Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.66 KB, 20 trang )

Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: Quy định còn bất cập!
Thực tiễn thi hành pháp luật cho thấy một số quy định trong điều luật của phần chung và
phần các tội phạm của Bộ luật Hình sự (BLHS) hiện hành về vấn đề “tuổi chịu trách
nhiệm hình sự” và “người đã thành niên” đang là vướng mắc không nhỏ cho các cơ quan
tiến hành tố tụng bởi sự quy định không rõ ràng, mâu thuẫn trong các điều luật.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) mặc dù không được ghi nhận chính thức dưới góc
độ lập pháp là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của tội phạm trong Điều 8 BLHS, tuy
nhiên, dấu hiệu này lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ TNHS của người
phạm tội. Đây cũng như là dấu hiệu không thể thiếu trong yếu tố chủ thể của tội phạm
bên cạnh dấu hiệu “năng lực TNHS”. Ngoài ra, độ tuổi chịu TNHS cũng là một vấn đề
quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Điều 12 BLHS về “Tuổi chịu TNHS” quy định như sau: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên
phải chịu TNHS về mọi tội phạm; 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng”. Như vậy, pháp luật hình sự Việt Nam quy định độ tuổi chịu TNHS theo hai mức:
từ đủ 14 đến dưới 16 và từ đủ 16 tuổi trở lên.
Căn cứ vào nội dung Điều 12 BLHS cho thấy có sự chưa thống nhất giữa quy định của
điều luật này với nội dung của quy định trong Phần các tội phạm của BLHS. Cụ thể, theo
khoản 1 Điều 12 BLHS thì: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi tội phạm ”. Nhưng tại khoản 1 Điều 115 BLHS về Tội giao cấu với trẻ em lại quy
định: “1.Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm ”.
Theo đó, nếu một người 17 tuổi mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì
không phải chịu TNHS vì theo khoản 1 Điều 115 BLHS quy định chủ thể phải là người
“đã thành niên” nghĩa là đủ 18 tuổi. Trong khi đó nếu theo khoản 1 Điều 12 BLHS thì
người này lại phải chịu TNHS, vì các nhà làm luật đã quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên
1
phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm nghĩa là bất kỳ tội phạm nào được quy
định trong Phần các tội phạm của BLHS - trong đó có cả tội giao cấu với trẻ em.
Thiết nghĩ, để pháp luật được hiểu và áp dụng một cách thống nhất, đồng bộ thì tại
khoản 1 Điều 12 BLHS phải được sửa đổi, bổ sung thành: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên


phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ trường hợp điều luật trong Phần các
tội phạm BLHS có quy định khác”.
Lê Nguyễn
2
Bàn về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên
Trong những năm gần đây, vấn đề người chưa thành niên phạm tội đã gióng lên
những hồi chuông cảnh tỉnh đáng báo động. Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của
Bộ Công an () chỉ tính riêng trong năm 2010, trên địa bàn cả nước
có 13.572 đối tượng phạm tội là thanh thiếu niên, tăng nhiều lần so với những năm
trước cả về số lượng phạm tội lẫn các vụ trọng án. Về độ tuổi, theo thống kê của Cục
Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội thì tình hình tội phạm do người chưa
thành niên từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực hiện có chiều hướng gia tăng và
chiếm tỷ lệ cao nhất, khoảng 60%; từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chiếm khoảng
32% và dưới 14 tuổi chiếm khoảng 8% trong tổng số các vụ phạm tội do người chưa
thành niên và trẻ em thực hiện. Về cơ cấu tội phạm, theo thống kê mới nhất của
Viện kiểm sát Nhân dân tối cao và Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội,
thì hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người chưa thành niên tập trung nhiều
nhất vào các nhóm tội xâm phạm sở hữu; xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân
phẩm và danh dự con người, một số tội xâm phạm an toàn trật tự công cộng. Trong
đó, tội danh trộm cắp tài sản chiếm 38%, cố ý gây thương tích chiếm 11%, đặc biệt
là giết người chiếm 1,4% trong tổng số tội phạm do người chưa thành niên thực
hiện. Tuy nhiên, khi xét xử một số vụ án do người chưa thành niên gây ra (nhất là
một số vụ trọng án) trong thời gian gần đây, có nhiều ý kiến cho rằng hình phạt
dành cho các bị cáo là người chưa thành niên chưa tương xứng với tính chất và mức
độ phạm tội. Điều này đặt ra vấn đề là: Vậy thế nào là người chưa thành niên, có
nên giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của người chưa thành niên phạm tội hay
không?. Sau đây xin được đưa ra một vài ví dụ cụ thể về các vụ án do người chưa
thành niên gây ra trong thời gian vừa qua.
* Vụ án thứ nhất: Ngày 27-5-2011, VKSND thành phố Hà Nội đã hoàn tất cáo trạng
truy tố Đào Thị Thu Hương (tức My sói) sinh năm 1996 ở quận Hoàng Mai, Hà Nội

