Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Luận văn Thạc sĩ Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong nước và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM







LÊ NGUYỄN QUỲNH PHƯƠNG





MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI, ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM







LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ











TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HCM







LÊ NGUYỄN QUỲNH PHƯƠNG





MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI, ĐẦU TƯ TRONG NƯỚC VÀ
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính - Ngân hàng
Mã số: 60340201





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN NGỌC ĐỊNH





TP. Hồ Chí Minh – Năm 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng luận văn “Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đầu tư trong nước và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam” là công trình
nghiên cứu của riêng tôi.
Dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực được thu thập từ
những nguồn đáng tin cậy và các kết quả trình bày trong luận văn chưa được
công bố tại bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây. Nếu phát hiện có bất
kỳ gian lận nào, tôi xin chịu toàn bộ trách nhiệm trước Hội đồng.

TP.HCM, tháng năm 2013
Tác giả luận văn



Lê Nguyễn Quỳnh Phương

MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các cụm từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
Tóm tắt 1
1. Giới thiệu 2
2. Tổng quan những nghiên cứu trước đây 5
2.1. Những nghiên cứu về mặt lý thuyết 5
2.2. Những nghiên cứu về mặt thực nghiệm 10
3. Phương pháp nghiên cứu 22
3.1. Mô hình 22
3.2. Phương pháp nghiên cứu 23
3.3. Dữ liệu nghiên cứu 26
4. Nội dung và các kết quả nghiên cứu 30
4.1. Kiểm định nghiệm đơn vị (Unit root Test) 30
4.2. Độ trễ tối ưu mô hình VAR 32
4.3. Hồi quy mô hình VAR 33
4.4. Kiểm định tự tương quan phần dư 36
4.5. Kiểm định tính ổn định của mô hình VAR 36
4.6. Quan hệ nhân quả Granger 38
4.7. Hàm phản ứng xung (IRF – Impulse Response Function) 40
4.8. Phân rã phương sai (Variance Decomposition) 45
5. Kết luận 49
Tài liệu tham khảo
Phụ lục

DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Cụm viết tắt

Tên đầy đủ tiếng Anh
Tên đầy đủ tiếng Việt
FDI
Outward Foreign Direct
Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
DI
Domestic Investment
Đầu tư trong nước
GDP
Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm quốc nội
GFCF
Real gross fixed capital
formation
Tổng vốn cố định
VAR
Vector Autoregression
Model
Mô hình tự hồi quy vector
OLS
Ordinary Least Squares
Phương pháp
bình phương nhỏ nhất
ECM
Error Correction Model
Mô hình hiệu chỉnh sai số
VECM
Var Error Correction Model
Mô hình vector

hiệu chỉnh sai số
ARDL
Autoregressive
Distributed Lag
Phương pháp
phân phối trễ tự hồi quy
FEM
Fixed Effects Model
Mô hình hiệu ứng cố định
REM
Random Effects Model
Mô hình hiệu ứng
ngẫu nhiên
UNCTAD
United Nations Conference
on Trade and Development
Hội nghị liên hiệp quốc tế
về thương mại và phát triển
WB
World Bank
Ngân hàng thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.2.1: Tóm tắt các công trình nghiên cứu trước đây
Bảng 3.3.1: Tóm tắt các biến nghiên cứu
Bảng 4.1.1: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho biến lnGDP
Bảng 4.1.2: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho biến lnFDI
Bảng 4.1.3: Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho biến lnDI

Bảng 4.2: Lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình
Bảng 4.3: Hồi quy VAR
Bảng 4.4: Kiểm định tự tương quan
Bảng 4.5: Tính ổn định mô hình VAR
Bảng 4.6: Kiểm định quan hệ nhân quả
Bảng 4.7.1: Phản ứng xung của cú sốc trong GDP lên DI
Bảng 4.7.2: Phản ứng xung của cú sốc trong DI lên GDP
Bảng 4.7.3: Phản ứng xung của cú sốc trong FDI lên GDP
Bảng 4.7.4: Phản ứng xung của cú sốc trong FDI lên DI
Bảng 4.8: Kết quả phân rã phương sai của biến GDP
Bảng 4.8.1: Phân rã phương sai của biến GDP

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ


Hình 4.5: Tính ổn định mô hình VAR
Hình 4.7.1: Phản ứng xung của cú sốc trong GDP lên DI
Hình 4.7.2: Phản ứng xung của cú sốc trong DI lên GDP
Hình 4.7.3: Phản ứng xung của cú sốc trong FDI lên GDP
Hình 4.7.4: Phản ứng xung của cú sốc trong FDI lên DI
Hình 4.8.1: Biểu đồ phân rã phương sai của biến GDP











