BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
_____________________
PHAN THỊ KIM HOÀNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
_____________________
PHAN THỊ KIM HOÀNG
Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN VĂN SĨ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, có sự hỗ trợ của giáo viên
hướng dẫn và tham khảo các tài liệu tôi đã liệt kê trong danh sách tài liệu tham khảo.
Các nội dung nghiên cứu và kết qủa trong đề tài này là trung thực và không có sự
sao chép của các đề tài khác.
Ngày 30 tháng 12 năm 2013
Tácgiả
PhanThị Kim Hoàng
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Lời mở đầu
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI. 1
1.1 RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1
1.1.1 Khái niệm rủi ro lãi suất 1
1.1.2 Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất. 1
1.1.3 Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất. 1
1.1.4 Lượng hóa rủi ro lãi suất. 2
1.2 QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 4
1.2.1 Khái niệm quản trị rủi ro lãi suất 4
1.2.2 Mục tiêu của quản trị rủi ro lãi suất. 4
1.2.3 Quy trình quản trị rủi ro lãi suất. 5
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro lãi suất tại NHTM 5
1.2.5 Tiêu chí đánh giá hoạt động quản trị rủi ro lãi suất 5
1.2.6 Ý nghĩa của việc hoàn thiện quản trị rủi ro lãi suất 7
1.3 CHUẨN MỰC BASEL TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT 8
1.4 MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TỪ MỘT SỐ
NHTM KHÁC 13
1.5 BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO NHTMCP BẮC Á 30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 31
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN HÀNG
TMCP BẮC Á. 32
2.1 TỔNG QUAN VỀ NHTMCP BẮC Á. 32
2.2 TÌNH HÌNH LÃI SUẤT HUY ĐỘNG VÀ CHO VAY TRÊN THỊ TRƯỜNG TIỀN
TỆ TRONG THỜI GIAN QUA. 34
2.2.1 Chính sách điều hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà Nước. 34
2.2.2 Thực trạng kiểm soát rủi ro lãi suất tại các Ngân hàng TMCP. 37
2.3 THỰC TRẠNG RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN HÀNG TMCP BẮC Á. 39
2.3.1. Thực trạng rủi ro lãi suất tại NHTMCP Bắc Á. 39
2.3.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất: 41
2.4 ĐÁNH GIÁ VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG TMCP BẮC
Á. 45
2.4.1 Những kết qủa đạt được: 45
2.4.2 Những hạn chế. 47
2.4.3 Nguyên nhân của những hạn chế: 49
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN
HÀNG TMCP BẮC Á. 53
3.1 ĐỊNH HƯƠNG PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG TMCP BẮC Á. 53
3.1.1 Mục tiêu hoạt động 54
3.1.2 Chiến lược phát triển trung và dài hạn 55
3.2 NHÓM GIẢI PHÁP TỪ PHÍA NGÂN HÀNG TMCP BẮC Á. 56
3.2.1 Giải pháp quản trị tài sản nợ - tài sản có. 56
3.2.2 Nâng cao năng lực điều hành và quản lý 59
3.2.3 Marketing tạo dựng uy tín cho ngân hàng. 59
3.2.4 Đào tạo đội ngũ cán bộ, nhân viên có năng lực 59
3.3 NHÓM GIẢI PHÁP HỖ TRỢ. 60
3.3.1 Hoàn thiện các văn bản pháp lý. 60
3.3.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước. 63
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 65
KẾT LUẬN 66
TÀI LIỆU THAM KHẢO 67
PHỤ LỤC 69
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADB : Ngân hàng phát triển Châu Á
ATM : Máy rút tiền tự động hay máy giao dịch tự động (còn được gọi
là ATM, viết tắt của Automated Teller Machine hoặc Automatic Teller
Machine)
CIC : Trung tâm thông tin tín dụng
CSTT : Chính sách tiền tệ
DTBB : Dự trữ bắt buộc
FED : Cơ quan Dự trữ Liên bang Mỹ (Ngân hàngTrung ương Mỹ)
FITCH : Tổ chức xếp hạng tín nhiệm.
IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế
LNH : Liên ngân hàng
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTM : Ngânhàngthươngmại
NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTW : Ngân hàng Trung ương
RRLS : Rủi ro lãi suất
TCTD : Tổ chức tín dụng
TMCP : Thương mại cổ phần
TSC : Tài sản có
TSN : Tài sản nợ
TTTT : Thị trường tiền tệ
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) cùng với các tổ
chức hợp tác khu vực nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng đang từng bước nỗ lực
làm mới mình, đón đầu hội nhập. Trong đó, hệ thống NH TMCP được đánh giá là hệ
thống khá năng động trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Để có thể tồn tại và phát triển bền vững trong cuộc cạnh tranh này, các NHTMCP
phải nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh về mọi mặt. Và với cơ chế lãi suất thoả thuận
đã mở ra cho các NHTM những cơ hội cũng như những thách thức. Đứng trước những cơ
hội cũng như những thách thức đó, hệ thống NHTM Việt Nam tỏ ra lúng túng trong hoạt
động quản trị rủi ro và cụ thể là quản trị rủi ro lãi suất. Với thực trạng đó, tôi đã chọn đề
tài: “Quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á” làm đề tài tốt
nghiệp với hy vọng có thể giúp Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á phát triển bền
vững hơn.
2. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài phân tích thực trạng rủi ro lãi suất tại Ngân hàng
thương mại, qua đó khẳng định rủi ro lãi suất luôn tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh
của NHTM. Trên cơ sở những tồn tại trong công tác quản trị rủi ro lãi suất, đề tài đưa ra
những giải pháp hạn chế rủi ro lãi suất và nâng cao năng lực quản trị rủi ro lãi suất tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài lấy quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á làm đối
tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu giới hạn về quản trị tài sản có và tài sản nợ của Ngân hàng
thương mại cổ phần Bắc Á (trong giai đoạn 2011 – 2012) làm ảnh hưởng đến quản trị rủi
ro lãi suất trong năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương pháp tổng hợp,
phương pháp thống kê mô tả, phương pháp phân tích và phương pháp đánh giá. Vận dụng
các phương pháp trên bài viết đi sâu vào phân tích từng khía cạnh vấn đề quản trị rủi ro
lãi suất. Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, luận văn đưa ra những giải pháp hạn chế rủi ro
lãi suất tại Ngân hàng thương mại cổ phần Bắc Á.