3
và đồng bọn về tội "hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em và cướp tài sản". Cùng bị truy tố với
My sói là các đồng phạm Trịnh Thăng Long (sinh năm 1992) ở xã Công Chính,
huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa; Nguyễn Xuân Thắng (sinh năm 1993) ở Vĩnh
Quỳnh, Thanh Trì, Hà Nội, Nguyễn Đức Hoàng (sinh năm 1992) ở phường Điện
Biên, Đống Đa, Hà Nội; Lê Quang Vinh (sinh năm 1991) ở quận Hoàng Mai, Hà Nội
và Trần Hoàng Nam (sinh năm 1992) ở quận Long Biên, Hà Nội. Do cần tiền tiêu
xài, Đào Thị Thu Hương và Trịnh Thăng Long (là người tình của Hương) nảy ra ý
định lừa các phụ nữ đưa vào nhà nghỉ nhằm mục đích hiếp dâm và cướp tài sản. Để
thực hiện, nhóm này lên mạng internet để "chat" làm quen với các với bé gái rồi rủ
họ đi chơi. Chỉ cần gặp mặt được nạn nhân, nhóm này dùng vũ lực ép đi theo, sau
đó đánh đập, đe dọa, khống chế đưa đến các nhà nghỉ để tổ chức hiếp dâm tập thể,
cướp tài sản. My sói có lên mạng và quen với Phạm Thị Triều, sau khi hẹn gặp cô
gái này, nhóm của My sói đã ép nạn nhân về một nhà nghỉ gần ga Giáp Bát để hiếp
dâm. Sau đó nhóm của My sói tiếp tục cướp 1 sợi dây chuyền vàng trị giá hơn 600
nghìn đồng của lễ tân nhà nghỉ. Liên tục lên mạng chat và tìm các cô gái nhẹ dạ My
sói và đồng bọn lại tiếp tục gây ra bốn vụ nữa. Khi cướp điện thoại của hai cô bé
sinh năm 1995 và đưa vào nhà nghỉ thì nhóm của My sói bị Công an quận Đống Đa
bắt giữ. Từ ngày 16/7/2010 đến ngày 20/7/2010, nhóm này đã gây ra tổng cộng 5 vụ
cướp tài sản, tổng giá trị trên 30 triệu đồng; 02 vụ hiếp dâm và 01 vụ hiếp dâm trẻ
em. Tổng hợp hình phạt trong vụ án lên đến 160 năm tù cho 8 bị cáo.
* Vụ án thứ hai: Vụ án cướp tiệm vàng Ngọc Bích
Ngày 20/8/2011, Lê Văn Luyện (huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang) nhờ bạn đưa lên
thị trấn Chũ mua ba lô, đèn pin và con dao phớ. Hôm sau, anh ta mua thêm dao gấp
và lang thang tại huyện Lục Nam quan sát các cửa hàng vàng nhằm mục đích cướp
tài sản. Tại phố Sàn, đối tượng Lê Văn Luyên quan sát thấy tiệm vàng Ngọc Bích có
thanh sắt trang trí nằm ngang giống bậc thang có thể dễ dàng trèo lên tầng 3 đột
nhập. Tối 22/8, Luyện quanh quẩn ở khu vực tiệm vàng Ngọc Bích chờ cơ hội, song
do quán ăn bên cạnh mở cửa quá khuya, âm mưu này không thực hiện được.
4

