chính phủ cho quá trình M&A ngành
ngân hàng chứng minh rằng chúng ta hoàn toàn có thể tin tưởng vào viễn
cảnh tốt đẹp hơn cho hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Những vụ M&A ngân hàng tại Việt Nam vừa qua đã cho thấy những đặc
trưng của M&A ngành ngân hàng và bộc lộ những mặt hiệu quả cũng như hạn
chế đáng để suy ngẫm, đồng thời đặt ra những yêu cầu và thách thức trong
việc quản lý và điều hành hoạt động M&A ngành ngân hàng. Chính vì những
lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài khóa luận của mình là : “Hoạt động
mua lại và sáp nhập tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”.

2. Mục đích nghiên cứu
Phân tích và đánh giá vai trò quản lý hoạt động mua lại và sáp nhập
ngân hàng tại Việt Nam thông qua các thể chế quản lý (Ủy ban chứng khoán,
NHNN, …).
Phân tích các tình huống M&A ngân hàng thương mại tại Việt Nam
nhằm làm rõ thực trạng hoạt động M&A ngân hàng tại Việt Nam, rút ra một
số nhận xét và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động này.




3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là hoạt động mua lại và sáp
nhập ngân hàng thương mại tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu tình huống các vụ M&A
ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2011-2012.

4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài sử dụng phương
pháp nghiên cứu hệ thống, phân tích, so sánh, thống kê và áp dụng nghiên cứu
tình huống cụ thể trong hoạt động mua lại và sáp nhập tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam.

5. Kết cấu đề tài
Nội dung của đề tài được chia làm 03 chương như sau :
Chương 1 : Tổng quan về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại.
Chương 2 : Hoạt động mua lại và sáp nhập tại các ngân hàng thương mại Việt
Nam.
Chương 3 : Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động mua lại và sáp
nhập tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
*************************


1

CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


1.1 Khái niệm về mua lại và sáp nhập ngân hàng
Tại Việt Nam, Luật Doanh nghiệp ban hành ngày 29 tháng 11 năm
2005 quy định :
Sáp nhập doanh nghiệp : “Một hoặc một số công ty cùng loại có thể
sáp nhập vào một công ty khác bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt
sự tồn tại của công ty bị sáp nhập.” (Điều 153).
Hợp nhất doanh nghiệp : “Hai hoặc một số công ty cùng loại có thể
hợp nhất thành một công ty mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp nhất, đồng thời chấm dứt tồn
tại của các công ty bị hợp nhất.” (Điều 152).
Việc mua lại doanh nghiệp không được đề cập đến trong Luật Doanh
nghiệp mà được nhắc đến trong Luật Cạnh tranh ban hành ngày 03 tháng 12
năm 2004 : “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ
hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn
bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”. (Điều 17).
Thông tư số 04/2010/TT-NHNN ngày 11/02/2010 của NHNN Việt
Nam quy định việc sáp nhập, hợp nhất và mua lại TCTD, mở rộng phạm vi
các đối tượng được/thuộc diện sáp nhập, hợp nhất; kế thừa tinh thần của Luật
Doanh nghiệp năm 2005 về hợp nhất, sáp nhập, Luật Cạnh tranh năm 2004 về
tập trung kinh tế, đồng thời đảm bảo tuân thủ các cam kết của Việt Nam đối
với WTO trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, cụ thể :
Về hình thức mua lại và sáp nhập, Thông tư quy định việc sáp nhập,
hợp nhất và mua lại giữa các TCTD chỉ được tiến hành dưới một số hình thức
nhất định. Các hình thức sáp nhập bao gồm : Ngân hàng, công ty tài chính,
2

TCTD hợp tác sáp nhập vào một ngân hàng; công ty tài chính sáp nhập vào
một công ty tài chính; công ty cho thuê tài chính sáp nhập vào một công ty
cho thuê tài chính. Các hình thức hợp nhất bao gồm : Ngân hàng được hợp

nhất với ngân hàng, công ty tài chính, TCTD hợp tác để thành một ngân hàng;
các công ty tài chính hợp nhất thành một công ty tài chính; các công ty cho
thuê tài chính hợp nhất thành một công ty cho thuê tài chính. Các hình thức
mua lại bao gồm : một ngân hàng được mua lại công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính; một công ty tài chính được mua lại công ty cho thuê tài chính.
Sáp nhập ngân hàng là sự kết hợp của hai hoặc nhiều ngân hàng để tạo
ra một ngân hàng mới duy nhất có quy mô lớn hơn. Sáp nhập thường do sự tự
nguyện của các bên tham gia.
Mua lại ngân hàng là việc một ngân hàng mua lại một ngân hàng khác,
thông thường là một ngân hàng lớn hơn sẽ mua lại ngân hàng nhỏ hơn.
Trên thực tế thì việc mua lại một ngân hàng và trở thành chủ sở hữu
mới gắn liền với việc thâu tóm ngân hàng được mua lại, theo đó ngân hàng
được mua lại không còn tồn tại, còn cổ phiếu vẫn tiếp tục được giao dịch.
Việc sáp nhập xảy ra khi hai hay nhiều ngân hàng, thường có quy mô
tương đương nhau, thỏa thuận để cùng trở thành một ngân hàng mới duy nhất.
Cổ phiếu của các ngân hàng sáp nhập sẽ ngưng giao dịch và thay vào đó là cổ
phiếu của ngân hàng mới.
Như vậy, để có một thương vụ sáp nhập, mua lại, hay hợp nhất thì các
ngân hàng phải cùng loại hình và phải có sự chấm dứt hoạt động kinh doanh
của một hoặc cả các bên tham gia. Cùng với các quy định về việc thành lập
ngân hàng mới, việc chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích của
bên được mua lại, được sáp nhập, ta có cơ sở để xác định chính xác hình thức
một thương vụ mua lại hay sáp nhập NHTM.
3