1



Tóm tắt
Bài nghiên cứu xác định mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài
FDI, đầu tư trong nước DI và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn
từ năm 1988 đến năm 2012. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình tự hồi quy vector
VAR thông qua các kiểm định thực nghiệm như kiểm định nghiệm đơn vị, quan
hệ nhân quả Granger, hàm phản ứng xung và phân rã phương sai nhằm thực hiện
mục tiêu và trả lời các câu hỏi nghiên cứu xoay quanh đề tài. Kết quả nghiên cứu
cho thấy trong ngắn hạn có một mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa DI và tăng
trưởng kinh tế, FDI có vai trò thúc đẩy DI và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.
Nắm bắt mối quan hệ giữa hai nguồn vốn DI, FDI với tăng trưởng tại Việt Nam
giúp chính phủ xây dựng các chính sách khuyến khích và sử dụng nguồn vốn đầu
tư có hiệu quả cho từng thời kỳ. Nguồn vốn đầu tư trong điều kiện hơn 10 năm
đổi mới và vốn FDI 25 năm qua đã thu được những thành tựu quan trọng và
trong xu thế toàn cầu hóa đối với Việt Nam nói riêng cũng như các quốc gia
đang phát triển nói chung, việc tận dụng nội lực và ngoại lực vượt qua khủng
hoảng và duy trì mục tiêu tăng trưởng ổn định là một trong những mục tiêu hàng
đầu.







2




1. Giới thiệu
Toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới là một trong những xu hướng vận động
chủ yếu của nền kinh tế, mở cửa và hội nhập các nền kinh tế quốc gia và khu vực
trở thành điều kiện bắt buộc của sự phát triển. Vấn đề tăng trưởng lâu bền, tốc độ
cao và dịch chuyển cơ cấu trở thành quản lý phát triển cho mọi nền kinh tế hiện
đại. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng ấy, đầu tư trong nước luôn là
nguồn đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế của quốc gia chủ nhà, là nguồn
vốn cơ bản, có vai trò quyết định chi phối mọi hoạt động đầu tư phát triển trong
nước, DI được xem là nguồn lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt DI
cũng là một công cụ hiệu quả trong việc tạo ra công ăn việc làm cho nền kinh
tế… Bên cạnh yếu tố quyết định của nội lực thì nguồn vốn FDI trong 25 năm qua
(Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 2 thông qua vào ngày 29/12/1987. Hiệu
lực: 09/01/1988) đóng vai trò hết sức quan trọng tạo nên đà tăng trưởng kinh tế,
nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng
kinh tế của Việt Nam nói riêng và các quốc gia trên thế giới nói chung. Có rất
nhiều nghiên cứu tranh luận về mối quan hệ giữa FDI và DI, FDI và tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên, các bằng chứng thực nghiệm cho thấy rằng mối quan hệ nhân
quả giữa FDI, DI và tăng trưởng kinh tế vẫn còn là một câu hỏi không rõ ràng,
trong khi đó, nghiên cứu các mối quan hệ nhân quả giữa các nhân tố này cho một
phân tích cụ thể với một quốc gia là rất quan trọng đối với các nhà hoạch định
chính sách nhằm thiết kế các chính sách đầu tư thích hợp. Tuy nhiên, có rất ít
nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ nhân quả đồng thời của ba nhân tố FDI,
DI và tăng trưởng kinh tế, hầu hết các nghiên cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu
mối quan hệ của hai trong ba nhân tố.
3




Chính vì thế, tôi chọn đề tài “Mối quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đầu tư trong nước và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam” để nghiên cứu
trong luận văn của mình.
Tôi thực hiện bài nghiên cứu với mục tiêu xác định mối quan hệ của
nguồn vốn FDI, DI và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Vai trò của từng loại hình
đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam cũng như mối quan hệ giữa hai
loại hình đầu tư chủ yếu này.
Nghiên cứu sẽ lần lượt giải quyết các câu hỏi xoay quanh mối quan hệ
nhân quả của nguồn vốn FDI, DI và tăng trưởng kinh tế:
 Có mối quan hệ giữa hai loại hình đầu tư FDI, DI tại Việt Nam hay
không?
 FDI thúc đẩy hay ấn át DI tại Việt Nam?
 Có hay không mối quan hệ giữa DI với tăng trưởng kinh tế và giữa FDI
với tăng trưởng kinh tế?
 FDI, DI tác động đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam như thế nào?
Đề tài sẽ thông qua phân tích thực nghiệm bằng mô hình VAR cho dữ liệu
chuỗi thời gian hằng năm nghiên cứu tác động của các biến kinh tế FDI, DI và
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong khoảng thời gian từ năm 1988 - 2012.


4



Cấu trúc của luận văn gồm những phần chủ yếu sau:
Phần 2: tổng quan về các bài ngiên cứu trước đây mối quan hệ giữa nguồn
vốn FDI, DI và tăng trưởng kinh tế.
Phần 3: trình bày phương pháp nghiên cứu, lựa chọn mô hình, trình bày

về kỹ thuật VAR cùng những ưu và nhược điểm, giải thích các biến và nguồn dữ
liệu dùng trong mô hình.
Phần 4: nội dung và các kết quả thực nghiệm tại Việt Nam.
Phần 5: kết luận, khuyến nghị chính sách và hạn chế của bài nghiên cứu.