Khoảng 3h ngày 24/8, khi trời bắt đầu nổi gió và mưa, Luyện trèo theo cây, leo lên
ban công tầng 3 của tiệm Ngọc Bích. Cậy được cửa, hắn đi vào lục tìm tài sản ở một
số phòng nhưng không phát hiện được gì. Phát hiện hiện camera, chuông báo động
chống trộm, cầu dao điện, anh ta ngắt cầu dao, rút dây camera. Luyện định cậy phá
tủ trưng bày vàng nhưng sợ gây tiếng động, bị lộ nên quay lên tầng 3. Hắn chờ chủ
nhà ra khỏi phòng ngủ sẽ bất ngờ giết chết từng người để dễ dàng cướp tài sản. Đến
khoảng 6h sáng, nghe thấy tiếng động, Luyện phát hiện anh Ngọc đang bê chậu
quần áo lên tầng 3 nên bám theo. Luyện cầm dao tấn công ông chủ nhà Nạn nhân
giằng co với Luyện. Chị Chín đang ở tầng 2 nghe thấy tiếng kêu của chồng chạy lên
tầng 3 hô hoán đồng thời xông vào cứu chồng. Trong quá trình giằng co, chị Chín và
Luyện bị trơn trượt ngã xuống sàn nhà, anh Ngọc giằng được con dao Nhưng chủ
nhà do bị thương quá nhiều cũng không chống lại được Luyện. Hắn sau đó giết chết
đôi vợ chồng này. Biết trong nhà còn người, Luyện chạy xuống tầng 2, thấy cháu
Bích (con gái lớn của chủ tiệm vàng đang học lớp 3) đang cầm điện thoại, hắn tiếp
tục vung dao chém vào đứa trẻ. Tưởng Bích đã chết, Luyện bỏ đi và sát hại tiếp con
gái út mới 18 tháng tuổi của chủ nhà đang nằm trên giường ngủ. Sau đó đối tượng
phá tủ kính tủ lấy toàn bộ số vàng, gọi anh họ Trương Thanh Hồng đến đón. Luyện
bỏ trốn tới Lạng Sơn, ngày 31/8 thì bị bắt giữ. Cơ quan điều tra cho biết, Luyện đã
cướp hơn 200 chỉ vàng ta, gần 153 chỉ vàng tây, một điện thoại di động. Tổng giá trị
tài sản hơn 1,27 tỷ đồng. Với hành vi giết chết vợ chồng anh Ngọc, cùng con gái mới
18 tháng tuổi, gây thương tật 76% cho bé Bích, Luyện bị đề nghị truy tố về các
tội: giết người, cướp tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Cơ quan điều
tra xác định, Luyện là thủ phạm duy nhất gây án giết người. Khi phạm tội Lê Văn
Luyện chưa đủ 18 tuổi.
Ở Việt Nam, độ tuổi người chưa thành niên được quy định trong Hiến Pháp năm
1992, bộ luật hình sự năm 1999, bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, bộ Luật lao động,
bộ luật Dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Luật hình sự Việt Nam
đề cập đến người chưa thành niên phạm tội dưới hai phương diện. Một mặt, họ là
5
đối tượng cần được bảo vệ đặc biệt bằng luật hình sự khỏi những hành vi bị coi là

tội phạm. Mặt khác, người chưa thành niên còn là chủ thể của tội phạm.
Điều 12 Bộ luật hình năm 1999 sự quy định:
"1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng".
Người chưa thành niên là người chưa phát triển một cách đầy đủ về tâm, sinh lý,
khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn nhiều hạn chế; dễ bị kích động, dụ
dỗ, lôi kéo vào việc thực hiện tội phạm, nhưng cũng dễ uốn nắn, cải tạo, giáo dục họ
trở thành người có ích cho xã hội. Đường lối xử lý người chưa thành niên phạm tội
được quy định tại chương X của Bộ luật hình sự. Theo đó, việc xử lý Người chưa
thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ, uốn nắn, sửa sai, giúp họ phát
triển, hoàn thiện về nhận thức và về hành vi phù hợp với xã hội; không áp dụng
hình phạt chung thân, tử hình, hình phạt tiền, hình phạt bổ sung đối với Người chưa
thành niên phạm tội. Ở đây, cũng cần phân biệt khái niệm “người chưa thành niên
phạm tội” với khái niệm “tội phạm do người chưa thành niên gây ra”. Người chưa
thành niên phạm tội là khái niệm dùng để chỉ một dạng chủ thể đặc biệt của tội
phạm là người chưa thành niên còn khái niệm Tội phạm do người chưa thành niên
gây ra là khái niệm dùng để chỉ tội phạm đã được thực hiện trên thực tế bởi người
chưa thành niên. Tội phạm do người chưa thành niên gây ra bao giờ cũng gắn liền
với một người chưa thành niên có hành vi phạm tội cụ thể nhưng không phải mọi
trường hợp một người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đều trở thành tội
phạm.
Điều 69 Bộ luật hình sự 1999 quy định:
"1. Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ
sữa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội.
6
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành
niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ
về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện
gây ra tội phạm.

2. Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu người
đó phạm tội ít nghiêm trọng, gây hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được
gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
3. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng
hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào
tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm.
4. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội, thì Tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy
định tại Điều 70 của Bộ luật này
5. Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Toà án cho người chưa thành niên phạm tội được hưởng
mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đã thành niên phạm tội tương ứng.
Không áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội ở độ tuổi từ đủ
14 tuổi đến dưới 16 tuổi.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người chưa thành niên phạm tội.
6. Án đã tuyên đối với người chưa thành niên phạm tội khi chưa đủ 16 tuổi, thì không
tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm".
Điều 71 Bộ luật hình sự cũng quy định, Người chưa thành niên phạm tội chỉ có thể bị
xử phạt bằng một trong các hình phạt sau đây: Cảnh cáo, phạt tiền, (đối với người từ
7
đủ 16 đến dưới 18 tuổi đã có thu nhập hoặc có tài sản riêng); cải tạo không giam giữ,
tù có thời hạn.
Khái niệm người chưa thành niên còn được ghi nhận qua các Điều ước quốc tế và
pháp luật của các quốc gia. Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội
đồng Liên Hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi nhận: "trong phạm vi công
ước này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi". Tuy nhiên, công ước này không
thiết lập được một độ tuổi cụ thể chung mà độ tuổi này được ghi nhận một cách
khác nhau trong luật pháp của các quốc gia khác nhau. Độ tuổi theo đó trẻ em bị coi
là phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình cũng thay đổi theo thời gian, và nó

được phản ánh theo cách chúng được đối xử tại các phiên toà của pháp luật. Thời
La Mã, trẻ em bị coi là không có lỗi về các tội phạm, một lập trường sau này được
Nhà thờ chấp nhận. Ở thế kỷ 19, trẻ em chưa tới bảy tuổi được cho là không phải
chịu trách nhiệm về mọi tội lỗi. Trẻ em từ bảy tuổi trở nên bị coi là phải chịu trách
nhiệm về hành vi. Vì thế, chúng có thể phải đối mặt với các trách nhiệm tội phạm, bị
gửi tới nhà tù của người lớn, và bị trừng trị như người lớn như đánh roi, đóng dấu ô
nhục hay treo cổ.
Tại Mỹ, độ tuổi của trách nhiệm hình sự được thành lập theo quy định của pháp
luật nhà nước. Chỉ có 13 tiểu bang đã thiết lập độ tuổi tối thiểu, khoảng từ 6 đến 12
tuổi. Hầu hết các bang dựa vào pháp luật chung, nắm giữ từ 7 tuổi đến 14 tuổi, trẻ
em không có thể được coi là chịu trách nhiệm nhưng có thể được tổ chức chịu trách
nhiệm.
Tại Nhật Bản, người phạm tội dưới 20 tuổi được xét xử tại một tòa án gia đình, chứ
không phải là trong hệ thống tòa án hình sự. Trong tất cả các nước Bắc Âu, tuổi
trách nhiệm hình sự là 15, và thanh thiếu niên dưới 18 tuổi có thể đến một hệ thống
tư pháp là hướng chủ yếu đối với các dịch vụ xã hội, giam giữ như là phương sách
cuối cùng. Tính đến tháng 4 năm 1997, chỉ có 15 người chưa thành niên đang chấp
hành hình phạt tù ở Thụy Điển.
8
Ở Trung Quốc, trẻ em từ 14 đến 18 tuổi được xử lý bằng hệ thống tư pháp vị thành
niên và có thể bị kết án tù chung thân đối với tội đặc biệt nghiêm trọng.
Trong hầu hết các nước châu Mỹ La tinh, các cải cách của pháp luật về công lý trẻ
vị thành niên đang được tiến hành. Kết quả là, trách nhiệm hình sự người lớn tuổi
đã được nâng lên đến 18 ở Brazil, Colombia và Peru. Trẻ em từ 12 đến 18 tuổi phải
chịu trách nhiệm dưới một hệ thống công lý vị thành niên.
Tại Việt Nam, theo Điều 1 Luật bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam
năm 2004 thì "trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi". Như vậy độ tuổi chịu
trách nhiệm hình sự của người thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển về
mặt thể chất và tinh thần của con người; trình độ phát triển về nhận thức xã hội;
điều kiện kinh tế-xã hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ. Như vậy, sự khác biệt

trong pháp luật của các quốc gia cũng phản ánh một sự thiếu đồng thuận trong cộng
đồng quốc tế về độ tuổi chiụ trách nhiệm hình sự.

Độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của một số
quốc gia trên thế giới

Mexico * 6-12
Bangladesh 7
Ấn Độ 7
Myanmar 7
Nigeria 7
Pakistan 7
Nam Phi 7
Sudan 7
9
Tanzania 7
Thái Lan 7
Hoa Kỳ ** 7
Indonesia 8
Kenya 8
Vương quốc Anh
(Scotland)
8
Ethiopia 9
Iran *** 9

Nepal 10
Vương quốc Anh (Anh) 10
Vương quốc Anh (xứ
Wales)

10
Ukraine 10
Hàn Quốc, Rep . 12
Morocco 12
Uganda 12
Algeria 13
Pháp 13
Ba Lan 13
Uzbekistan 13
Trung Quốc 14
Đức 14
10
Ý 14
Nhật Bản 14
Liên bang Nga 14
Việt Nam 14
Ai Cập 15
Argentina 16
Brazil **** 18
Colombia **** 18
Peru **** 18
Việc trong thời gian vừa qua có những vụ trọng án gây ra bởi người chưa thành
niên đã tạo nên sự bức xúc lớn trong cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ bản
chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và chính sách nhân đạo của Đảng và nhà nước
ta được cụ thể hoá trong luật hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan thì việc
xử lý đối với những đối tượng người chưa thành niên phạm tội chủ yếu để giáo dục
cải tạo họ trở thành những công dân có ích cho xã hội là hoàn toàn đúng đắn. Tuy
nhiên, việc xử lý đối tượng là người chưa thành niên phạm tội cần phải đi đôi với
việc giải quyết những nguyên nhân sâu xa của tội phạm; có sự chung tay của cá
nhân, gia đình, nhà trường và toàn xã hội…để góp phần ngăn chặn kịp thời, có hiệu

quả tình hình người chưa thành niên phạm tội nói riêng và tình hình tội phạm nói
chung.
Hồ Nguyễn Quân.
11
BLHS hiện hành mâu thuẫn trong quy định tuổi chịu TNHS và người đã thành niên
Một số quy định trong điều luật của phần chung và phần các tội phạm của BLHS
hiện hành về vấn đề “tuổi chịu trách nhiệm hình sự” và “người đã thành niên” đang
là vướng mắc không nhỏ cho các cơ quan tiến hành tố tụng bởi sự quy định không
rõ ràng, mâu thuẫn trong các điều luật.
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự
Tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) mặc dù không được ghi nhận chính thức
dưới góc độ lập pháp là một đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản của tội phạm trong Điều 8
BLHS tuy nhiên, dấu hiệu này lại có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sáng tỏ
TNHS của người phạm tội, cũng như là dấu hiệu không thể thiếu trong yếu tố chủ
thể của tội phạm bên cạnh dấu hiệu “năng lực TNHS”. Ngoài ra, độ tuổi chịu TNHS
cũng là một vấn đề cần làm rõ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Điều 12
BLHS về “Tuổi chịu TNHS” quy định:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu TNHS về mọi tội phạm;
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất
nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Như vậy, việc các nhà làm luật Việt Nam quy định độ tuổi chịu TNHS trong BLHS
theo hai mức (từ đủ 14 đến dưới 16 và từ đủ 16 tuổi trở lên) như vậy là dựa trên một
số căn cứ chính: Dựa vào các đặc điểm tâm - sinh lý, thể chất, khả năng nhận thức
của người chưa thành niên ở Việt Nam. Dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn đấu tranh
phòng ngừa và chống tội phạm nói chung, phòng ngừa và chống tội phạm do người
chưa thành niên thực hiện nói riêng ở nước ta; qua kết quả của nhiều công trình, dự
án, khảo sát khoa học về Luật Hình sự, tội phạm học, điều tra hình sự, tâm lý học,
giáo dục học; v.v Căn cứ vào chính sách hình sự của Nhà nước, đường lối xử lý tội
phạm do người chưa thành niên thực hiện và người phạm tội là người chưa thành
12