1.2 Phân loại mua lại và sáp nhập ngân hàng
1.2.1 Phân loại mua lại ngân hàng
- Mua lại mang tính thù nghịch : ngân hàng mua lại thực hiện việc mua
lại cổ phiếu của ngân hàng bị mua lại thông qua phương thức lôi kéo cổ đông
bất mãn, mua gom dần cổ phiếu trên thị trường, và dùng các phương thức

khác khi không đạt được sự đồng thuận hay biết trước của ban điều hành ngân
hàng bị mua lại. Cổ đông của ngân hàng bị mua lại được hoàn tiền hoặc hoán
đổi cổ phiếu và hoàn toàn mất quyền kiểm soát ngân hàng.
- Mua lại có thiện chí : việc mua lại có thể vì lợi ích chung của cả hai
bên tham gia, do đó có sự thỏa thuận và thương lượng giữa hai bên, bên mua
lại và bên được mua lại.
1.2.2 Phân loại sáp nhập ngân hàng
- Sáp nhập theo chiều ngang : là sự sáp nhập hoặc hợp nhất giữa hai
hay nhiều ngân hàng là đối thủ của nhau, kinh doanh và cạnh tranh trên cùng
một dòng sản phẩm, trong cùng một thị trường. Kết quả từ những vụ sáp nhập
theo dạng này sẽ đem lại cho bên sáp nhập cơ hội mở rộng thị trường, kết hợp
thương hiệu, giảm chi phí cố định, tăng cường hiệu quả của hệ thống phân
phối và hậu cần. Khi hai hay nhiều đối thủ cạnh tranh trên thương trường kết
hợp lại với nhau, họ không những giảm bớt cho mình đối thủ mà còn tạo nên
một sức mạnh lớn hơn để đương đầu với các đối thủ còn lại.
- Sáp nhập theo chiều dọc : là sự sáp nhập hoặc hợp nhất giữa hai hay
nhiều ngân hàng có mối quan hệ người mua - người bán, nằm trên cùng một
chuỗi giá trị, dẫn tới sự mở rộng về phía trước hoặc phía sau của ngân hàng
sáp nhập trên chuỗi giá trị đó. Một ngân hàng có thể sáp nhập với một ngân
hàng là nhà cung cấp sản phẩm dịch vụ của nó - gọi là sáp nhập lùi, hoặc mua
lại ngân hàng có quan hệ thân cận trong hệ thống phân phối sản phẩm dịch vụ
– gọi là sáp nhập tiến. Sáp nhập theo chiều dọc đem lại cho ngân hàng tiến
hành sáp nhập lợi thế về đảm bảo và kiểm soát chất lượng hoặc đầu ra sản
4

phẩm dịch vụ, giảm chi phí trung gian, khống chế nguồn cung cấp sản phẩm
dịch vụ hoặc đầu ra của đối thủ cạnh tranh.
- Sáp nhập tổ hợp : bao gồm tất cả các loại sáp nhập khác. Nhóm thứ
nhất là sáp nhập tổ hợp thuần túy, hai bên sáp nhập không hề có mối quan hệ
nào với nhau. Nhóm thứ hai là sáp nhập bành trướng về địa lý, hai ngân hàng

kinh doanh cùng một loại sản phẩm dịch vụ nhưng cung cấp trên hai thị
trường hoàn toàn cách biệt về địa lý. Nhóm thứ ba là sáp nhập đa dạng hóa
sản phẩm, hai ngân hàng kinh doanh hai loại sản phẩm dịch vụ khác nhau
nhưng cùng ứng dụng một công nghệ hoặc tiếp thị gần giống nhau.
1.3 Động cơ, phương thức mua lại và sáp nhập ngân hàng
1.3.1 Động cơ mua lại và sáp nhập ngân hàng
Cộng hưởng là động cơ quan trọng và kì diệu nhất giải thích cho mọi
thương vụ M&A. Cộng hưởng sẽ cho phép hiệu quả và giá trị của ngân hàng
mới (sau khi sáp nhập) được nâng cao.
Trước hết phải kể đến một động cơ mang tính chất trung tính, đó là
M&A để tồn tại trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Dưới sức ép cạnh
tranh của môi trường kinh doanh toàn cầu hôm nay, các ngân hàng buộc phải
phát triển để tồn tại, và một trong những cách tốt nhất để tồn tại là hợp nhất
hoặc thâu tóm các ngân hàng khác. Cạnh tranh thúc đẩy M&A, và M&A
càng khiến cuộc cạnh tranh gay gắt hơn. Để ngân hàng của mình không bị đối
thủ cạnh tranh thâu tóm sáp nhập và địa vị của bản thân không bị đe dọa, ban
quản trị và điều hành các ngân hàng luôn phải chủ động tìm cơ hội thực hiện
M&A để giành lợi thế cạnh tranh trước thị trường.
Động cơ của bên mua
Những ngân hàng mạnh mua lại ngân hàng khác thường nhằm tạo ra
một ngân hàng mới với năng lực cạnh tranh cao hơn, đạt hiệu quả tốt về chi
phí cũng như chiếm lĩnh thị trường tốt hơn, hiệu quả vận hành cao hơn.
5