5



2. Tổng quan những nghiên cứu trước đây
2.1. Những nghiên cứu về mặt lý thuyết
Trong lịch sử phát triển các nước và trên phương diện lý luận chung, bất
kỳ một quốc gia nào cũng phải sử dụng chủ yếu nguồn lực nội bộ để phát triển
kinh tế. Bằng cách sử dụng nguồn vốn trong nước có hiệu quả mới nâng cao
được vai trò của nó và thực hiện được các mục tiêu quan trọng đề ra của quốc
gia. Nguồn vốn trong nước là nguồn có tính chất quyết định, có vai trò chủ yếu
thì nguồn vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng trong những bước đi ban

đầu cho sự phát triển. Điều này được thể hiện trên các vai trò bổ sung nguồn vốn
cho đầu tư khi mà tích luỹ nội bộ nền kinh tế còn thấp. Vai trò của vốn trong
nước đối với bất kỳ một quốc gia là không thể phủ nhận, tuy nhiên với xu thế
toàn cầu hóa trong thời đại mới, vốn đầu tư nước ngoài đóng vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế của bất kỳ một quốc gia đặc biệt là những
quốc gia kém phát triển, đang phát triển, trong đó nguồn vốn FDI đang chiếm đa
số (bên cạnh nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA)).
Trong những năm đầu 80, nghiên cứu về các yếu tố quyết định tăng
trưởng kinh tế đã thu hút được sự quan tâm mới các nhà kinh tế học. Đặc biệt,
mối quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế là một chủ đề được nghiên cứu
trong kinh tế phát triển, cả về mặt lý thuyết và thực nghiệm. Lý thuyết tăng
trưởng nội sinh (Romer (1986), Lucas (1988), Barro (1991), Mankiw, Romer và
Weil (1992), Barro và Sala-i-Martin (1995)) đều cho rằng FDI là một trong
những yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế về lâu dài, FDI thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế trong dài hạn bởi công nghệ. Lý thuyết này đặt nền tảng cho những
6



nghiên cứu sau này nhằm xác định các nhân tố chủ yếu giải thích sự khác biệt về
tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các quốc gia.
Mặt khác, lý thuyết chiết trung (the Eclectic Theory of FDI), được phát
triển bởi Dunning (1988) đã cung cấp một phương pháp phân tích khác về mối
quan hệ giữa FDI và tăng trưởng kinh tế. Dựa trên phân tích về lợi thế cạnh
tranh, lý thuyết này chỉ ra rằng việc thu hút nguồn vốn FDI phụ thuộc rất nhiều
vào các nhân tố và đặc tính của nước sở tại. Mặc dù trong ngắn hạn, mối quan hệ
giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế có xu hướng thấp tuy nhiên về lâu dài, tỷ lệ
đầu tư được được nhận thấy có liên quan chặt chẽ với tăng trưởng kinh tế. Một
quốc gia nếu tiết kiệm trong nước không đủ cho đầu tư tài chính trong nước, sẽ
phụ thuộc vào nguồn vốn từ nước ngoài.

Vốn đầu tư nước ngoài FDI được cho rằng sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thông qua việc phổ biến công nghệ và phát triển nguồn nhân lực.
Borensztein và cộng sự (1998) chỉ ra rằng chính nguồn vốn FDI là một phương
tiện quan trọng cho việc chuyển giao công nghệ, góp phần tăng trưởng lớn hơn
cả đầu tư trong nước. De Mello (1999) cho rằng vốn FDI có thể góp phần vào
tăng trưởng kinh tế nơi chuyển giao công nghệ thông qua đào tạo lao động và
mua lại kỹ năng, phương thức quản lý mới và sắp xếp tổ chức. Theo Rappaport
(2000) , FDI có thể nâng cao năng suất không chỉ của các công ty nhận đầu tư,
mà còn của tất cả các công ty của nước sở tại như một hệ quả của hiệu ứng lan
tỏa công nghệ. De Gregorio (2003) cũng đã ghi nhận rằng có sự chuyển công
nghệ và kiến thức từ các nhà đầu tư quốc gia kèm theo nguồn vốn FDI dẫn đến
tăng trưởng năng suất trong nền kinh tế. Ngoài ra, nguồn vốn FDI sẽ giúp khắc
phục tình trạng thiếu vốn trong nước sở tại và bổ sung cho DI khi dòng FDI vào
7



khu vực có nguy cơ cao hoặc các ngành công nghiệp mới, nơi nguồn DI đang
còn hạn chế. Nguồn vốn FDI cũng có thể thúc đẩy DI trong các ngành công
nghiệp liên quan phát triển, FDI có thể dẫn đến tăng nhu cầu đối với hàng xuất
khẩu từ các nước chủ nhà, giúp thu hút đầu tư trong các ngành công nghiệp xuất
khẩu.
Tuy nhiên, một số lập luận khác cho rằng nguồn vốn FDI lấn át DI, và có
ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng. Các nghiên cứu của Huang (1998, 2003),
Braunstein và Epstein (2002) cho thấy FDI có thể được xem là một chiến lược
toàn cầu tích cực của các công ty đa quốc gia (MNCs) nhằm tăng cường năng
lực độc quyền hơn các công ty bản địa. Những lợi thế sở hữu của các MNCs như
công nghệ tiên tiến, bí quyết kỹ năng quản lý, giảm thiểu chi phí giao dịch và lợi
thế vô hình khác có thể được chuyển thành sức mạnh độc quyền. Các MNCs có
thể kiểm soát nguồn cung cấp nguyên liệu đầu vào trong ngành công nghiệp của