5. Kết cấu của luận văn.
Để giải quyết nội dung của đề tài, ngoài lời mở đầu, kết luận bố cục của luận văn
bao gồm 3 phần chính sau:
Chương 1: Tổng quan về quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Bắc Á.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro lãi suất tại Ngân hàng thương mại
cổ phần Bắc Á.
1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
Xu hướng tự do hóa và toàn cầu hóa kinh tế khiến cho hoạt động kinh doanh
của các ngân hàng ngày càng trở nên phức tạp và luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, như: rủi
ro tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh khoản và những rủi ro khác.
Cùng với xu hướng tự do hóa tài chính, rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro cơ
bản nhất của các Ngân hàng thương mại. Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn này
đi sâu vào nghiên cứu rủi ro lãi suất.
1.1 RỦI RO LÃI SUẤT TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1 Khái niệm rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất là khả năng ngân hàng phải đối mặt với sự suy giảm lợi nhuận
hoặc những tổn thất về tài sản do sự biến động của lãi suất. Sự không cân xứng về
kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ làm cho ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất.
1.1.2 Nguyên nhân gây ra rủi ro lãi suất.
Có ba nhóm nguyên nhân dẫn đến rủi ro, gồm:
- Nguyên nhân thuộc về năng lực quản trị của ngân hàng: trình độ công nghệ,
quy mô, nhân lực,
- Các nguyên nhân thuộc về phía khách hàng: nguồn thu nhập, động cơ gửi
tiền,
- Các nguyên nhân khách quan có liên quan đến môi trường hoạt động kinh
doanh: nền kinh tế vĩ mô, chính sách tài chính của Chính phủ,
1.1.3 Ảnh hưởng của rủi ro lãi suất.
Sự biến động về lãi suất có thể đưa đến những rủi ro trong việc tái tài trợ tài
sản nợ, tái đầu tư tài sản có hoặc rủi ro giảm giá trị tài sản, cụ thể:
- Trường hợp ngân hàng duy trì tài sản có có kỳ hạn dài hơn so với tài sản nợ
thì ngân hàng đứng trước rủi ro về lãi suất trong việc tái tài trợ đối với tài sản nợ
2
(đầu tư vào tài sản lãi suất cố định nhưng huy động với lãi suất thả nổi). Giả sử lãi
suất huy động là 9%/năm kỳ hạn 1 năm và lãi suất đầu tư là 10%/năm kỳ hạn 2
năm. Nếu khoản đầu tư 100 triệu đồng kỳ hạn 2 năm được tài trợ bằng vốn huy
động kỳ hạn 1 năm thì trong năm thứ nhất ngân hàng sẽ thu lợi nhuận từ chênh lệch
lãi suất là 1%. Vì lãi suất huy động có thể thay đổi từ năm thứ nhất sang năm thứ
hai nên ngân hàng luôn đứng trước rủi ro lãi suất. Rủi ro sẽ trở thành hiện thực nếu
lãi suất huy động vốn trong năm kế tiếp tăng lên trên mức lãi suất đầu tư; ví dụ sang
năm thứ hai lãi suất huy động kỳ hạn 1 năm là 11% thì lợi nhuận thu được từ khoản
đầu tư sẽ là một số âm = 100(10%-11%) = -1 triệu đồng.
- Trường hợp ngân hàng huy động vốn có kỳ hạn dài và đầu tư có kỳ hạn
ngắn thì ngân hàng đứng trước rủi ro về lãi suất tái đầu tư tài sản có (đầu tư vào tài
sản với lãi suất thả nổi nhưng huy động với lãi suất cố định). Giả sử ngân hàng huy
động vốn với lãi suất 9%/năm kỳ hạn 2 năm và đầu tư vào tài sản có mức lãi suất
10%/năm kỳ hạn 1 năm. Nếu sang năm thứ hai lãi suất đầu tư giảm xuống còn 8%
thì ngân hàng sẽ chịu một khoản lỗ do lãi suất đầu tư thấp hơn lãi suất huy động
1%/năm.
Ngoài rủi ro lãi suất tái tài trợ tài sản nợ hoặc tái đầu tư tài sản có thì khi lãi
suất thị trường thay đổi ngân hàng có thể gặp rủi ro giảm giá trị tài sản.
Giá trị thị trường của tài sản nợ và tài sản có dựa trên khái niệm giá trị hiện
tại của tiền tệ. Do đó nếu lãi suất của thị trường tăng lên thì giá trị hiện tại của tài
sản nợ và tài sản có giảm xuống. Ngược lại, nếu lãi suất của thị trường giảm thì giá
trị của tài sản nợ và tài sản có sẽ tăng lên. Do đó, nếu kỳ hạn của tài sản nợ và tài
sản có không cân xứng với nhau thì khi lãi suất thị trường tăng, giá trị tài sản có sẽ
giảm nhanh hơn và nhiều hơn so với sự giảm giá trị của tài sản nợ dẫn đến thiệt hại
về tài sản của ngân hàng.
1.1.4 Lượng hóa rủi ro lãi suất.
Để phòng tránh RRLS, đòi hỏi NHTM phải tăng cường công tác quản lý,
trong đó cần áp dụng phương pháp lượng hóa rủi ro lãi suất có ảnh hưởng đến kết
quả kinh doanh. Hiện nay, trên thế giới có 3 mô hình lượng hóa RRLS đang được
3
các ngân hàng hiện đại áp dụng, đó là: mô hình kỳ hạn đến hạn, mô hình định giá
lại và mô hình thời lượng.
1.1.4.1 Mô hình kỳ hạn đến hạn.
Có 2 phương pháp để lượng hóa mô hình này là:
- Phương pháp lượng hóa RRLS đối với một tài sản.
- Phương pháp lượng hóa RRLS đối với danh mục tài sản.
Mô hình kỳ hạn là một phương pháp trực quan để lượng hóa RRLS qua đánh
giá sự cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản có trong hoạt động kinh doanh
ngân hàng. Nhược điểm của mô hình này là không đề cập đến yếu tố thời lượng của
các luồng tài sản có và tài sản nợ. Tuy nhiên, do tính đơn giản và trực quan nên
được sử dụng khá phổ biến, điều này cũng phù hợp với Việt Nam hiện đang trong
quá trình hiện đại hóa ngân hàng.