Trong nhiều trường hợp, bên mua muốn giảm bớt đối thủ cạnh tranh,
hoặc đơn giản là chỉ muốn loại bỏ đối thủ - chính là bên bị mua lại.
Động cơ của bên bán
Trong hoạt động M&A, bên bị mua lại thường ở thế bị động và không
có nhiều sự lựa chọn. Phần lớn ngân hàng bị mua lại đang ở trong tình thế khó
khăn về tài chính, cần sự tiếp sức để tiếp tục hoạt động và tồn tại. Vì vậy việc

sáp nhập hai hay nhiều ngân hàng lại với nhau đôi khi cũng là sự lựa chọn của
các bên tham gia. Trong một số trường hợp, bên bị mua lại là ngân hàng đã
thành công và ổn định trong một lĩnh vực nào đó, bán lại ngân hàng đơn giản
chỉ vì lợi nhuận do thương hiệu ngân hàng mang lại.
1.3.2 Phương thức mua lại và sáp nhập ngân hàng
(i) Chào thầu
Chào thầu là phương thức mà ngân hàng đi mua hoặc nhóm nhà đầu tư
có ý định mua lại ngân hàng mục tiêu đề nghị cổ đông hiện hữu bán lại cổ
phiếu của ngân hàng này với giá chào thầu đương nhiên phải cao hơn giá thị
trường và đủ hấp dẫn cổ đông hiện hữu.
Ngân hàng mục tiêu thường là ngân hàng nhỏ hơn, tuy vậy có những
trường hợp ngân hàng nhỏ hơn vẫn có thể “thôn tính” ngân hàng lớn hơn với
những nguồn lực tài chính khổng lồ mà họ huy động được từ bên ngoài.
Nguồn lực tài chính có thể huy đồng bằng : (a) sử dụng vốn thặng dư, (b) huy
động vốn từ cổ đông hiện hữu bằng cách phát hành hành cổ phiếu mới, phát
hành trái phiếu chuyển đổi, (c) vay từ các TCTD.
Mục tiêu trong thương vụ chào thầu là ngân hàng đi mua nắm đủ lượng
cổ phiếu chi phối để thay thế các vị trí chủ chốt của ngân hàng mục tiêu.
Thương hiệu và cơ cấu tổ chức của ngân hàng bị mua lại có thể vẫn được giữ
nguyên mà không nhất thiết phải sáp nhập hoàn toàn vào ngân hàng mua lại.
Ban quản trị của ngân hàng mục tiêu có thể chống lại việc bị mua lại bằng
6

cách tìm đủ nguồn lực tài chính mạnh hơn để đưa ra mức chào mua cổ phần
cao hơn. Dù sao đi nữa, việc bị tấn công theo phương thức chào thầu cũng sẽ
làm ảnh hưởng lớn đến ngân hàng mục tiêu bị tấn công.
(ii) Thương lượng tự nguyện
Thương lượng tự nguyện là hình thức khá phổ biến trong ngành tài
chính – ngân hàng. Khi các bên tham gia dự tính hoặc nhận thấy được những
lợi ích tiềm tàng đem lại từ thương vụ sáp nhập thì ban điều hành các bên sẽ

cùng thương thảo với nhau để tiến hành việc sáp nhập.
Thương lượng tự nguyện cho thấy các bên tham gia ở trong thế chủ
động và động cơ sáp nhập là rất rõ ràng. Các ngân hàng tham gia sáp nhập
theo hình thức này chủ yếu là các ngân hàng tầm vóc trung bình, sáp nhập lại
với nhau để tạo thành một ngân hàng lớn hơn về quy mô hoạt động cũng như
khả năng cạnh tranh, tận dụng được lợi thế về nguồn lực sẵn có. Vì vậy có thể
nói thương lượng tự nguyện là phương thức sáp nhập theo chiều ngang.
(iii) Thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán
Bên mua lại sẽ tiến hành thu gom cổ phiếu bằng nhiều hình thức như :
thu mua dần trên thị trường chứng khoán, thu gom dưới hình thức chuyển
nhượng từ các cổ đông nhỏ lẻ, từ các nhà đầu tư chiến lược.
Phương thức thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán đòi hỏi bên
mua lại cần có tiềm lực tài chính rất lớn và mang tính chất thôn tính đối thủ
cạnh tranh hoặc ngân hàng mục tiêu. Phương thức này cũng đòi hỏi thời gian
tiến hành tương đối dài và sự chuẩn bị hết sức kỹ càng. Việc thu gom cổ
phiếu dưới hình thức chuyển nhượng thường diễn ra hết sức tinh vi và tính
minh bạch không cao.
(iv) Lôi kéo cổ đông bất mãn
Phương thức lôi kéo cổ đông bất mãn thường được tiến hành đi kèm
phương thức thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Theo đó, bên
7