nền kinh tế chủ nhà và đạt được những lợi ích từ trợ cấp thuế, do vậy có thể tăng
cường lợi thế cạnh tranh của các MNCs với các công ty nước chủ nhà và nguồn
vốn FDI có thể thay thế nguồn vốn DI trong thời gian dài. Các ảnh hưởng thay
thế này cũng có thể xảy ra khi các MNCs cạnh tranh và làm hạn chế cơ hội đầu
tư trong nền kinh tế chủ nhà nhờ khai thác các chính sách ưu đãi và thậm chí có
đặc quyền trong cạnh tranh cho các nguồn tài nguyên khan hiếm ở địa phương.
Một vấn đề gây tranh cãi lớn về tác động của FDI trên nước chủ nhà là liệu dòng
vốn FDI lấn át hay thúc đẩy DI. Đầu tư trong nước cũng tác động rất lớn đến đầu
tư nước ngoài là định hướng cho dòng chảy đầu tư đầu tư nước ngoài vào các
ngành và lĩnh vực cần thiết. Tuy nhiên, những tác động lên DI sau khi mở cửa
cho dòng vốn FDI có thể thay đổi tùy thuộc vào môi trường đầu tư trong nước và
các chế độ thương mại của nước chủ nhà. Khi đầu tư trong nước được tập trung
8



tạo ra cơ sở hạ tầng, nguồn năng lực cho một ngành nhất định thì làm cho chi phí
trung gian sản xuất trong ngành đó giảm đi, tỷ suất lợi nhuận trong ngành tăng
lên làm các nhà đầu tư nước ngoài mong muốn được đầu tư vào ngành đó hơn.
Tuy nhiên, một khi tạo được vị thế của mình trong nền kinh tế, FDI có thể lấn
át DI khi không thể cạnh tranh với hoạt động hiệu quả hơn và công nghệ cao cấp
hơn của các MNCs. Doanh nghiệp trong nước có thể không cạnh tranh cao khi
các công ty nước ngoài hoạt động có hiệu quả hơn hoặc có thể hình thành độc
quyền nhóm và bán với giá rẻ hơn so với doanh nghiệp trong nước. Các MNCs
thường được tiếp cận với sản phẩm toàn cầu và thị trường vốn, trong khi doanh
nghiệp trong nước phải dựa vào thị trường trong nước. Các nhà đầu tư nước
ngoài có thể tăng lãi suất khi vay trên thị trường tài chính trong nước, kết quả là
lấn át doanh nghiệp trong nước. Nếu FDI đầu tư vào các lĩnh vực mà trong đó
sản xuất trong nước đang hoạt động, FDI có thể tận dụng các cơ hội đầu tư mà
chỉ có sẵn cho các nhà sản xuất trong nước trước khi có các khoản đầu tư nước

ngoài. FDI có thể lấn át DI bằng cách tạo ra hiệu ứng lan tỏa thông qua việc phổ
biến các công nghệ mới và các mối liên kết sản xuất. DI trên cơ sở đầu tư ban
đầu tạo ra những cơ sở hạ tầng căn bản, đầu ra, đầu vào…song lại thiếu máy móc
thiết bị và công nghệ hiện đại để tạo ra sản phẩm đạt chất lượng cao, mang tính
cạnh tranh so với quốc tế để phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu.Với cơ sở hạ tầng
sẵn có đó thì đầu tư nước ngoài trở nên an toàn và ít tính rủi ro hơn, vì bản chất
của dòng đầu tư nước ngoài là tìm kiếm nơi có tỉ suất lợi nhuận cao hơn, đem lại
nhiều lợi nhuận hơn sẽ làm đầu tưnước ngoài tập trung nhiều hơn.


9



Tóm lại, nguồn vốn trong nước luôn là một nguồn lực chính trong thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận vai trò của nguồn vốn
nước ngoài đặc biệt là nguồn vốn FDI cũng là nguồn lực tiềm năng thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế của bất kỳ một quốc gia, vai trò của nguồn vốn này đối với tăng
trưởng kinh tế cần được tìm hiểu sâu qua những nghiên cứu thực nghiệm. Bên
cạnh đó, mối quan hệ giữa hai nguồn vốn đầu tư này cũng được khẳng định là
mối quan hệ bổ sung, thay thế cho nhau, trong từng thời kỳ mà chúng có tác động
qua lại ở những mức độ khác nhau, mức độ tác động này cũng không giống nhau
cho từng quốc gia với những đặc điểm kinh tế riêng của quốc gia đó.