1.1.4.2 Mô hình định giá lại.
Nội dung cơ bản của mô hình này là việc phân tích các luồng tiền dựa trên
nguyên tắc giá trị ghi sổ nhằm xác định chênh lệch giữa lãi suất thu được từ tài sản
có và lãi suất thanh toán cho vốn huy động sau một thời gian nhất định.
Một nhược điểm của mô hình là chỉ đề cập đến giá trị ghi sổ của tài sản mà
không đề cập đến giá trị thị trường của chúng. Do đó, mô hình định giá lại chỉ phản
ánh được một phần RRLS đối với ngân hàng.
1.1.4.3 Mô hình thời lượng.
So với hai mô hình trên, thì mô hình thời lượng hoàn hảo hơn trong việc đo
mức độ nhạy cảm của tài sản có và tài sản nợ đối với lãi suất, bởi vì nó đề cập đến
yếu tố thời lượng của tất cả các luồng tiền cũng như kỳ hạn đến hạn của tài sản nợ
và tài sản có. Do vậy, đối với kinh doanh ngân hàng, thì việc sử dụng mô hình thời
lượng để quản trị RRLS là một giải pháp thích hợp. Một chức năng quan trọng của
mô hình thời lượng là cho phép NHTM phòng ngừa được rủi ro lãi suất đối với toàn
bộ hay một bộ phận riêng lẻ của bảng cân đối tài sản. Tuy nhiên mô hình thời
lượng là một mô hình phức tạp, đòi hỏi nhà quản trị phải thường xuyên cơ cấu lại
4
bảng cân đối tài sản để thời lượng của tài sản có và tài sản nợ cân xứng nhau, nhưng
việc này không phải lúc nào cũng làm được. Vì vậy, NHTM có thể lựa chọn một
biện pháp đo lường RRLS phù hợp với điều kiện công nghệ và thực trạng rủi ro.
1.2 QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1 Khái niệm quản trị rủi ro lãi suất.
Quản trị là sự tác động liên tục có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản
trị đến đối tượng chịu sự quản trị nhằm sử dụng tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội để
đạt được các mục tiêu kinh doanh đã đề ra trong mỗi thời kỳ với phương châm tối
ưu hóa chi phí được sử dụng vào qúa trình đó, đồng thời đảm bảo tăng lợi nhuận.
Quản trị rủi ro là qúa trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, toàn diện và có
hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm soát, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất
mát những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro. Quản trị rủi ro bao gồm các bước: nhận
dạng rủi ro, phân tích rủi ro, đo lường rủi ro, kiểm soát, phòng ngừa rủi ro và tài trợ
rủi ro.
Quản trị rủi ro lãi suất là việc ngân hàng tổ chức một bộ phận nhằm nhận
biết, định lượng những tổn thất đang và sẽ gây ra từ rủi ro lãi suất để từ đó có thể
giám sát và kiểm soát rủi ro lãi suất thông qua việc lập nên những chính sách, chiến
lược sử dụng các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro lãi suất trong hoạt động
kinh doanh của ngân hàng một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục.
1.2.2 Mục tiêu của quản trị rủi ro lãi suất.
Mục tiêu quan trọng trong hoạt động quản lý rủi ro lãi suất là bảo vệ thu
nhập dự kiến ở mức tương đối ổn định bất chấp sự thay đổi của lãi suất. Để đạt
được mục tiêu này, ngân hàng phải duy trì tỷ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) cố
định. Đây là hệ số giúp cho ngân hàng dự báo trước khả năng sinh lãi của ngân
hàng thông qua việc kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và tìm kiếm những nguồn
vốn có chi phí thấp nhất. Hệ số này cho thấy nếu chi phí huy động vốn tăng nhanh
hơn lãi thu từ cho vay và đầu tư hoặc lãi thu từ cho vay và đầu tư giảm nhanh hơn
5
chi phí huy động vốn sẽ làm cho thu nhập lãi biên bị thu hẹp lại, rủi ro lãi suất sẽ
lớn.
1.2.3 Quy trình quản trị rủi ro lãi suất.
Quy trình quản trị rủi ro lãi suất là một qúa trình gắn với việc quản trị tài sản
nợ - tài sản có, và phải bao gồm các bước sau:
- Xác định rủi ro (Nhận dạng): là giai đoạn ngân hàng dự đoán sự biến động
của lãi suất và nhận biết chiều hướng ảnh hưởng của lãi suất đối với ngân hàng.
- Đo lường rủi ro (Đánh giá): sử dụng các mô hình để định lượng rủi ro lãi
suất. Các mô hình ngân hàng thường sử dụng: Mô hình kỳ hạn đến hạn, mô hình
đánh giá lại, mô hình thời lượng.
- Giám sát rủi ro lãi suất (Kiểm soát): gồm các chiến lược sau:
+ Né tránh/ Từ bỏ (Avoidance)/Elimination
+ Giảm thiểu (Reduction)
+ Ngăn ngừa (Prevention)
+ Chuyển giao (Transfer)
- Tài trợ rủi ro: việc chuẩn bị các nguồn tài chính để bù đắp khi rủi ro lãi
suất xảy ro.
1.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến quản trị rủi ro lãi suất tại ngân hàng thương
mại.
- Nhân tố bên ngoài ngân hàng: Môi trường kinh tế vĩ mô, hành lang pháp lý
về vấn đề quản trị rủi ro lãi suất của NHNN. Địa bàn hoạt động của ngân hàng.
- Nhân tố bên trong Ngân hàng:
+ Trình độ của quản trị viên, nhân viên ngân hàng.
+ Năng lực ngân hàng.
+ Ý chí của lãnh đạo đơn vị.