niên. Dựa vào các điều kiện kinh tế - chính trị, văn hóa - xã hội, lịch sử - truyền
thống của đất nước và có sự tham khảo, nghiên cứu các quy định của pháp luật hình
sự nước ngoài.
Ngoài ra, để bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên trong quá trình giải quyết
vụ án hình sự, trước đây Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5-1-1986 của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS năm 1985 cũng quy
định rõ việc xác định tuổi của bị cáo như sau: Cách tính tuổi do luật quy định là “đủ
14 tuổi”, hoặc “đủ 16 tuổi”, tức là tính theo tuổi tròn. Ví dụ: sinh 1-1-1975 thì đến 1-
1-1989 mới đủ 14 tuổi. Trong trường hợp không có điều kiện xác định được chính
xác ngày sinh thì tính ngày sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh và nếu cũng
không có điều kiện xác định chính xác tháng sinh thì xác định ngày sinh là 31-12 của
năm sinh.
Cần sửa đổi bổ sung cho phù hợp
Như vậy, căn cứ vào nội dung Điều 12 Bộ luật Hình sự về “Tuổi chịu trách nhiệm
hình sự” cho thấy một vấn đề cần sửa đổi, bổ sung đó là sự chưa thống nhất giữa
quy định của điều luật này với nội dung của Phần các tội phạm trong Bộ luật Hình
sự. Theo khoản 1 Điều 12 Bộ luật Hình sự thì: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm ”. Tuy nhiên, giữa các quy định của
Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự và quy định về độ tuổi đã nêu tại Phần chung
còn chưa thống nhất. Ví dụ: Khoản 1 Điều 12 quy định như vậy, trong khi đó khoản
1 Điều 115 (Tội giao cấu với trẻ em) lại quy định:
“1. Người nào đã thành niên mà giao cấu với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi,
thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm ”. Như vậy, nếu một người là 17 tuổi mà giao cấu
với trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi thì không phải chịu trách nhiệm hình sự
(khoản 1 Điều 115 vì điều luật này quy định chủ thể phải là người “đã thành niên”),
trong khi đó nếu theo khoản 1 Điều 12 thì người này lại phải chịu trách nhiệm hình
sự, vì các nhà làm luật đã quy định người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
13
nhiệm hình sự về mọi tội phạm, đồng thời “mọi tội phạm” là bất kỳ tội phạm nào
được quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật (trong đó có cả tội giao cấu với

trẻ em). Theo tôi, để hoàn thiện Bộ luật Hình sự thì khoản 1 Điều 12 phải được sửa
đổi, bổ sung thành: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về
mọi tội phạm, trừ trường hợp điều luật trong Phần các tội phạm Bộ luật Hình sự có
quy định khác.
TS. Trịnh Tiến Việt
Thế nào là người già?
Sức khỏe cũng như tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên nên nếu xác
định 60 tuổi là già sẽ không còn phù hợp?
Từ một vụ án đăng trên Pháp Luật TP.HCM về chuyện tòa xử sai khi cho một bị
cáo 65 tuổi được hưởng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội là người già”, nhiều bạn
đọc đã thắc mắc: Theo quan niệm chung của xã hội và theo quy định của pháp luật,
người bao nhiêu tuổi là người già?
Chúng tôi đã trao đổi với nhiều chuyên gia để tìm câu trả lời về vấn đề này.
Dân gian: 60 tuổi đã là già?
Theo nhà nhân học PGS-TS Phan An (Viện Phát triển bền vững vùng Nam Bộ),
quan niệm của dân ta từ xưa đến nay vẫn cho rằng người già là người từ 60 tuổi trở
lên. Sở dĩ ở độ tuổi đó được cho là già bởi nhiều yếu tố: Theo phong tục tập quán
truyền thống, những người từ 60 tuổi đã hoàn thành một chu kỳ về mặt sinh học.
Đồng thời, điều kiện sống trước đây thiếu thốn về mặt vật chất, chế độ dinh dưỡng,
y tế… Vì vậy, những người sống được đến 60 tuổi đã được coi là sống lâu. Ngày nay,
điều kiện kinh tế phát triển, đời sống được nâng cao hơn nên tuổi thọ con người
cũng được tăng lên nhưng quan niệm về người già vẫn không hề thay đổi.
14
Đồng tình, một luật gia Hội Luật gia TP.HCM cho rằng với thể trạng của người Việt
Nam ở độ tuổi 60 thì đa số sức khỏe thể chất đã giảm sút rất nhiều. Mặc dù chúng ta
vẫn có thể thấy một số người trên 60 tuổi còn cường tráng nhưng đó chỉ là những
trường hợp cá biệt mà thôi. Vì vậy, người ở tuổi 60 trở lên đã có thể coi là người già,
được pháp luật bảo đảm các nhu cầu cơ bản về ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc sức khỏe
cũng như được tạo điều kiện tham gia hoạt động văn hóa, giáo dục, thể dục, thể
thao…

