BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN NHẬT NGA
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
QUÂN ĐỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp Hồ Chí Minh – Năm 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN NHẬT NGA
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
QUÂN ĐỘI
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LẠI TIẾN DĨNH
Tp Hồ Chí Minh – Năm 2014
LỜI CAM ĐOAN
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Tài chính Ngân hàng, đề tài “Nâng cao năng
lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội” được viết dưới sự
hướng dẫn của TS Lại Tiến Dĩnh. Luận văn được viết dựa trên cơ sở vận dụng lý
luận chung về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và thực trạng năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội, đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng ở hiện tại và tương lai.
Trong quá trình viết luận văn, tác giả có tham khảo, kế thừa một số lý luận
chung về cạnh tranh, năng lực cạnh tranh và sử dụng thông tin, số liệu từ một số
sách tham khảo chuyên ngành, theo danh mục tài liệu tham khảo.
Tác giả cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập không có sự sao chép
nguyên văn từ bất cứ luận văn hay đề tài nghiên cứu ngoài hay nhờ người khác làm
hộ.
Tác giả xin chịu trách nhiệm về cam đoan của mình.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Nhật Nga
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục từ viết tắt
Danh mục bảng biểu, hình vẽ
Lời mở đầu Trang 1
Chương 1 – Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại 4
1.1. Các khái niệm 4
1.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh 4
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại 5
1.2. Đặc thù cạnh tranh ngành ngân hàng 7
1.2.1. Ngành ngân hàng có cạnh tranh nhưng cần có hợp tác vì ngành tiềm ẩn
nhiều rủi ro 7
1.2.2. Hoạt động ngành ngân hàng phụ thuộc vào môi trường bên ngoài 8
1.2.3. Hoạt động ngành ngân hàng phụ thuộc vào tài chính quốc tế 9
1.2.4. Các rào cản trong việc gia nhập hoặc rời khỏi ngành 9
1.2.5. Công nghệ có vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng 9
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh 10
1.3.1. Nhóm yếu tố khách quan 10
1.3.2. Nhóm yếu tố chủ quan 11
1.4. Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh 12
1.4.1. Năng lực tài chính 12
1.4.1.1. Quy mô vốn tự có 12
1.4.1.2. Chất lượng tài sản nợ 13
1.4.1.3. Chất lượng tài sản có 13
1.4.2. Năng lực kinh doanh 15
1.4.2.1. Qui mô và khả năng huy động vốn 15
1.4.2.2. Khả năng thanh khoản 15
1.4.2.3. Khả năng sinh lời 15
1.4.2.4. Khả năng quản trị rủi ro 16
1.4.3. Sản phẩm dịch vụ 17
1.4.4. Nhân lực 17
1.4.5. Công nghệ kỹ thuật 18
1.4.6. Quản trị và điều hành 18
1.4.7. Xây dựng danh tiếng, uy tín và quảng bá thương hiệu 19
1.5. Nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại 19
1.6. Mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại 20
1.6.1. Một số đề tài nghiên cứu về năng lực cạnh tranh các ngân hàng trong nước
20
1.6.2. Mô hình của đề tài nghiên cứu 21
1.6.2.1. Giới thiệu sơ lược phương pháp phân tích 21
1.6.2.2. Mô tả lý thuyết về hướng phân tích mô hình của đề tài 22
1.6.2.3. Mô hình nghiên cứu của đề tài 25