10



2.2. Những nghiên cứu về mặt thực nghiệm
Choe (2003) sử dụng dữ liệu bảng nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa
FDI và tăng trưởng bằng phương pháp kiểm tra truyền thống được phát triển bởi
Holtz-Eakin và cộng sự (1988) trong một tập dữ liệu của 80 quốc gia. Kết quả
cho thấy có mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa FDI và tăng trưởng kinh tế,
nhưng ông nhận thấy tác động nhân quả của FDI tới tăng trưởng kinh tế là yếu.
Hansen và Rand (2004) sử dụng một mẫu của 31 quốc gia đang phát triển và sử
dụng dữ liệu bảng, kết quả cho thấy có một mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa
FDI và GDP. Họ giải thích kết quả này là bằng chứng ủng hộ giả thuyết rằng
FDI có tác động đến GDP thông qua chuyển giao tri thức và áp dụng các công
nghệ mới. Mahmoud al-Iriani và Fatima Al-Shami (2007) nghiên cứu mối quan
hệ giữa FDI và tăng trưởng trong 6 quốc gia vùng Vịnh và sử dụng phương pháp
phân tích dữ liệu bảng cho thấy mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa hai yếu tố.
Kết quả này giúp củng cố giả thuyết tăng trưởng nội sinh của nhóm các quốc gia
này.
Nghiên cứu của Sevil ACAR, Bilge ERİŞ và Mahmut TEKÇE (2008),
“The Effect of Foreign Direct Investment on Domestic Investment: Evidence
from MENA Countries”
Sevil ACAR, Bilge ERİŞ và Mahmut TEKÇE (2008) nghiên cứu mối quan hệ
giữa FDI và DI được xem xét trên dữ liệu bảng cho 13 quốc gia ở khu vực
Trung Đông và Bắc Phi (MENA) cho giai đoạn 1980 - 2008. Sử dụng phương
pháp GMM, mô hình được ước tính cho ba nhóm nước gồm tất cả các nước

được lựa chọn là 7 quốc gia nhiều dầu mỏ và 6 quốc gia ít dầu mỏ. Khu vực
MENA thể hiện một xu hướng tương tự và đã thu hút được mức độ cao hơn
11



của FDI đặc biệt là trong những năm gần đây. Nghiên cứu này nhằm mục đích
để cho thấy tác động của những xu hướng dòng vốn FDI trên kết quả DI trong
những quốc gia được lựa chọn của MENA. Sự khác biệt tại hai nhóm nước
trong việc thu hút FDI. Phân tích cũng cho thấy rằng FDI lấn át DI (trong 13
quốc gia được lựa chọn để phân tích). Các kênh lấn át này có thể đa dạng. Nếu
FDI hướng đến các dự án hiện có thông qua tư nhân hóa và không tạo ra đầu
tư "mới", hiện tượng lấn át có thể xảy ra. FDI cũng có thể lấn át DI khi tham
gia vào lĩnh vực trước đây bị chi phối bởi các công ty nhà nước (Mileva,
2008), là khá phù hợp cho trường hợp của MENA. Bên cạnh đó, hầu hết các
nền kinh tế MENA đã được bảo hộ mạnh mẽ đối với đầu tư nước ngoài và đã
không thu hút được một số lượng quan trọng của FDI cho đến những năm
1990. Do đó các nhà đầu tư trong nước có thể không có khả năng để cạnh
tranh hiệu quả hơn với các MNCs. Tuy nhiên, tính năng này của dòng vốn FDI
vào các MENA cần nghiên cứu sâu hơn, đặc biệt là vào các động lực và các
đặc điểm của đầu tư trong nước trong khu vực.
Nghiên cứu của Leonce Ndikumana và Sher Verick (2008), “The
Linkages between FDI and Domestic Investment: Unravelling the
Developmental Impact of Foreign Investment in Sub-Saharan Africa”.
Leonce Ndikumana và Sher Verick (2008) ngiên cứu về việc khuyến khích DI và
DI bị ảnh hưởng bởi FDI như thế nào. Nghiên cứu với dữ liệu bảng cho 38 quốc
gia châu Phi trong khoảng thời gian từ 1970 - 2005, sử dụng mô hình hồi quy
OLS và FEM, bằng cách tách DI thành đầu tư tư nhân trong nước và đầu tư công
trong nước, kết quả của họ chỉ ra rằng có một mối quan hệ giữa FDI và DI, và có
một tác động tích cực của DI lên FDI, đặc biệt là đối với trường hợp của đầu tư