Pháp luật: Chưa rõ!
Theo nhiều chuyên gia khác, trong hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay chỉ đề
cập và giải thích khái niệm về “người cao tuổi”. Cụ thể là Pháp lệnh Người cao tuổi
năm 2000, hiện đã được thay thế bằng Luật Người cao tuổi năm 2009. Theo pháp
lệnh, “người cao tuổi” là công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ 60
tuổi trở lên. Còn theo luật hiện hành, “người cao tuổi” là công dân Việt Nam từ đủ
60 tuổi trở lên.
Riêng về “người già”, chỉ có BLHS đề cập tới nhưng lại không hề giải thích khái
niệm. Theo đó, BLHS quy định tình tiết “người phạm tội là người già” là một tình
tiết giảm nhẹ (điểm m khoản 1 Điều 46), tình tiết “phạm tội đối với người già” là
một tình tiết tăng nặng (điểm h khoản 1 Điều 48). Ngoài ra, BLHS còn quy định
“người đã quá già yếu” có thể được tòa án xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt
(Điều 58). Tuy nhiên, như thế nào là “người già”, “người quá già yếu” thì BLHS lại
không giải thích.
Chính vì vậy, để vận dụng pháp luật hình sự thống nhất, TAND Tối cao đã ban
hành hướng dẫn giải thích hai khái niệm này. Theo Nghị quyết số 01/2006 của Hội
đồng Thẩm phán TAND Tối cao, “người già” là “người từ 70 tuổi trở lên”. Còn theo
Nghị quyết số 01/2007 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao, “người quá già
yếu” là “người từ 70 tuổi trở lên hoặc là người từ 60 tuổi trở lên nhưng thường
xuyên đau ốm”.
15
Cao tuổi có phải là già?
Liên quan đến hai hướng dẫn trên, đã có những ý kiến cho rằng TAND Tối cao nên
giải thích lại khái niệm “người già” trong pháp luật hình sự là người từ đủ 60 tuổi
trở lên cho phù hợp với quan niệm dân gian cũng như Luật Người cao tuổi. Tuy
nhiên, cũng có không ít ý kiến phản đối.
Theo luật sư Lê Quang Y, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai, hiện nay
sức khỏe cũng như tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đã tăng lên nên nếu xác
định 60 tuổi là già thì e rằng không còn phù hợp. Vì vậy, ông đồng tình với quan
điểm của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao khi xác định “người già” là người từ

70 tuổi trở lên.
Luật sư Đoàn Công Thiện (Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang) thì cho rằng không thể
đồng nhất khái niệm “người cao tuổi” với “người già”. Theo ông, người cao tuổi
chưa chắc đã già, đã yếu bởi có những người hơn 60 tuổi nhưng “vẫn khỏe như
thanh niên”. Luật Người cao tuổi lấy mốc 60 tuổi nhằm giải quyết những vấn đề an
sinh xã hội, bảo vệ quyền lợi cho những người đã qua tuổi lao động mà thôi. Xét ở
khía cạnh sinh học thì người già là những người đang ở giai đoạn lão hóa mạnh, khi
cơ bắp, trí tuệ đã ở vào thời kỳ thấp nhất. Vì vậy, pháp luật hình sự nên quy định
người già là người từ 70 tuổi trở lên nhằm tăng mức bảo vệ hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm nếu họ là chủ thể của tội phạm.
Theo Nho giáo, 50 tuổi đã “biết mệnh trời”
Xã hội phong kiến Việt Nam trước đây chịu ảnh hưởng chặt chẽ của Nho giáo
(còn gọi là Khổng giáo). Chương “Vi chính” của sách Luận ngữ ghi lại lời nói
của Khổng Tử, nhà tư tưởng – nhà sáng lập Nho giáo, như sau: “Ngô thập hữu
ngũ nhi chí vu học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên
mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ”.
Tạm dịch nghĩa: “Mười lăm tuổi, ta đã để hết tâm trí vào sự học. Ba mươi tuổi, ta
16
vững chí mà tiến trên đường đời. Bốn mươi tuổi, tâm trí ta sáng suốt, hiểu rõ việc
phải trái đạt được sự lý, chẳng còn nghi hoặc. Năm mươi tuổi, ta biết mệnh trời,
tức là lẽ đạo mầu nhiệm lưu hành trong thiên hạ. Sáu mươi tuổi, những lời tiếng
lọt vào tai, ta hiểu ngay, không cần tốn công suy nghĩ. Bảy mươi tuổi, trong tâm ta
dù có muốn điều gì cũng chẳng hề trái phép”.
Cần dựa trên nghiên cứu khoa học khi luật hóa
BLHS hiện không quy định rõ “người già” là người từ bao nhiêu tuổi nên tòa án
khi xét xử phải dựa vào nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND
Tối cao. Vấn đề là để luật hóa một khái niệm nào đó thì nhà làm luật cần phải dựa
trên tiêu chí khoa học. Chẳng hạn, tuổi thọ của người Việt Nam trung bình hiện
nay là 69 tuổi mà lại quy định 70 tuổi mới là “người già” thì rõ ràng chưa hợp lý.
Để có sự thống nhất trong toàn hệ thống pháp luật thì phải có một công trình