mua sẽ tìm cách thay đổi ban quản trị của ngân hàng mục tiêu để nắm quyền
kiểm soát.
Đầu tiên, bên mua thu gom một lượng cổ phiếu của ngân hàng mục tiêu
để trở thành cổ đông tương đối lớn nhưng chưa đủ để chi phối. Sau đó bên
mua sẽ lợi dụng tình hình kinh doanh yếu kém của ngân hàng mục tiêu để lôi
kéo các cổ đông bất mãn về phía mình và yêu cầu tiến hành đại hội cổ đông,
hội đủ số lượng cổ phần chi phối để loại bỏ ban điều hành và ban quản trị cũ,
bầu đại diện bên mua vào hội đồng quản trị mới.

Phương thức lôi kéo cổ đông bất mãn thường được sử dụng trong các
thương vụ M&A mang tính thù địch, nhằm thôn tính đối thủ.
(v) Mua lại công ty
Phương thức mua lại công ty hay mua lại tài sản cũng tương tự phương
thức chào thầu nhưng mang tính thỏa thuận. Theo đó ngân hàng đi mua sẽ
thương thảo với ngân hàng mục tiêu về việc mua lại tài sản của ngân hàng đó
với mức giá đã được thẩm định trước đó để thống nhất mức giá phù hợp.
Phương thức thanh toán có thể bằng tiền mặt hoặc nợ.
1.4 Những lợi ích và tiêu cực của việc mua lại và sáp nhập ngân hàng
1.4.1 Những lợi ích của việc mua lại và sáp nhập ngân hàng
Lợi ích mà các ngân hàng kỳ vọng sau mỗi thương vụ M&A bao gồm :
- Cải thiện tình hình tài chính : về mặt giá trị thì giá trị của ngân hàng
mới sau M&A phải lớn hơn tổng giá trị hiện tại của cả hai hoặc nhiều ngân
hàng khi còn đứng riêng rẽ. Qua đó, ngân hàng có thêm vốn khả dụng cũng
như tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn, cũng như chia sẻ những rủi ro và tăng
cường tính minh bạch tài chính.
- Giảm thiểu chi phí ngắn hạn : nói chung sáp nhập ngân hàng thường
có khuynh hướng giảm chi phí hành chánh. Hai hệ thống sáp nhập lại sẽ làm
giảm nhiều công việc gián tiếp, ví dụ như các công việc văn phòng, tài chính
kế toán hay marketing, … Việc giảm thiểu vị trí công việc cũng đồng thời với
8

đòi hỏi tăng năng suất lao động. Đây cũng là dịp tốt để các ngân hàng sắp xếp
lại những vị trí làm việc kém hiệu quả. Điều quan trọng là ngân hàng sẽ giảm
thiểu trùng lặp trong mạng lưới phân phối.
- Củng cố vị thế thị trường hay đạt được hiệu quả dựa vào quy mô :
Một ngân hàng lớn lúc nào cũng có thế hơn khi giao dịch với các đối tác,
ngân hàng lớn vẫn có ưu thế khi đàm phán hơn là so với ngân hàng nhỏ. Ngân
hàng sau M&A sẽ tăng thị phần, tăng khách hàng, qua đó có thể tận dụng
được những mối quan hệ khách hàng, tận dụng khả năng bán chéo dịch vụ,

cũng như tận dụng kiến thức sản phẩm để tạo cơ hội kinh doanh mới, nâng
cao năng lực cạnh tranh.
- Tận dụng quy mô dài hạn : Thông qua việc mua bán hoặc sáp nhập,
ngân hàng mới có thể tận dụng công nghệ của nhau để tạo lợi thế cạnh tranh,
tối ưu hóa kết quả đầu tư công nghệ, tận dụng kinh nghiệm thành công của
các bên, giảm thiểu chi phí chung cho từng đơn vị sản phẩm cũng như chi phí
khi mua với khối lượng lớn.
- Tăng cường thị phần và danh tiếng trong ngành : Một trong những
mục tiêu của M&A là nhằm mở rộng thị trường mới, tăng trưởng doanh thu
và thu nhập. Sáp nhập cho phép mở rộng các kênh marketing và hệ thống
phân phối. Bên cạnh đó, vị thế của ngân hàng mới sau khi sáp nhập sẽ tăng
lên trong mắt cộng đồng đầu tư, ngân hàng lớn hơn có lợi thế hơn và có khả
năng tăng vốn dễ dàng hơn một ngân hàng nhỏ.
Trên thực tế, để đạt được sự cộng hưởng thường khó hơn người ta
tưởng - nó không tự đến khi hai ngân hàng sáp nhập. Đương nhiên khi hai
ngân hàng sáp nhập dễ nhìn thấy khả năng đạt được lợi thế quy mô nhưng đôi
khi nó lại có hiệu ứng ngược lại. Trong nhiều trường hợp, một cộng một lại
nhỏ hơn hai. Do đó, việc phân tích chính xác mức độ cộng hưởng trước khi
tiến hành những thương vụ M&A rất quan trọng. Khá nhiều nhà quản lý ngân
9