1.2.5 Tiêu chí đánh giá hoạt động quản trị rủi ro lãi suất.
Rủi ro lãi suất xuất hiện khi có sự không cân xứng về kỳ hạn giữa TSC và
TSN; Do các ngân hàng áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy
6
động vốn và cho vay: Trường hợp ngân hàng huy động vốn với lãi suất cố định
nhưng cho vay, đầu tư với lãi suất biến đổi. Khi lãi suất giảm, rủi ro lãi suất sẽ xuất
hiện vì chi phí lãi phải trả lớn hơn lãi thu được, làm giảm lợi nhuận; Ngược lại, khi
ngân hàng huy động vốn với lãi suất biến đổi nhưng cho vay, đầu tư với lãi suất cố
định. Khi lãi suất tăng, rủi ro lãi suất sẽ xuất hiện vì chi phí lãi phải trả lớn hơn lãi
thu được; Do có sự không phù hợp về khối lượng, thời hạn giữa nguồn vốn huy
động với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay; Do tỷ lệ lạm phát dự kiến không
phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế làm cho vốn của ngân hàng không được bảo toàn
sau khi cho vay; Ngoài ra, khi lãi suất thị trường thay đổi, ngân hàng còn có thể gặp
rủi ro giảm giá trị tài sản.
Khi rủi ro lãi suất xuất hiện sẽ làm tăng chi phí nguồn vốn của ngân hàng;
giảm thu nhập từ tài sản của ngân hàng; làm giảm giá trị thị trường của TSC và vốn
chủ sở hữu của ngân hàng.
Chúng ta có thể đánh giá rủi ro lãi suất thông qua các chỉ số sau:
Hệ số chênh lệch lãi thuần (còn gọi là hệ số thu nhập lãi ròng cận biên NIM
– Net Interest Margin)
Hệ số rủi ro lãi suất (R) – Khe hở nhạy cảm lãi suất (Interest rate sensitive
gap)
Khe hở kỳ hạn (Duration gap).
Theo kinh nghiệm của các nước, để quản trị rủi ro lãi suất, các ngân hàng
thực hiện các biện pháp:
- Mua bảo hiểm rủi ro lãi suất để chuyển giao toàn bộ rủi ro lãi suất cho cơ
quan bảo hiểm chuyên nghiệp.
- Áp dụng các biện pháp cho vay thương mại (cho vay ngắn hạn) để ngân
hàng có thể linh động thay đổi lãi suất cho vay khi lãi suất thị trường thay đổi theo
chiều hướng tăng.
- Áp dụng chiến lược chủ động trong quản trị rủi ro lãi suất: Nếu ngân hàng
có thể dự báo được chiều hướng thay đổi lãi suất, ngân hàng có thể chủ động điều
chỉnh khe hở nhạy cảm lãi suất và khe hở kỳ hạn một cách hợp lý.
7
- Vận dụng các kỹ thuật bảo hiểm lãi suất như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng
tương lai, quyền chọn, Swap.
1.2.6 Ý nghĩa của việc hoàn thiện quản trị rủi ro lãi suất.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là dùng uy tín để thu hút nguồn vốn và
dùng năng lực quản trị rủi ro để sử dụng nguồn vốn và phát triển các dịch vụ khác
với tư cách là người đứng giữa các lực lượng cung cầu về các dịch vụ ngân hàng.
Lãi suất chính là giá cả đầu vào cũng như đầu ra trong hoạt động ngân hàng. Rủi ro
xảy ra do những biến động về lãi suất luôn luôn thường trực trong hầu hết những
hoạt kinh doanh của ngân hàng.
Như vậy, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại hình kinh doanh tiềm
ẩn nhiều rủi ro và rủi ro lãi suất là một trong những rủi ro cơ bản nhất của NHTM.
Có nhiều ý kiến cho rằng các ngân hàng cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên
mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng
đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Ngân hàng sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi
ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi
ro.
* Hiệu qủa kinh doanh của NHTM phụ thuộc vào năng lực quản trị rủi ro lãi
suất.
Trong điều kiện thị trường đầy biến động, khi lãi suất thị trường thay đổi có
thể dẫn đến những thiệt hại về tài sản cũng như ảnh hưởng đến thu nhập của ngân
hàng. Những ảnh hưởng của rủi ro lãi suất có thể dẫn đến thiếu vốn khả dụng và từ
đó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Nếu rủi ro
thấp thì hiệu qủa kinh tế sẽ tăng và ngược lại. Như vậy, để hoạt động kinh doanh
của NHTM đạt hiệu qủa thì công tác quản trị rủi ro lãi suất cần phải được quan tâm
thích đáng.
Quản trị rủi ro lãi suất nói riêng và quản trị rủi ro nói chung làm giảm ảnh
hưởng của những biến động đối với giá trị của ngân hàng. Bằng cách làm giảm biến
động, quản trị rủi ro làm giảm xác suất mà ngân hàng phải đối mặt với khả năng
kiệt quệ tài chính.
8
* Quản trị rủi ro lãi suất tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng
hoạt động kinh doanh của NHTM.
Trong xu thế hội nhập, cạnh tranh ngày càng gay gắt, chất lượng hoạt động
quyết định sự tồn tại của NHTM. Khi công tác quản trị rủi ro lãi suất được quan tâm
và thực hiện có hiệu quả sẽ kéo theo chất lượng hoạt động kinh doanh khác của
NHTM, vì những biến động về lãi suất luôn có một ảnh hưởng đến những hoạt
động chủ yếu của ngân hàng như hoạt động liên quan đến nghiệp vụ tạo vốn và
nghiệp vụ huy động vốn. Quan tâm đến công tác quản trị rủi ro lãi suất sẽ tạo điều
kiện nâng cao chất lượng hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng nói riêng
và toàn bộ hoạt động của NHTM nói chung. Theo đó, có nhiều ý kiến khẳng định
“quản trị rủi ro lãi suất là thước đo năng lực của một NHTM”.
1.3 CHUẨN MỰC BASEL TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT.
1.3.1 Giới thiệu lịch sử ra đời của Ủy ban Basel và các thành viên.
Ủy ban Basel về giám sát nghiệp vụ ngân hàng là một Ủy ban bao gồm các
chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi các Thống đốc Ngân
hàng Trung ương của nhóm G10 vào cuối năm 1974, xuất phát từ sau một loạt các
cuộc khủng hoảng về tiền tệ quốc tế và thị trường ngân hàng, trong đó đáng chú ý
nhất chính là sự sụp đổ của ngân hàng Herstatt ở Tây Đức lúc bấy giờ. Cuộc họp
đầu tiên của Ủy ban diễn ra vào tháng 2 năm 1975 và về sau được tổ chức định kỳ
3- 4 lần mỗi năm.