Chương 2 – Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân
Đội 26
2.1. Giới thiệu Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội 26
2.1.1. Lịch sử ra đời, hình thành và phát triển 26
2.1.2. Tình hình hoạt động 27
2.1.2.1. Huy động vốn 27
2.1.2.2. Hoạt động tín dụng 28
2.1.2.3. Hoạt động dịch vụ 28
2.1.2.4. Hoạt động đầu tư 29
2.2. Phân tích khả năng cạnh tranh của MB với các đối thủ khác 30
2.2.1. Năng lực tài chính 31
2.2.2. Năng lực hoạt động 333
2.2.3. Khả năng sinh lời 333
2.2.4. Thị phần hoạt động 344
2.2.5. Tính đa dạng của sản phẩm 355
2.2.6. Năng lực công nghệ 366
2.2.7. Chất lượng nhân sự 377
2.3. Năng lực cạnh tranh của MB 377
2.3.1. Năng lực tài chính 377
2.3.1.1. Qui mô vốn 377
2.3.1.2. Chất lượng tín dụng 388
2.3.1.3. Tổng tài sản 40
2.3.2. Năng lực kinh doanh 40
2.3.2.1. Qui mô và khả năng huy động vốn 40
2.3.2.2. Khả năng thanh khoản 41
2.3.2.3. Khả năng sinh lời 42
2.3.2.4. Khả năng quản trị rủi ro 43
2.3.2.5. Mạng lưới 44
2.3.3. Sản phẩm dịch vụ 45
2.3.4. Nhân lực 45
2.3.4.1. Đào tạo 45
2.3.4.2. Trình độ nhân viên 46
2.3.4.3. Chế độ đãi ngộ 46
2.3.5. Công nghệ kỹ thuật 47
2.3.6. Quản trị và điều hành 48
2.3.7. Xây dựng danh tiếng, uy tín và quảng bá thương hiệu 49
2.4. Xây dựng mô hình xác định năng lực cạnh tranh của MB 49
2.4.1. Mô tả thông tin khảo sát và mẫu khảo sát 49
2.4.2. Phân tích nhân tố 50
2.4.2.1. Tách nhân tố 50
2.4.2.2. Xoay nhân tố 51
2.4.3. Kiểm định KMO (Kaiser Mayer Olkin) và Bartlett 55
2.4.4. Hồi quy tuyến tính 56
Chương 3 – Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng thương mại cổ phần Quân Đội 60
3.1. Đánh giá chung về môi trường kinh doanh ngành ngân hàng năm 2014 60
3.2. Định hướng phát triển của MB đến 2015 61
3.3. Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của MB 61
3.3.1. Đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ 61
3.3.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ 622
3.3.3. Phát triển nhân lực 64
3.3.4. Xây dựng và quảng bá thương hiệu 65
3.3.5. Nâng cao năng lực tài chính 65
3.3.6. Nâng cao năng lực hoạt động kinh doanh 66
3.3.7. Không ngừng nâng cấp và hoàn thiện hệ thống công nghệ kỹ thuật 67
3.3.8. Một số giài pháp khác 68
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN : Hiệp hội Đông Nam Á
ATM : Máy rút tiền tự động
CAR : Hệ số an toàn vốn tối thiểu
CN : Chi nhánh
EFA : Phân tích nhân tố khám phá
FA : Phân tích nhân tố
IMD : Viện Quốc tế về quản lý và phát triển
KPP : Kênh phân phối
MB : Ngân hàng TMCP Quân Đội
NH : Ngân hàng
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHTW : Ngân hàng trung ương
NIM : Tỷ lệ thu nhập lãi thuần
NPL : Nợ quá hạn
ROA : Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản
ROE : Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
PCA : Phân tích thành phần chính
PGD : Phòng giao dịch
TMCP : Thương mại cổ phần
UBND : Ủy ban nhân dân
WEF : Diễn đàn kinh tế thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
Bảng 2.1: Vốn chủ sở hữu, tổng tài sản của các NHTM năm Trang 31
Bảng 2.2: Các NHTM trong nước có sở hữu của đối tác nước ngoài 32
Bảng 2.3: Tăng trưởng huy động và tín dụng năm 2012 33
Bảng 2.4: Các hệ số tài chính của các NHTM năm 2012 33
Bảng 2.5: Số dư huy động vốn các NHTM lớn ở Việt Nam năm 2012 35
Bảng 2.6: Khả năng thanh toán 41