hàng đã cố tình vẽ ra bức tranh cộng hưởng để tiến hành các vụ M&A nhằm
trục lợi từ việc định giá ngân hàng.
1.4.2 Những tiêu cực của việc mua lại và sáp nhập ngân hàng
Không phải thương vụ sáp nhập ngân hàng nào cũng có kết quả tốt và
tích cực. Kinh tế suy giảm, hoạt động M&A rất thu hút ngân hàng. Tuy nhiên,
bên cạnh mặt tích cực thì nhiều ngân hàng đang đối diện với “trái đắng” như
hoạt động kinh doanh giảm sút, thương hiệu lu mờ hoặc bị thôn tính.
Đầu tiên phải kể đến lợi ích của các cổ đông nhỏ, khi mà quyền lợi và ý
kiến của họ có thể bị bỏ qua trong việc biểu quyết thông qua thương vụ sáp

nhập. Hơn nữa, các nhà đầu tư chiến lược hoặc các tổ chức tài chính đứng sau
thương vụ sáp nhập nắm quyền chi phối mạnh giá cổ phiếu. Động cơ của đa
số thương vụ sáp nhập đều xuất phát từ lợi ích cá nhân của nhà quản lý chứ
không nhằm bảo vệ đa phần các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Điều này vô hình chung
thường đưa đến những quyết định mua lại và sáp nhập không cần thiết hoặc
thiếu tính minh bạch.
Bên cạnh đó là rủi ro đem lại xuất phát từ lợi ích mong muốn của bên
thứ ba, đó chính là các tổ chức tư vấn, ngân hàng đầu tư, ngân hàng luật, …
Với mong muốn thu được phí dịch vụ và môi giới cao từ các giao dịch sáp
nhập thành công, các tổ chức trung gian này dễ đưa ra những thống kê lạc
quan, những kết quả đánh giá, tư vấn sai lệch.
M&A đôi khi chỉ là những thương vụ nhằm thôn tính đối thủ để tăng
tính cạnh tranh, chiếm thế độc quyền trong một lĩnh vực, một ngành nào đó.
Hậu quả đáng kể của M&A đó là việc đánh mất thương hiệu, văn hóa
ngân hàng mà phải mất một thời gian rất dài cùng nhiều khó khăn, tổn hao
sức lực, trí tuệ để đạt được. Một trong những cái giá không nhỏ khác mà các
ông chủ mới phải gánh sau thương vụ mua lại là giải quyết khối nợ xấu, là
phải tăng dự phòng rủi ro tín dụng bởi các món vay quá hạn từ ngân hàng
được sáp nhập.
10

M&A sẽ đem lại xu hướng chuyển dịch nhân sự mạnh mẽ từ việc tái
cấu trúc bộ máy hoạt động, sự dịch chuyển và thay đổi những vị trí, nguồn
nhân sự, cũng như thay đổi môi trường làm việc. Sự thay đổi nguồn nhân sự
sau M&A là tất yếu nhưng dễ dẫn đến tình trạng không phù hợp, ức chế ở vị
trí mới, môi trường mới, cũng như gây ra hiện tượng chảy máu chất xám. Vì
vậy việc nhận diện và đánh giá những khó khăn, thách thức sau M&A cũng
như việc chuẩn bị những giải pháp khắc phục hiệu quả là rất quan trọng,
mang tính sống còn.
1.5 Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng trên thế giới

1.5.1 Thực trạng hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng trên thế giới
Trong làn sóng sáp nhập và mua lại diễn ra trên toàn cầu, thì lĩnh vực
tài chính – ngân hàng luôn dẫn đầu về số lượng cũng như giá trị các thương
vụ. Ngành tài chính – ngân hàng có một vị trí đặc biệt bởi chỉ với một biến
động nhỏ của nó cũng có thể gây ra những tác động rất lớn đối với nền kinh tế
của mỗi quốc gia và với xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ như
hiện nay, tác động đó còn mang tính quốc tế cao hơn.
Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng tại Mỹ
Mỹ là nơi diễn ra các cuộc đại sáp nhập đầu tiên của thế giới với bốn
làn sóng sáp nhập nửa sau thập niên 1960, nửa đầu thập niên 1980, nửa sau
thập niên 1990 và năm 1992. Lĩnh vực tài chính – ngân hàng bị ảnh hưởng rất
lớn từ các cuộc đại sáp nhập này. Từ năm 1998 đến 2003, số lượng ngân hàng
ở Mỹ đã giảm từ khoảng 16.000 xuống khoảng 8.000.
Sau cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất tại Mỹ nổ ra vào giữa năm
2007, hoạt động M&A trong lĩnh vực ngân hàng xảy ra với tốc độ nhanh chưa
từng thấy. Từ đầu năm 2009 đến đến 6/6/2009, đã có 37 ngân hàng buộc phải
đóng cửa và phải bán tài sản của mình so với 25 ngân hàng bị đóng cửa trong
năm 2008. Tính đến hết quý 1/2009, FDIC (Quỹ Bảo hiểm Tiền gửi Liên
bang) đã đưa trên 300 ngân hàng Mỹ vào diện “có vấn đề” so với 252 ngân
11