Các thành viên của Ủy ban bao gồm đại diện cao cấp các cơ quan giám sát
nghiệp vụ ngân hàng và bản thân ngân hàng Trung ương của các nước Bỉ, Canada,
Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản, Luxembourg, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ,
Anh và Mỹ.
Ủy ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế tại
Washington hoặc tại Thành Phố Basel - Thuỵ Sĩ. Ban thư ký thường trực của Ủy
ban này cũng có trụ sở làm việc tại Thủ Đô Washington – Mỹ.
Quan điểm của Ủy Ban này là sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một
quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, có thể đe doạ đến sự ổn định
9
về tài chính trong cả nội bộ quốc gia đó và trên toàn thế giới. Nhu cầu cần nâng cao
sức mạnh của hệ thống tài chính nhất thiết phải được nhiều quốc gia, nhiều tổ chức
trên thế giới nói chung và Ủy ban Basel về Giám sát Nghiệp vụ ngân hàng nói riêng
đặc biệt quan tâm. Ủy ban Basel đã tham gia hoạt động trong nhiều năm qua cho
quan điểm và sứ mạng này, dưới cả hình thức trực tiếp cũng như gián tiếp thông
qua các mối liên hệ với chuyên gia giám sát nghiệp vụ ngân hàng ở các quốc gia
khác nhau trên toàn cầu.
Ủy ban Basel thường xuyên tổ chức các cuộc thảo luận về những vấn đề
xoay quanh sự hợp tác quốc tế để giảm bớt khoảng cách trong công tác giám sát
ngân hàng, nâng cao chất lượng công tác giám sát hoạt động ngân hàng trên toàn
thế giới. Để làm được điều này, Ủy ban Basel đã cố gắng tìm hiểu và thực hiện
được 3 điều cơ bản: trao đổi thông tin về hoạt động giám sát cấp quốc gia, cải thiện
hiệu quả kỹ thuật giám sát hoạt động ngân hàng quốc tế và đặt ra những tiêu chuẩn
giám sát tối thiểu trong những lĩnh vực mà Ủy ban thực sự quan tâm.
1.3.2. Hiệp ước Basel I
Hiệp ước Basle I được ra đời sau cuộc họp của Ủy ban Basel về giám sát
hoạt động ngân hàng vào tháng 7 năm 1988, trong đó đưa ra các chuẩn mực vốn
quốc tế và các phương pháp đo lường vốn.
Trong hiệp ước Basel I này, những khái niệm về vốn cơ bản (core capital –
basic equity), vốn bổ sung vốn cơ bản (supplementary capital) bao gồm dự trữ
không công khai (undisclosed reserves), nguồn giá trị tăng thêm do đánh giá lại tài
sản (asset revaluation reserves), dự phòng chung (general provisions) hay dự phòng
chung về tổn thất tín dụng (general loan-loss reserves), các công cụ nợ có khả năng
chuyển đổi thành cổ phiếu (hybrid debt capital instruments), các khoản nợ thứ cấp
có kỳ hạn (subordinated term debt), các khoản giảm trừ vốn (deductions from
capital) được đưa ra làm rõ để giúp ngân hàng có thể xác định được chính xác các
yếu tố cấu thành nên nguồn vốn tự có của mình… Ngoài ra, hiệp ước này cũng đề
cập chi tiết đến các hệ số rủi ro (risk weights) liên quan đến rủi ro tín dụng và rủi ro
hoạt động.
10
Theo đó, hiệp ước Basle đã chia các nhân tố của vốn bao gồm hai cấp: Vốn
cấp 1 (Tier 1) gồm có vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công khai, vốn cấp 2
(Tier 2) gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng thêm của việc đánh giá
lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín dụng, các công cụ nợ cho phép
chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp.
Tổng vốn cấp 1 và cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của tổ chức tín
dụng. Vốn tự có phải đảm bảo những giới hạn sau: Tổng vốn cấp 2 chỉ được tối đa
bằng 100% vốn cấp 1. Nợ thứ cấp phải nhỏ hơn hoặc bằng 50% vốn cấp 1.
Trong trường hợp các khoản dự phòng chung hay dự phòng tổn thất tín dụng
bao gồm giá trị giảm của việc đánh giá lại tài sản nhưng chưa thể hiện trên bảng cân
đối kế toán, phần dự phòng cho những khoản này sẽ được giới hạn tối đa là 1.25%
hoặc trong một số trường hợp đặc biệt có thể lên tới 2.0% của tài sản có rủi ro.
Giá trị tăng thêm của việc đánh giá lại tài sản đối với các khoản giá trị ước
tính ngầm dựa trên những chứng khoán ảo sẽ chịu mức chiết khấu 55%.
Ngoài ra, các hệ số rủi ro do hiệp ước Basle I đưa ra cũng tính đến các khoản
mục ngoài bảng cân đối tài sản, đó chính là các giao dịch hoặc các công cụ tài chính
được ghi nhận ngoại bảng ngoại trừ các giao dịch liên quan đến ngoại tệ và lãi suất
không xác định.
Nói chung, hiệp ước Basle I năm 1988 mang tính chất của một thỏa thuận
quốc tế và các tiêu chuẩn về vốn tự có do Basle I đưa ra. Ngoài ra trong hiệp ước
còn quy định về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và quản lý rủi ro tín dụng đối với ngân
hàng, là một trong những căn cứ, tiêu chuẩn để các ngân hàng của các quốc gia trên
thế giới áp dụng quản lý, bảo đảm an toàn trong hoạt động.