Bảng 2.7: Tổng phương sai trích từ EFA lần 2 51
Bảng 2.8: Ma trận xoay nhân tố EFA lần 1 52
Bảng 2.9: Ma trận xoay nhân tố EFA lần 2 53
Bảng 2.10: Kiểm định KMO và Bartlett 56
Bảng 2.11: Kết quả hồi quy theo phương pháp Enter 56
Bảng 2.12: Kết quả hồi quy theo phương pháp Stepwise 57
Hình 1.1: Tập dữ liệu trong không gian hai chiều 22
Hình 2.1: Quy mô hoạt động đầu tư 30
Hình 2.2: Lợi nhuận sau thuế các ngân hàng thương mại 34
Hình 2.3: Quy mô vốn qua các năm 38
Hình 2.4: Dư nợ cho vay 38
Hình 2.5: Tỷ lệ nợ xấu 39
Hình 2.6: Tỷ lệ nợ xấu năm 2012 của MB so với ngân hàng khác 39
Hình 2.7: Tổng tài sản 40
Hình 2.8: Tiền gửi của tổ chức kinh tế và cá nhân 41
Hình 2.9: Lợi nhuận trước thuế 42
Hình 2.10: Tỷ số tài chính 43
Hình 2.11: Số lượng điểm giao dịch 44
Hình 2.12: Trình độ nhân viên 46
Hình 2.13: Lợi nhuận bình quân 47
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, theo đó là sự ra đời của hàng loạt các tổ chức
kinh tế. Không chỉ dừng lại ở doanh nghiệp mà còn lan rộng sang lĩnh vực ngân
hàng. Do có quá nhiều chủ thể trong một nền kinh tế, nên để tồn tại và phát triển,
buộc các chủ thể phải cạnh tranh với nhau.
Vấn đề cạnh tranh càng rõ rệt hơn khi kinh tế mở cửa, hội nhập với thế giới.
Số lượng ngân hàng liên tục tăng nhanh qua các năm. Các ngân hàng có cơ hội tiếp
cận với những tiêu chuẩn cao hơn trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ. Và hơn
hết, các ngân hàng không những cạnh tranh nội địa, mà còn phải cạnh tranh với các
ngân hàng nước ngoài, hơn hẳn về chất lượng dịch vụ chuyên nghiệp, công nghệ
hiện đại và sản phẩm đa dạng.
Thời gian gần đây, những thay đổi trong chính sách của Ngân hàng nhà nước
và Chính phủ, bao gồm: cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại nhà nước (như:
VietcomBank – 2008; Vietinbank – 2012; BIDV – 2012) hay việc cơ cấu lại hệ
thống ngân hàng (như: Hợp nhất SCB, TinNghiaBank và FicomBank – 2011; sáp
nhập Habubank vào SHB – 2012) càng làm cho cạnh tranh gay gắt hơn, để tồn tại
các ngân hàng ít nhất phải duy trì được thị phần của mình.
Trước bối cảnh đó, việc xác định các nhân tố ảnh hưởng năng lực cạnh tranh,
tự đánh giá xem, mình đang ở đâu, đang có thế mạnh là gì và cần phải làm gì để
phát triển chính là điều cấp thiết của các Ngân hàng thương mại nói chung và
Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) nói riêng.
Tuy ra đời sau các ngân hàng TMCP lớn như ACB, Sacombank, Eximbank
nhưng MB đã dần khẳng định được sức mạnh của mình, đạt được nhiều thành
quả to lớn, như có sức mạnh thị trường lớn, năng lực tài chính ổn định, hoạt động
kinh doanh hiệu quả và có tiềm năng phát triển trong dài hạn. Với áp lực cạnh tranh
ngày càng lớn, sản phẩm các ngân hàng lại dường như tương đồng nhau, do đó để
giữ vững thị phần và mở rộng phát triển, MB phải tạo ra thế mạnh cho riêng mình.
2
Đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh Ngân hàng thương mại cổ phần
Quân đội” là cần thiết và có ý nghĩa, nhất là trong giai đoạn hiện nay. Qua đó, MB
có thể đánh giá sức mạnh tài chính, tiềm năng phát triển của ngân hàng thông qua
hệ số đo lường mức độ tác động của các nhóm nhân tố trong mô hình. Từ đó, ngân
hàng sẽ có những biện pháp phù hợp cho sự phát triển an toàn và bền vững của MB
trong tương lai.