hàng vào quý 4/2008 – cao hơn 21% so với cùng kỳ năm 2008 và cao nhất
trong 15 năm. Một số thương vụ mua lại ngân hàng nổi bật tại Mỹ thời gian
gần đây là :
+ Năm 2007 : Citizens Banking Corporation mua lại Republic Bancorp,
thương vụ trị giá 1,048 tỷ USD. Bank of America mua lại LaSalle Bank,
thương vụ trị giá 21 tỷ USD.
+ Năm 2008 : JPMorgan Chase mua lại Bear Stearns, thương vụ trị giá
1,1 tỷ USD. Bank of Amrerica mua lại Merrill Lynch, thương vụ trị giá 50 tỷ
USD. Wells Fargo mua lại Wachovia, thương vụ trị giá 15,1 tỷ USD.

+ Năm 2012 : PNC Financial Services mua lại RBC Bank, thương vụ
trị giá 3,45 tỷ USD.
+ Năm 2013 : FirstMerit Bank mua lại Citizens Republic Bancorp,
thương vụ trị giá 912 tỷ USD.
Những tiền đề và các yếu tố tác động chính tạo nên động cơ cho hoạt
động M&A ngân hàng tại Mỹ, đó là :
Về bối cảnh lịch sử, Đạo luật Anti-Trust (chống độc quyền) và Đạo luật
Bank Holding Company Act (công ty sở hữu ngân hàng) đã giới hạn hoạt
động ngân hàng và khả năng mở rộng kinh doanh của các ngân hàng Mỹ.
Thêm vào đó, hệ thống ngân hàng Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng đổ vỡ tín
dụng năm 1981 khiến các khoản vay tín dụng có giá trị lớn tại các nước Mỹ
Latinh trở nên xấu đi, các ngân hàng Mỹ gặp khó khăn và phải chịu áp lực
chuyển hướng kinh doanh và tái cơ cấu hệ thống. Với sự ra đời của Đạo luật
Riegle-Neal năm 1994, hoạt động M&A ngân hàng Mỹ được nới rộng ra,
không còn giới hạn trong phạm vi tiểu bang mà có thể thực hiện xuyên các
tiểu bang.
Một trong những chiến lược chuyển hướng mà các ngân hàng Mỹ thực
hiện là việc chuyển chiến lược kinh doanh sang phục vụ thị trường ngân hàng
bán lẻ. Các ngân hàng sử dụng chiến lược này nhằm phục vụ các khách hàng
12

có nhu cầu về các sản phẩm ngân hàng truyền thống như vay ngắn hạn, tín
dụng bất động sản dài hạn, tiền gửi, … và kèm theo đó là các sản phẩm mới
như quỹ tương hỗ, bảo hiểm, tư vấn đầu tư và các dịch vụ quản lý tài chính.
Xu hướng này đã được thực hiện hiệu quả bởi các ngân hàng Citibank và
Well Fargo. Theo đó, để khuyến khích khách hàng sử dụng các dịch vụ, các
ngân hàng giảm phí cho khách hàng sử dụng trọn gói các dịch vụ ngân hàng
cung cấp và ngược lại, phí sẽ được tính tăng lên cho các khách hàng chỉ sử
dụng các sản phẩm ngân hàng cơ bản truyền thống.
Xu hướng cơ cấu thu nhập chủ yếu từ lãi chuyển sang từ thu phí dịch

vụ - dẫn đến xu hướng sáp nhập và mua lại giữa các ngân hàng với nhau hoặc
giữa một chủ thể tài chính ngân hàng với một chủ thể tài chính phi ngân hàng.
Hành động này nhằm mục đích mở rộng dãy sản phẩm phục vụ và tăng cường
các sản phẩm giá trị gia tăng, các sản phẩm trọn gói, … Do vậy, việc sáp nhập
và mua lại giữa các tổ chức ngân hàng với các công ty bảo hiểm, các công ty
môi giới, các ngân hàng đầu tư trở nên phổ biến hơn. Ngân hàng sau khi tiến
hành sáp nhập và mua lại có thể trở thành một siêu thị tài chính bởi lẽ nó đã
mua tất cả các công ty cung cấp các sản phẩm này.
Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng tại Châu Âu
Nhìn chung, hoạt động M&A ngân hàng ở Châu Âu diễn ra mạnh mẽ
vào những năm thập niên 1990 cùng với sự hình thành và phát triển của Liên
minh kinh tế tiền tệ Châu Âu, gắn với sự hình thành các mega bank ở cấp độ
quốc gia từ năm 1999 dẫn đến sự hình thành và phát triển của các hoạt động
mua lại và sáp nhập xuyên biên giới ở trong cộng đồng Châu Âu, và sự hình
thành khối tài chính, tập đoàn tài chính Châu Âu. Suy thoái kinh tế kéo dài
khiến các ngân hàng tại Châu Âu ồ ạt đóng cửa, hoặc sáp nhập để tiết giảm
chi phí và nâng cao hiệu quả hoạt động.
Năm 2012, Hy Lạp là một trong những quốc gia chứng kiến số chi
nhánh bị cắt giảm nhiều nhất với 5,7%, tại Ireland là 3,3%, tại Italia là 3,1%.
13