nghiên cứu cụ thể làm căn cứ quy định vào luật.
Kiểm sát viên cao cấp VÕ VĂN THÊM, Viện Phúc thẩm III VKSND Tối cao
Hướng dẫn đã phù hợp
Quy định về người cao tuổi chủ yếu mang tính chất nhân văn, nâng cao truyền
thống kính trọng người cao tuổi. Người cao tuổi là những người có thâm niên
sống chứ chưa chắc đã già yếu. Riêng trong lĩnh vực pháp luật hình sự, “người
già” đồng nghĩa với yếu nên cần được pháp luật bảo vệ hoặc giảm nhẹ hình phạt.
Vì vậy, “nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao là hoàn
toàn hợp lý” .
Luật sư Nguyễn Thanh Lương, Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bến Tre
Tiến Hiểu – Hồng Tú
Theo: Tạp chí Pháp luật TP.HCM online
Nên thống nhất từ 60 là già
17
Khái niệm người già được dùng rộng rãi trong xã hội, trên các phương tiện thông
tin đại chúng, trong các văn kiện của cơ quan, tổ chức… Tuy nhiên, tra Từ điển
Tiếng Việt lại không thấy khái niệm này.
Trong xã hội, người già được hiểu là người cao tuổi, là người được xã hội kính
trọng, quan tâm, chăm sóc, bảo vệ. Theo tài liệu về y sinh học quốc tế thì người từ
60 đến 74 tuổi là người có tuổi, từ 75 đến 89 tuổi là người già, từ 90 tuổi trở lên là
người già sống lâu.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, BLHS có đề cập đến người già nhưng lại không
quy định người như thế nào được coi là người già. Tại tiểu mục 2.4 Mục 2 Nghị
quyết số 01 ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao (hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLHS) thì người già được xác định là người từ 70 tuổi trở
lên.
Trước đây, trong quá trình soạn thảo, thông qua Pháp lệnh Người cao tuổi năm
2000, nhiều ý kiến đề nghị lấy tên là Pháp lệnh về người già, Pháp lệnh về chăm sóc,
bảo vệ người già… Tuy nhiên, các ý kiến này đều không đưa ra được khái niệm thế
nào là người già, bao nhiêu tuổi là người già. Mặt khác, nếu chỉ căn cứ vào độ tuổi

thì cũng không chính xác vì thực tế có người 70-75 tuổi vẫn còn khỏe mạnh, cường
tráng, không ít người còn lấy vợ, sinh con… Cuối cùng tên gọi của pháp lệnh là
Pháp lệnh Người cao tuổi (trong pháp lệnh tuyệt nhiên không nhắc đến khái niệm
người già).
Theo tôi, nên hiểu người già quy định trong BLHS với người cao tuổi quy định
trong Luật Người cao tuổi (thay thế Pháp lệnh Người cao tuổi) là hai khái niệm
khác nhau. Tuy nhiên, về xã hội cũng như về y sinh học thì người già và người cao
tuổi giống nhau ở một điểm là độ tuổi. Nếu căn cứ vào hướng dẫn của Hội đồng
Thẩm phán TAND Tối cao thì có thể hiểu người già là người cao tuổi từ 70 tuổi trở
lên, còn người cao tuổi là người từ 60 tuổi trở lên; trong số những người cao tuổi,
18
những người từ 70 tuổi trở lên là người già, những người từ 60 tuổi đến dưới 70 tuổi
chưa phải người già. Hiểu như vậy thì hướng dẫn của TAND Tối cao không mâu
thuẫn với Luật Người cao tuổi.
Tuy nhiên, xét về nhiều mặt, trong xã hội không nên có hai khái niệm khác nhau
đều nói về một đối tượng lại được quy định ở hai văn bản pháp luật khác nhau. Về
lâu dài, thiết nghĩ các nhà làm luật cần nghiên cứu, thống nhất lấy một khái niệm
chung mà theo chúng tôi, nên dùng khái niệm “người cao tuổi” như đã quy định tại
Luật Người cao tuổi.
Việc sửa đổi, bổ sung BLHS cần phải có thời gian, theo một quy trình tương đối
chặt chẽ. Trong khi Quốc hội chưa sửa đổi, bổ sung BLHS thì Hội đồng Thẩm phán
TAND Tối cao có thể sửa đổi, bổ sung tiểu mục 2.4 Mục 2 Nghị quyết số 01/2006
theo hướng: “Người già được xác định là người từ đủ 60 tuổi trở lên” cho phù hợp
với Luật Người cao tuổi.
Đinh Văn Quế, nguyên Chánh Tòa Hình sự TAND Tối cao
Theo: Tạp chí Pháp luật TP.HCM online
19
20

×