1.3.3. Hiệp ước Basel II (The New Capital Accord)
Mặc dù đã đưa ra được nhiều quy định chi tiết, có ý nghĩa cho công tác quản
trị rủi ro của các ngân hàng thương mại và rất nhiều chuẩn mực trong Basle I vẫn
còn được nhiều nước áp dụng cho đến ngày nay, nhưng qua một quá trình dài áp
dụng với xu thế phát triển như vũ bão của hệ thống ngân hàng trên thế giới thì Basle
I đã bộc lộ một số nhược điểm của mình. Chẳng hạn, trong quy định vốn tối thiểu
11
của mình, Basle I mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ chưa đề cập đến
những rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường. Ngoài ra, một số các quy
tắc do Basle I đưa ra chỉ có thể vận dụng trong trường hợp ngân hàng hoạt động
theo kiểu đơn thuần tuý (stand – alone bank) là ngân hàng không dựa trên một sự
sáp nhập hay hoạt động theo kiểu tập đoàn ngân hàng, ngân hàng mẹ, ngân hàng –
chi nhánh Xu thế phát triển hiện nay là các ngân hàng dần dần sáp nhập với nhau
để tạo thành những tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh cao và có tiềm lực mạnh về
tài chính, công nghệ, các ngân hàng không còn chỉ hoạt động trọng phạm vi lãnh
thổ quốc gia mà luôn vươn ra tầm quốc tế, mở rộng mạng lưới ngân hàng dưới hình
thức hoạt động của ngân hàng quốc tế. Chính vì vậy, một số qui định trong Basle I
đã không còn phù hợp khi áp dụng tại những ngân hàng này, đòi hỏi phải có một sự
cải tiến toàn diện trong việc xây dựng các chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro và
giám sát hoạt động ngân hàng.
Trước đòi hỏi của xu hướng phát triển này, để bảo đảm an toàn trong hoạt
động ngân hàng của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân
hàng lớn có phạm vi hoạt động quốc tế, Basel II đã ra đời. Đây là hiệp ước quốc tế
về tiêu chuẩn an toàn vốn, tăng cường quản trị toàn cầu hóa tài chính cũng như việc
khai thác tối đa tiềm năng lợi nhuận và hạn chế rủi ro. Nó được xem là giải pháp
nâng cao các chuẩn mực hoạt động ngân hàng nói chung với những yêu cầu về quản
trị rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường.
1.3.4. Hiệp ước Basel III.
Theo bài phát biểu của Ông Stefan Walter, Tổng thư ký Ủy ban Basel trong
hội thảo lần thứ năm về Giám sát và quản lý rủi ro tại Basel, Basel 3 có những điểm
mới hết sức cơ bản:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng vốn. Trước hết, Basel 3 sẽ giúp nâng cao
chất lượng vốn của các ngân hàng một cách đáng kể. Đây là đặc điểm chính của
Basel 3. Theo BIS, nội dung của định nghĩa về vốn rất quan trọng và cần phải được
định nghĩa đầy đủ trước khi xác định mức vốn phù hợp. Chất lượng vốn tốt hơn
đồng nghĩa với việc khả năng bù đắp các khoản lỗ tốt hơn, điều này giúp cho ngân
12
hàng “khỏe” hơn, do đó có khả năng chống đỡ tốt hơn trong thời kì khó khăn.
Theo quy định này, vốn cổ phần thông thường được quy định chặt chẽ hơn. Theo
quy định hiện tại, những tài sản có chất lượng kém sẽ phải khấu trừ vào vốn (vốn
cấp 1 + vốn cấp 2). Theo Basel 3, việc khấu trừ sẽ nghiêm ngặt hơn,khấu trừ thẳng
vào vốn cổ phần thông thường. Hơn nữa, định nghĩa vốn cấp 1 cũng quy định chặt
chẽ hơn bao gồm vốn thường và các công cụ tài chính có chất lượng theo những
tiêu chuẩn chặt chẽ.
Thứ hai, yêu cầu các ngân hàng bổ sung thêm vốn. Theo quan điểm của
Basel, chất lượng vốn tốt hơn vẫn chưa đủ. Rút kinh nghiệm từ bài học của cuộc
khủng hoảng tài chính, Ủy ban Basel cho rằng khu vực ngân hàng cần nhiều vốn
hơn nữa. Do đó, những tiêu chuẩn về hạn mức tối thiểu về vốn của các ngân hàng sẽ
tăng mạnh trong những năm tới. Theo quy định này, các ngân hàng phải duy trì mức
vốn phù hợp trên mức vốn tối thiểu tùy vào mức độ rủi ro, mô hình kinh doanh,
điều kiện kinh tế. Khả năng đưa ra các quy định chặt chẽ về vốn của cơ quan giám
sát quốc gia sẽ là yếu tố quan trọng trong các nguyên tắc của Basel 3.
Theo Basel 3, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8%, nhưng tỷ lệ của loại vốn có chất
lượng cao được nâng lên, cụ thể: tỷ lệ Vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel II lên 6%
trong Basel 3, đồng thời tỷ lệ Vốn của cổ đông thường (common equity) cũng được
tăng từ 2% lên 4,5%. Bên cạnh đó, những tài sản “Có” với chất lượng vốn có vấn đề
cũng sẽ được loại trừ dần khỏi vốn cấp 1 và vốn cấp 2, như các khoản đầu tư vượt
quá giới hạn 15% vào các tổ chức tài chính. Đặc biệt, Basel 3 yêu cầu áp dụng bổ
sung tỷ lệ đòn bẩy tối thiểu thử nghiệm ở mức 3%. Đây là tỷ lệ của vốn cấp 1 so với
tổng tài sản có cộng với các khoản mục ngoại bảng. Việc áp dụng thử nghiệm tỷ lệ
này cho phép Ủy ban Basel theo dõi biến động tỷ lệ đòn bẩy thực của các ngân hàng
theo chu kỳ kinh tế và mối quan hệ giữa các yêu cầu về vốn với tỷ lệ đòn bẩy.
Thứ ba, giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô hệ thống để các ngân
hàng áp dụng. Yếu tố quan trọng thứ 3 của quy định mới về vốn là phương pháp
giám sát an toàn vĩ mô đề cập tới rủi ro hệ thống. Theo BIS, có hai việc cần làm để
hạn chế rủi ro hệ thống hiệu quả. Thứ nhất là giảm mức độ khuyếch đại của khủng
13
hoảng theo chu kỳ kinh tế. Đó là xu hướng hệ thống tài chính có thể làm khuyếch
đại giai đoạn thăng trầm của nền kinh tế thực. Việc thứ hai là mối quan hệ phụ
thuộc và những rủi ro chung của các tổ chức tài chính, đặc biệt đối với những ngân
hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống. Như vậy, Basel 3 là một bước ngoặt
trong việc xây dựng các quy định tài chính. Lần đầu tiên trong các quy định tài
chính đề cập tới các thước đo giám sát an toàn vĩ mô được sử dụng để bổ sung cho
phương pháp giám sát an toàn vi mô của từng tổ chức tín dụng. Ủy ban Basel đang
nghiên cứu các thước đo đối với những tổ chức có tầm quan trọng đối với hệ thống.