12



tư nhân. Hiểu biết về mối quan hệ giữa FDI và thị trường yếu tố trong nước là
chìa khóa để phát hiện ra các kênh mà thông qua đó cho thấy những ảnh hưởng
của FDI đến hoạt động kinh tế, điều này giúp xác định các chính sách đòn bẩy có
thể được kích hoạt để tối đa hóa cả dòng vốn FDI và các lợi ích từ FDI đối với
nền kinh tế chủ nhà. Nghiên cứu về nguyên nhân và tác động của FDI trong nền
kinh tế châu Phi bằng cách tập trung vào mối liên hệ giữa FDI và thị trường yếu
tố trong nước. Đặc biệt, nghiên cứu điều tra xem DI thúc đẩy dòng vốn FDI và
lần lượt bị ảnh hưởng bởi FDI. Trong khi các tài liệu đã cung cấp nhiều bằng
chứng về các yếu tố quyết định của FDI (mặc dù ít nhiều vẫn còn được biết đến
trong trường hợp của các nước châu Phi) và những tác động của FDI tới tăng
trưởng, rất ít nghiên cứu về được cách thức FDI ảnh hưởng đến các thị trường
yếu tố trong nước. Các bằng chứng hỗ trợ quan điểm cho rằng một trong những
cách mà FDI có thể có một tác động tích cực đến tăng trưởng là bằng cách tăng
cường tích lũy vốn trong nước.
Nghiên cứu của Sumei Tang, E.A. Selvanathan và S. Selvanathan (2008),
“Foreign Direct Investment, Domestic Investment and Economic Growth in
China: A Time Series Analysis”.
Nghiên cứu của Sumei Tang, E.A. Selvanathan và S. Selvanathan (2008) sử
dụng mô hình VAR và ECM hồi quy dữ liệu chuỗi thời gian hằng quý từ quý
I/1988 đến quý III/2003 nghiên cứu mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn giữa FDI,
DI và tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc. Trong tiến trình thực nghiệm các ông
chú trọng kiểm tra quan hệ nhân quả Granger giữa các biến và chức năng của
hàm phản ứng xung. Kết quả cho thấy thay vì lấn át DI, FDI có một mối quan hệ
bổ sung cho DI. FDI không chỉ hỗ trợ trong việc khắc phục tình trạng thiếu vốn,
13




nó cũng đã kích thích tăng trưởng kinh tế thông qua việc bổ sung cho nguồn vốn
DI ở Trung Quốc. Nguồn vốn DI của Trung Quốc và tăng trưởng kinh tế có mối
tương quan tích cực; tăng trưởng kinh tế lớn khuyến khích đầu tư trong nước lớn
và ngược lại. DI của Trung Quốc và tăng trưởng kinh tế không có tác động nhiều
vào dòng vốn FDI trong thời gian dài. Quan hệ nhân quả giữa tăng trưởng kinh
tế và DI là hai chiều, nhưng chỉ có một chiều hướng quan hệ nhân quả từ FDI lên
DI và FDI lên tăng trưởng kinh tế. DI của Trung Quốc có tác động lớn đến tăng
trưởng kinh tế hơn so với tác động của FDI lên tăng trưởng kinh tế khuyến khích
và thúc đẩy tiết kiệm trong nước nên được ưu tiên hơn thu hút FDI trong việc
thiết kế và thực hiện chiến lược đầu tư và các chính sách đầu tư vào Trung Quốc.
Nghiên cứu của Yasmine Merican (2009), “Foreign Direct Investment and
Growth in ASEAN-4 Nations”.
Yasmine Merican (2009) nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI với tăng trưởng kinh
tế cho 4 quốc gia Đông Nam Á là Malaysia, Thái Lan, Indonesia, và Philippines.
Bài nghiên cứu sử dụng dữ liệu chuỗi thời gian hằng năm trong thời kỳ 1970 –
2001 và sử dụng phương pháp ARDL (ARDL được phát triển bởi Pesaran và
cộng sự (2001) được xem là thích hợp nhất cho các nghiên cứu cỡ mẫu nhỏ và có
thể nghiên cứu được mối quan hệ trong dài hạn hơn cả phương pháp VAR). Kết
quả của bài nghiên cứu cho thấy rằng trong dài hạn, đối với trường hợp của
Malaysia và Indonesia, kết quả của bài nghiên cứu cho thấy tác động của FDI lên
tăng trưởng kinh tế là đáng kể hơn tác động của DI lên tăng trưởng kinh tế trong
dài hạn. Tuy nhiên kết quả này ngược lại đối với trường hợp của hai nước Thái
Lan và Philippines khi khẳng định vai trò của DI lên tăng trưởng kinh tế là quan
trọng hơn so với FDI.
14