Tây Ban Nha, một trong số các nền kinh tế đang gặp khó khăn nhất ở châu
Âu, các ngân hàng đã cắt giảm 4,9%, tương ứng 1.963 chi nhánh.
Làn sóng sáp nhập ngân hàng Tây Ban Nha trong ba năm qua phần nào
lý giải cho sự cắt giảm mạnh mẽ các chi nhánh ngân hàng. Sự sụp đổ của lĩnh
vực bất động sản năm 2008 làm gia tăng nợ xấu, sụt giảm thu nhập của ngành
ngân hàng, khiến các quốc gia phải xin cứu trợ của châu Âu càng cho thấy sự
cấp bách phải cắt giảm quy mô hoạt động.
Cắt giảm chi nhánh bằng cách sáp nhập trên khắp châu Âu sẽ cho phép
các ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động của các chi nhánh còn giữ lại.

Nhiều ngân hàng đang hướng tới mục tiêu xây dựng quầy giao dịch nhìn và
cảm nhận tương tự như mô hình cửa hàng Apple kết hợp nhân viên giao dịch
tại quầy và công nghệ. Nhưng đây là sự quá độ có nguy cơ làm hàng triệu
khách hàng tụt hậu, trừ khi ngân hàng duy trì dịch vụ tối thiểu tại quầy.
Theo các chuyên gia kinh tế, tiến trình hợp nhất các ngân hàng ở Châu
Âu vẫn còn tiếp tục diễn ra mạnh mẽ trong những năm sắp tới. Bởi vì, thứ
nhất, có rất nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động M&A ngân hàng như sự
đổi mới về kỹ thuật và công nghệ ngân hàng, chính sách về tài chính ngân
hàng của các quốc gia, tiến trình toàn cầu hóa; thứ hai, số lượng các ngân
hàng trên đầu người ở cộng đồng Châu Âu nhiều gấp hai lần so với ở Mỹ,
chính vì thế sẽ còn rất nhiều cơ hội cho hoạt động M&A; thứ ba, môi trường
kinh doanh không đồng nhất giữa các quốc gia Châu Âu vẫn còn tồn tại,
chính vì thế cùng với quá trình xây dựng cộng đồng Châu Âu thành một thị
trường duy nhất sẽ tạo điều kiện cho hoạt động M&A diễn ra mạnh mẽ hơn.
Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng tại Nhật Bản
Hoạt động M&A ngân hàng tại Nhật Bản gắn liền với sự đổ vỡ bong
bóng bất động sản, mà nguyên nhân là các khoản nợ xấu phát sinh từ các
khoản đầu tư bất động sản và các khoản đầu tư kém hiệm quả khác. Để khắc
phục tình hình yếu kém trên, Chính phủ và các ngân hàng Nhật Bản đã thực
14

hiện hàng loạt vụ M&A ngân hàng. Tuy nhiên, những vụ M&A lớn này vẫn
không giải quyết được những vấn đề tồn đọng mà các ngân hàng này gặp
phải, hiệu quả mang lại không cao, lợi ích kinh tế về quy mô thu được rất ít
và các ngân hàng vẫn chưa trở lại hoạt động hiệu quả do ảnh hưởng của các
yếu tố phát sinh từ nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái.
Hoạt động M&A ngân hàng tại Nhật diễn ra mạnh mẽ hơn với quy mô
lớn hơn do tác động cộng hưởng từ nền kinh tế Nhật Bản yếu kém và cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Đông Á. Các hoạt động M&A được
thực hiện với mục đích là cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động và

giúp các ngân hàng vượt qua khủng hoảng.
Ngày 04/01/2006 chứng kiến sự sáp nhập giữa ngân hàng lớn thứ hai
Nhật Bản là Mitsubishi Tokyo với ngân hàng lớn thứ tư UFJ, hình thành nên
Mitsubishi UFJ Finacial Group (MUFG) – ngân hàng lớn nhất thế giới có
tổng tài sản 1,64 nghìn tỷ USD (vượt qua Citibank). Sự kết hợp giữa thế
mạnh của UFJ ở thị trường bán lẻ và các khu vực ngoài Nhật Bản cùng với
thương hiệu quốc tế và các mối quan hệ với các đại tập đoàn của Mitsubishi
Tokyo sẽ giúp MUFG tạo nên một vị thế vững chắc trong hệ thống tài chính –
ngân hàng.
Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng tại Trung Quốc
Để tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM sau khi gia nhập WTO,
chiến lược trung hạn của Trung Quốc là phát triển các thể chế tài chính lành
mạnh, không bị tổn thương bởi làn sóng cạnh tranh nước ngoài và phát triển
thị trường liên ngân hàng, tạo điều kiện cho tự do hóa lãi suất và quản lý rủi
ro.
Quá trình M&A ngân hàng tại Trung Quốc có những hoạt động nổi bật
sau : Bộ tài chính Trung Quốc phát hành trái phiếu đặc biệt để tăng cường
vốn cho những ngân hàng lớn, nâng tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trung bình của
các ngân hàng này từ 4,4% lên 8% đúng theo Luật NHTM Trung Quốc.
15