Thứ tư, quy định về tiêu chuẩn thanh khoản đối với các ngân hàng. Basel 3
đưa ra tiêu chuẩn về thanh khoản. Đây là điều đặc biệt quan trọngchưa có tiêu
chuẩn quốc tế nào quy định về vấn đề này. Tỷ lệ thanh khoản sẽ được ban hành vào
1/1/2015, giúp ngân hàng có khả năng chống đỡ ngắn hạn tốt hơn với những căng
thẳng thanh khoản. Quy định này yêu cầu ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính
thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu chi trả trong những
trường hợp khó khăn. Thực tế, việc quản lý rủi ro thanh khoản rất khác nhau tại
từng quốc gia. Ủy ban Basel sẽ sử dụng nhiều quy trình báo cáo để theo dõi các tỷ
lệ trong quá trình chuyển đổi để đảm bảo các tiêu chuẩn được tính toán như dự kiến.
1.4 MỘT SỐ KINH NGHIỆM QUẢN TRỊ RỦI RO LÃI SUẤT TỪ MỘT SỐ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI KHÁC.
Từ hậu quả của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, có lẽ chưa bao giờ
hệ thống Ngân hàng Việt Nam phải cùng lúc đứng trước nhiều thách thức như năm
2009. Đó là: vừa phải gia tăng cho vay tín dụng kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chống
lại nguy cơ suy giảm kinh tế trong khuôn khổ gói chính sách khẩn cấp chung của
Chính phủ; mặt khác, vừa phải đề phòng nguy cơ tái lạm phát cao; vừa phải tăng
cường đáp ứng nhu cầu về ngoại hối nói riêng và nguồn vốn cho doanh nghiệp nói
chung trong bối cảnh suy giảm nguồn tiền huy động và nguồn thu ngân sách trong
nước, nguồn thu tài chính từ nước ngoài, nhất là thu từ xuất khẩu, FDI; vừa phải
chịu áp lực giữ vững nguồn dự trữ ngoại hối và phải thích ứng với các yêu cầu tự
14
do hoá và cạnh tranh bình đẳng thị trường, bảo đảm tính kịp thời và linh hoạt trong
phản ứng chính sách trước các biến động mau lẹ, khó lường của bối cảnh trong nước
và quốc tế…
Trước tình hình đó, để hạn chế rủi ro lãi suất, các NHTM đã thực hiện điều
chỉnh cơ cấu nguồn vốn, đẩy mạnh công tác huy động vốn từ dân cư và tổ chức kinh
tế vì đây là nguồn vốn ổn định, ít có sự biến động lớn có thể xảy ra cùng một lúc.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, để đáp ứng nhu cầu thanh toán, các ngân
hàng có thể sử dụng tạm thời nguồn vốn vay liên ngân hàng nhưng sau đó phải bù
đắp ngay bằng nguồn vốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế. Vì vậy, dù có thể
huy động nguồn vốn vay liên ngân hàng với chi phí thấp hơn nhưng một số ngân
hàng vẫn chú trọng huy động từ thị trường dân cư và tổ chức kinh tế với những
chương trình khuyến mãi có giải thưởng lớn (như gửi tiền nhận vàng, gửi tiền trúng
Mercedec, … ) hay lãi suất cao.
Các ngân hàng tiến hành phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro theo quy định của NHNN. Đồng thời kiểm tra, rà soát lại các khoản vay, kiểm
tra tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng, cập nhật thông tin về khách hàng để
có thể biết được khả năng trả nợ của khách hàng nhằm dự báo được luồng tiền thu
vào từ nguồn khách hàng trả nợ.
Khai thác các dịch vụ ngân hàng khác làm tăng lợi nhuận từ các dịch vụ,
giảm áp lực tìm kiếm lợi nhuận bằng cách cho vay, qua đó có thể hạn chế được nợ
quá hạn, đảm bảo khả năng trả nợ của khách hàng, góp phần kiểm soát tốt khe hở kỳ
hạn để tránh rủi ro lãi suất cũng là một trong những biện pháp được các ngân hàng
áp dụng.
Chất lượng dịch vụ ngân hàng: Các ngân hàng có dịch vụ tốt và đa dạng sẽ
có lợi thế hơn các ngân hàng khác; Trụ sở kiên cố, phòng gửi tiền an toàn, tiện nghi
cũng tạo nên ưu thế cho ngân hàng; Đội ngũ nhân sự rất quan trọng trong việc phát
triển quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng. Với đội ngũ nhân viên được đào tạo
chuyên nghiệp, các khách hàng sẽ yên tâm hơn khi nhận được sự tư vấn của họ.
Điều đó làm hình ảnh của ngân hàng có ấn tượng sâu sắc trong lòng khách hàng.
15
Các chính sách của ngân hàng (chính sách tín dụng, chính sách đầu tư, chính
sách ngân quỹ,…) là một tiêu chuẩn đo lường quan trọng để đánh giá năng lực,
trình độ của các nhà quản lý ngân hàng. Một ngân hàng luôn đề ra những chính sách
đúng đắn sẽ được khách hàng tin tưởng khi giao dịch.
Ngân hàng là một tổ chức rất phức tạp, bao gồm nhiều phòng ban cung cấp
các loại dịch vụ tiền tệ đa dạng. Một ngân hàng được quản lý tốt, mọi quyết định
cần được phối hợp với nhau để đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong hoạt động.
Trong đó, các danh mục TSC và TSN phải được nhìn nhận như một thể thống nhất
trong quá trình đánh giá ảnh hưởng của chúng tới mục tiêu được đề ra, để đảm
bảo khả năng sinh lời với mức độ rủi ro có thể chấp nhận. Quá trình ra quyết định
mang tính phối hợp và tổng hợp như vậy được gọi là phương pháp quản lý TSN và
TSC của ngân hàng. Quản lý tốt TSN và TSC sẽ giúp các Ngân hàng chống lại
những rủi ro do sự thay đổi lãi suất.