Nghiên cứu của Samuel Adams (2009), “Foreign Direct Investment,
Domestic Investment, and Economy Growth in Sub-Saharan Africa”.
Samuel Adams (2009) sử dụng dữ liệu bảng cho 42 quốc gia Châu Phi cận
Sahara trong khoảng thời gian từ năm 1990 đến 2003 phân tích tác động của
FDI, DI lên tăng trưởng kinh tế. Bằng phương pháp hồi quy OLS, nghiên cứu
cho thấy rằng FDI thời kỳ sau có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, tuy
nhiên FDI trong hiện tại lại không có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế.
Kết quả này được lý giải là do mức độ phát triển thấp ở vùng cận Sahara châu
Phi, nền kinh tế kém phát triển ít tạo điều kiện thu hút nguồn vốn FDI, tuy nhiên
thông qua phương pháp hồi quy OLS lẫn FEM, nghiên cứu cũng đã chứng minh
được rằng DI có mối tương quan tích cực và đáng kể đối với tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy một xu hướng rằng FDI tỷ lệ
nghịch với DI.
Nghiên cứu của Abdulhamid Sukar, Syed Ahmed và Seid Hassan (2011),
“The effects of Foreign Direct Investment on Economic Growth: The case of
Sub-Sahara Africa”.
Abdulhamid Sukar, Syed Ahmed và Seid Hassan (2011) xem xét các tác động
của FDI và tăng trưởng kinh tế cho nhóm các nước Châu Phi cận Sahara.
Phương pháp luận liên quan đến ước tính mô hình tăng trưởng nội sinh, sử dụng
dữ liệu bảng cho giai đoạn 1975 -1999. Sử dụng lần lượt phương pháp hồi quy
OLS, FEM và REM, kết quả cho thấy FDI có tác động tích cực nhưng không
đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. Trong bối cảnh các nước Đông Nam Á thu hút
dòng vốn FDI lớn, một nỗ lực để thu hút FDI và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở
nhiều nước đang phát triển bao gồm các nước cận sa mạc Sahara châu Phi cũng
15



đã thành lập cơ quan đầu tư và đã giới thiệu các chính sách bao gồm các ưu đãi
tài chính. Mặc dù chính sách như vậy có thể có hiệu quả trong việc thu hút đầu

tư nước ngoài, nhưng các lợi ích tiềm năng mà FDI có thể mang lại cho nước
chủ nhà có thể bị hạn chế. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tác động của FDI tới
tăng trưởng kinh tế là tích cực nhưng không đáng kể về mặt thống kê ở mức ý
nghĩa 5%. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của Rodrick, Aitken và
cộng sự, lập luận rằng tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế có xu hướng yếu.
Liên kết yếu giữa FDI và tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia lấy mẫu trong bài
có thể không đáng ngạc nhiên trong một bối cảnh thực tế là nguồn vốn FDI vào
châu Phi đã được tập trung vào một số lượng hạn chế của các quốc gia và vào
các ngành khai thác mỏ, năng lượng. FDI trong khai thác khoáng sản thường là
khu vực trong tự nhiên với tác nhân hạn chế về sản lượng và việc làm. Kết quả
cũng ngụ ý rằng các yếu tố khác như chính sách kinh tế vĩ mô, độ mở thương
mại, và DI cao hơn sẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nghiên cứu của Hooi Hooi Lean và Bee Wah Tan (2011), “Linkages
between Foreign Direct Investment, Domestic Investment and Economic Growth
in Malaysia”.
Hooi Hooi Lean và Bee Wah Tan (2011) với chuỗi dữ liệu thời gian hằng năm từ
năm 1970 - 2009 nghiên cứu các mối quan hệ giữa FDI, DI và tăng trưởng kinh
tế tại Malaysia. Các ông sử dụng mô hình VAR và VECM nghiên cứu mối quan
hệ của các biến kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn. Đầu tiên các ông sử dụng mô
hình VAR, kiểm định quan hệ đồng liên kết, sau đó tiếp tục sử dụng mô hình
VECM nghiên cứu mối quan hệ của các biến kinh tế trong dài hạn. Các kết quả
thực nghiệm của nghiên cứu này cho thấy FDI, DI và tăng trưởng kinh tế có
16



quan hệ trong thời gian dài, FDI có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế,
ngược lại DI ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Đặc biệt,
kết quả nghiên cứu cũng cho thấy có một mối quan hệ nhân quả giữa DI và FDI,
giữa tăng trưởng kinh tế và FDI trong ngắn hạn. Ngoài ra, sự gia tăng của FDI sẽ

mang lại tác động tích cực đến DI, xuất hiện hiệu ứng bổ sung từ FDI lên DI.
Tăng trưởng kinh tế cao sẽ thu hút dòng vốn FDI tại Malaysia. DI cũng là một
yếu tố quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong ngắn hạn. Mở
rộng dòng vốn FDI có thể được liên kết với một sự gia tăng đáng kinh ngạc trong
DI, và cả doanh nghiệp FDI và DI có thể hợp tác với nhau tạo nên sự phát triển
của Malaysia.
Nghiên cứu của Marc Lautier và François Moreaub (2012), “Domestic
Investment and FDI in Developing Countries: The missing link”.
Marc Lautier và François Moreaub (2012), trong khi có rất nhiều nghiên cứu về
tác động của FDI tới tăng trưởng và đầu tư tại nước chủ nhà nhưng rất ít nghiên
cứu về cách thức DI ảnh hưởng đến dòng vốn FDI, bài nghiên cứu này nhằm
nghiên cứu tác động của DI đến FDI cho các nước đang phát triển. Sử dụng dữ
liệu bảng gồm 68 quốc gia trong một thời gian dài (1984 - 2004) với phương
pháp hồi quy OLS. Kết quả của nghiên cứu cho thấy độ trễ DI có ảnh hưởng
mạnh đến dòng vốn FDI, ngụ ý rằng DI là một chất xúc tác mạnh mẽ làm tăng
dòng vốn FDI ở các nước đang phát triển. Kết quả này cho thấy rằng các chính
sách khuyến khích FDI vào doanh nghiệp trong nước sẽ có hiệu quả để thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài là tốt. Tác động này là mạnh nhất khi các nước ra
khỏi mức độ kém phát triển. DI dường như là một yếu tố dự báo tốt cho dòng
vốn đầu tư nước ngoài trong tương lai. Kết quả cũng cho thấy rằng việc thúc đẩy
17