Thành lập các Công ty quản lý tài sản (AMCs) để xử lý nợ xấu của bốn
NHTM lớn. Cổ phần hóa bốn NHTM lớn của Trung Quốc và khuyến khích
các ngân hàng này phát cổ phiếu trên thị trường trong và ngoài nước, coi đây
như một cách để tăng vốn và nâng cao năng lực quản lý. Sự giám sát tài chính
đối với các ngân hàng cũng được củng cố.
Sau gần 10 năm kể từ khi gia nhập WTO, các ngân hàng của Trung
Quốc không dễ bị thôn tính bởi các đối thủ nước ngoài do Chính phủ Trung
Quốc đã có những phản hồi đúng hướng và có những bước đi thận trọng. Mở
cửa thị trường tài chính và sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài đã trở

thành động lực cho khu vực tài chính của Trung Quốc trong việc cải cách thể
chế cơ cấu mà không đem lại những cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Có thể dẫn chứng sự thành công của chiến lược này của các NHTM
Trung Quốc qua kết quả đạt được tại Ngân hàng ICBC. ICBC đã nâng cấp hệ
thống ngân hàng trực tuyến của mình lên gấp hai lần trong hai năm đầu thực
hiện chiến lược và đã thu được giá trị giao dịch lên đến 4 tỷ Nhân Dân Tệ
(482 triệu USD/ngày) kể từ tháng 12/2003. ICBC cũng dẫn đầu trong việc
cung cấp các dịch vụ thanh toán trực tuyến cước điện thoại cố định và di động
tại thị trường nội địa. Hầu hết các công ty bảo hiểm, trong số 10 tập đoàn môi
giới bảo hiểm lớn nhất Trung Quốc và một số tổ chức tài chính đa quốc gia –
trong đó phải kể đến Citibank, là khách hàng trong tổng số 5.600 khách hàng
của hệ thống ngân hàng trực tuyến ICBC.
Thế mạnh của các NHTM Trung Quốc so với các NHTM nước ngoài là
họ dễ chiếm lĩnh lòng tin của khách hàng nội địa hơn. Do vậy, họ đã biết tận
dụng lợi thế này để phát triển dịch vụ mới và hiện đại (là điểm mạnh của ngân
hàng nước ngoài), những dịch vụ này cũng cần có sự tin tưởng của khách
hàng, vì vậy họ đi trước và đã thành công. Xã hội và văn hóa truyền thống
Trung Quốc đã trở thành một rào cản vô hình ngăn chặn sự tấn công mạnh mẽ
của các đối thủ cạnh tranh đến từ bên ngoài biên giới.
16

Hoạt động mua lại và sáp nhập ngân hàng tại Đông Nam Á
Tại các nước Đông Nam Á, hoạt động M&A ngân hàng cũng diễn ra
dưới tác động của cuộc khủng hoảng và sự phá giá của đồng bản tệ, hệ thống
ngân hàng các quốc gia này đã lâm vào tình trạng thua lỗ và đứng trước nguy
cơ phá sản. Các ngân hàng phải tiến hành sáp nhập và mua lại với nhau và với
các đối tác nước ngoài nhằm thoát khỏi nguy cơ phá sản, và phải tiến hành cơ
cấu để phục hồi.
Ở Thái Lan, các ngân hàng nước ngoài, mà cụ thể nhiều nhất là HSBC
Anh Quốc và các ngân hàng Singapore vốn ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng

hoảng, đã mua lại các tổ chức ngân hàng của các quốc gia Đông Nam Á nhằm
mục đích vừa để cứu các ngân hàng này khỏi nguy cơ phá sản đồng thời cũng
là bước thâm nhập thị trường nội địa các quốc gia này sau cuộc khủng hoảng.
Ví dụ điển hình là tập đoàn ngân hàng Singapore United Oversea Bank
(UOB) mua lại ngân hàng đang thua lỗ Nakomthon (Thái Lan).
Trong giai đoạn khủng hoảng tài chính tiền tệ này, các quốc gia này đã
đưa ra chính sách củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng bằng cách xây
dựng mô hình Tập đoàn ngân hàng Neo (Anchor), đáp ứng các tiêu chuẩn đưa
ra đến năm 2020. Các tiêu chuẩn đó như sau :
+ Có vốn chủ sở hữu mạnh và ổn định : với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
CAR là 12%, và chỉ số an toàn vốn cấp 1 (Tier 1 Capital Ratio) tối thiểu là
6%, trong khi đó, theo yêu cầu của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) và
chuẩn mực an toàn hoạt động ngân hàng của Ủy ban Basel tương ứng là 8%
và 4%.
+ Có lợi nhuận ổn định : tỷ số lợi nhuận/tài sản ROA tối thiểu là 1,5%.
+ Các ngân hàng là các trung gian tài chính phát triển lành mạnh, phát
triển tín dụng mỗi năm tăng 22%, tỷ lệ nợ/tiền gửi tối thiểu là 50%, tỷ lệ nợ
xấu dưới 5%.

×