Mục đích của quản trị TSN và TSC là tạo lập và thực hiện các chiến lược
củng cố Bảng cân đối kế toán, nhằm đảm bảo cho ngân hàng: có thể tối đa hóa hoặc
ít nhất là ổn định mức thu nhập từ lãi (chênh lệch giữa thu từ lãi và chi từ lãi); Tối
đa hóa hoặc ít nhất là bảo vệ trị giá tài sản của ngân hàng (giá cổ phiếu) với mức rủi
ro hợp lý.
Trước đây, không phải ngân hàng nào cũng có thể đánh giá toàn diện về danh
mục TSC – TSN của mình. Bởi vậy, trong một thời gian dài, với quan điểm quản lý
tài sản, khách hàng của ngân hàng là yếu tố chính quyết định quy mô và loại hình
của các nguồn vốn mà ngân hàng có thể huy động. Ngân hàng chỉ quản lý quá trình
phân bổ các nguồn vốn huy động thông qua việc quyết định xem khách hàng nào
sẽ được vay vốn và hợp đồng vay vốn sẽ gồm những điều khoản nào. Đến thập kỷ
60 và 70, để đối phó với xu hướng gia tăng lãi suất và cạnh tranh gay gắt về nguồn
vốn, các ngân hàng bắt đầu quan tâm tới việc khơi mở những nguồn vốn mới, quản
lý cấu trúc và chi phí của tiền gửi cũng như của các nguồn vốn phi tiền gửi. Đây
được gọi là lý thuyết quản lý TSN. Theo đó, ngân hàng tăng cường hoạt động
quản lý nguồn vốn: quản lý chặt chẽ giá cả của nguồn vốn hay lãi suất mà ngân
16
hàng phải thanh toán đối với các khoản tiền gửi và các khoản vốn vay nhằm đạt
được mục tiêu về chi phí, quy mô và cấu trúc của nguồn vốn. Nếu nhu cầu vay
vốn vượt quá lượng vốn khả dụng, ngân hàng có thể tăng lãi suất huy động để hút
vốn. Và ngược lại, nếu nhu cầu vay vốn thấp hơn lượng vốn khả dụng, ngân hàng có
thể hạ thấp lãi suất huy động.
Cho đến khi thị trường xuất hiện sự bất ổn định trong lãi suất ảnh hưởng lớn
đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng, việc dung hòa giữa quản lý TSC và
TSN mới được sử dụng. Đây được gọi là chiến lược quản lý hỗn hợp với những
điểm chính:
Để đạt được mục tiêu kế hoạch đã đề ra, nhà quản trị phải chú trọng
kiểm soát quy mô, cấu trúc, chi phí và thu nhập của cả hai bên TSC và TSN. Quản
trị TSN và TSC phải là một quá trình thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau để tối đa hóa thu
nhập của ngân hàng đồng thời giúp kiểm soát chặt chẽ các rủi ro mà ngân hàng phải
đối mặt.
Thu nhập và chi phí có thể phát sinh từ cả TSC và TSN. Do đó, chính sách
của ngân hàng cần được điều chỉnh phù hợp nhằm tối đa hóa thu nhập, tối thiểu hóa
chi phí trong mọi hoạt động của ngân hàng dù hoạt động đó xuất phát từ phía TSN
hay TSC.
1.4.1 Quản trị tài sản nợ.
1.4.1.1 Khái niệm.
Quản trị TSN là quản trị nguồn vốn phải trả cho ngân hàng nhằm đảm bảo
cho ngân hàng luôn có đủ nguồn vốn để duy trì và phát triển một cách hiệu quả hoạt
động kinh doanh của mình, đồng thời đáp ứng kịp thời mọi nhu cầu thanh khoản với
chi phí thấp nhất.
1.4.1.2 Các nguyên tắc.
Khi huy động vốn, các Ngân hàng cần phải chấp hành các quy định của luật
pháp và các cơ quan quản lý: Tổ chức tín dụng không được huy động vốn quá nhiều
so với vốn tự có nhằm đảm bảo khả năng chi trả (Theo Pháp lệnh ngân hàng năm
1990, tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại phải nhỏ hơn hoặc bằng
17
20 lần vốn tự có), áp dụng lãi suất huy động phù hợp so với cơ chế quản lý về lãi
suất của ngân hàng Nhà nước,…
Ngoài ra các ngân hàng phải đảm bảo đáp ứng một cách kịp thời nhu cầu
thanh khoản của ngân hàng, hạn chế đến mức tối đa sự sụt giảm đột ngột về nguồn
vốn của ngân hàng với chi phí thấp nhất. Đồng thời phải sử dụng các công cụ huy
động vốn đa dạng để hạn chế rủi ro và phù hợp với đặc điểm của ngân hàng.
1.4.1.3 Mục đích.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, việc quản trị TSN tốt sẽ giúp các
ngân hàng khai thác tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội đảm bảo sự tăng trưởng
nguồn vốn ổn định, bền vững để nâng cao thị phần, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu
vốn cho khách hàng cả về số lượng, thời hạn và lãi suất. Nhưng vẫn phải đảm bảo
khả năng thanh toán và nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
1.4.1.4 Các thành phần của tài sản nợ.
Thành phần của TSN gồm có:
Các tài khoản giao dịch: là những tài khoản được khách hàng mở tại ngân
hàng để sử dụng những dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt nên ngân hàng
không phải trả lãi suất cao. Đây là loại tiền gửi không ổn định, vì vậy các ngân hàng
thường sử dụng để dự trữ và một phần dùng để cho vay ngắn hạn. Gồm: Tài khoản
tiền gửi không kỳ hạn, tài khoản vãng lãi.
Các tài khoản phi giao dịch: là những loại tiền gửi định kỳ như những khoản
tiền gửi có kỳ hạn của các Tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm của cá nhân. Khi khách
hàng mở các tài khoản phi giao dịch tại Ngân hàng sẽ được rút gốc và lãi theo kỳ
hạn được quy định trước nhưng không được tham gia thanh toán không dùng tiền
mặt. Đây là loại tiền gửi ổn định nên ngân hàng thường sử dụng để cho vay trung –
dài hạn. Và khách hàng gửi tiền sẽ được hưởng lợi tức với lãi suất cao hơn so với
tiền gửi không kỳ hạn.
Vốn vay trên thị trường tiền tệ: Các ngân hàng có thể vay vốn trên thị trường
tiền tệ bằng cách vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng; Vay