đầu tư doanh nghiệp trong nước sẽ dẫn đến gia tăng cao dòng vốn FDI. Các
nước đang phát triển sẽ được hưởng lợi từ các biện pháp nhằm khuyến khích DI,
và một hiệu suất đầu tư tốt hơn sẽ có hiệu quả kích thích FDI. Bằng chứng cho
thấy đáng chú ý rằng chính sách công nghiệp, nhằm nâng cao lợi nhuận và phạm
vi DI, sẽ có hiệu quả để tăng dòng vốn FDI. Nhiều quốc gia đang tích cực cố
gắng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài với nhiều ưu đãi và trợ giá. Cuối cùng,

nghiên cứu này khẳng định rằng một chính sách thu hút FDI không thể là một
chiến lược phát triển tại các quốc gia này vì dòng vốn FDI đang hướng về nước
đang phát triển đã là một tỷ lệ đầu tư mạnh mẽ nhưng dòng chảy FDI chỉ hướng
đến những nước đã có một quá trình phát triển kinh tế năng động.
Nghiên cứu của Soltani Hassen và Ochi Anis (2012), “Foreign Direct
Investment (FDI) and Economic Growth: An approach in terms of cointegration
for the case of Tunisia”.
Soltani Hassen và Ochi Anis (2012) nghiên cứu mối quan hệ giữa FDI và tăng
trưởng kinh tế với dữ liệu chuỗi thời gian trong giai đoạn 1975 – 2009 tại
Tunisia. Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích tác động của FDI tới tăng trưởng
kinh tế trong bối cảnh của Tunisia cụ thể là tác động của FDI tới tăng trưởng
kinh tế như thế nào? Tác giả kiểm định định tính dừng cho các biến sau đó kiểm
định có đồng liên kết nên sử dụng mô hình ECM (dựa trên mô hình nghiên cứu
của Enisan Akinlo (2004)) cho các biến phát triển tài chính, FDI, nguồn nhân
lực, độ mở thương mại, và GDP thực. Phân tích thực nghiệm tập trung vào ba
bước: kiểm định tính dừng cho thấy các biến đều không dừng và khi lấy sai phân
bậc 1 thì tất cả các biến đều dừng. Tiếp theo tác giả kiểm định đồng liên kết và
tìm thấy có 1 quan hệ đồng liên kết giữa các biến, điều này chứng tỏ có một quan
18



hệ dài hạn gữa phát triển tài chính, FDI, nguồn nhân lực, độ mở thương mại, và
GDP thực. Tiếp theo các tác giả sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số ECM và đi
đến kết luận có mối quan hệ dài hạn giữa GDP thực và FDI, cụ thể trong dài hạn
FDI tác động tích cực đáng kể lên tăng trưởng kinh tế. Tình hình chính trị ổn
định tại Tunisia cũng như các chính sách về miễn giảm thuế cho nhà đầu tư nước
ngoài của chính phủ nước này đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Ngoài ra, kết quả của bài nghiên cứu cũng cho thấy các yếu tố về
con người và phát triển tài chính cũng có tác động đáng kể đến tăng trưởng kinh

tế nhưng ngược lại tự do hóa thương mại lại tác động tiêu cực đến tăng trưởng
kinh tế tại Tunisia.
Nghiên cứu của Rehmat Ullah Awan, Khalid Javed và Falak Sher (2012),
“Foreign Direct Investment, Economic Growth, Trade and Domestic Investment
Relationship: An Econometric Analysis of Selected South Asian Countries”.
Rehmat Ullah Awan, Khalid Javed và Falak sher (2012) nghiên cứu mối quan hệ
giữa FDI, tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, nhập khẩu, DI lần lượt ở các Nam Á
bao gồm Bangladesh, Ấn Độ, Pakistan và Sri Lanka, sử dụng dữ liệu chuỗi thời
gian hàng năm giai đoạn 1973 - 2010. Bài nghiên cứu sử dụng mô hình VAR và
tập trung chủ yếu vào mối quan hệ nhân quả giữa các biến nghiên cứu FDI, tăng
trưởng kinh tế, xuất khẩu, nhập khẩu, DI (đại diện bởi vốn cố định - Fixedcapital
formation) và thêm độ mở thương mại (với độ mở thương mại = (xuất khẩu +
nhập khẩu)/GDP). Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy rằng FDI có tác động đến
tăng trưởng kinh tế nhưng tác động này là yếu hơn tác động của xuất khẩu đối
với tăng trưởng kinh tế. Bài nghiên cứu còn cho thấy các kết quả khác như tăng
trưởng kinh tế tác động đến nhập khẩu trong những thời kỳ khác nhau nhưng

×