2. Mục tiêu đề tài
Tổng quát hóa lý thuyết về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại.
Phân tích năng lực cạnh tranh của Ngân hàng MB so với các Ngân hàng
thương mại cổ phần khác. Từ đó, xây dựng các nhóm nhân tố tác động đến
năng lực cạnh cho MB.
Đo lường các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh thông qua mô hình
định lượng.
Đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho MB.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Năng lực cạnh tranh và mô hình đánh giá năng lực cạnh tranh.
Phạm vi nghiên cứu: Ngân hàng TMCP Quân Đội.
Thời gian nghiên cứu: 2008 - 2012
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thống kê, so sánh, mô tả để làm rõ mục tiêu nghiên cứu.
Phương pháp thu thập số liệu:
+ Dữ liệu sơ cấp: khảo sát thực tế 160 bản câu hỏi, đối tượng khảo sát: nhân
viên ngân hàng, khách hàng.
+ Dữ liệu thứ cấp: lấy từ báo cáo tài chính của ngân hàng MB (từ 2008 đến
2012).
Dùng phần mềm SPSS để phân tích nhân tố khám phá và thực hiện hồi quy,
dựa trên dữ liệu thu thập được.
3
5. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn hệ thống hóa các lý luận về năng lực cạnh
tranh của ngân hàng, đánh giá được thế mạnh của Ngân hàng TMCP Quân Đội
(MB), phân tích các nhóm nhân tố tác động đến năng lực cạnh tranh của MB, phân
tích hồi quy nhằm tìm ra nhóm nhân tố tác động nhiều nhất.
Qua đó, luận văn đưa ra một số nhóm giải pháp nhằm phát huy những điểm
mạnh, cũng như những nhóm nhân tố các tác động mạnh đến năng lực cạnh tranh
của MB. Đây cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu có liên
quan.
6. Nội dung nghiên cứu
Luận văn kết cấu gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại
Chương 2: Năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng
thương mại cổ phần Quân Đội.
4
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Có nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh. Đến nay vẫn chưa có
một cách hiểu thống nhất hay một lý thuyết chuẩn nào về năng lực cạnh tranh. Có
thể hiểu khái niệm này thông qua một số cách tiếp cận như sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, có thể hiểu năng lực cạnh tranh là khả năng duy trì và
mở rộng thị phần, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ và thu lợi nhuận của doanh
nghiệp. Cách tiếp cận này có hạn chế là chưa bao hàm phương thức cạnh tranh,
chưa phản ảnh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp một cách bao quát nhất.
Với cách tiếp cận thứ hai, năng lực cạnh tranh là khả năng chống chịu trước
sự tấn công của doanh nghiệp khác. Hạn chế cách tiếp cận này là mang tính định
tính, khó đo lường, định lượng.
Một cách tiếp cận khác về năng lực cạnh tranh là khả năng tạo dựng, duy trì,
sử dụng và sáng tạo cái mới các lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
Ý kiến khác lại cho rằng, năng lực cạnh tranh là năng lực kinh doanh.
Và cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa chính thức nào, tuy nhiên, dù
quan niệm nào đi nữa, cũng cần có các yếu tố sau khi đề cập đến năng lực cạnh
tranh:
- Phù hợp với điều kiện, trình độ phát triển từng thời kỳ, ví dụ:
+ Trong nền kinh tế thị trường: cạnh tranh với nhau trong bán hàng, năng
lực cạnh tranh tức là khả năng bán được nhiều hàng hóa hơn đối thủ.
+ Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo: cạnh tranh nhằm tối đa hóa số
lượng hàng bán, năng lực cạnh tranh là mở rộng thị phần.
5
+ Trong nền kinh tế tri thức ngày nay: cạnh tranh tức là mở rộng không
gian sinh tồn – không gian, thị trường, tư bản – chính vì vậy, khái niệm năng lực
cạnh tranh sẽ khác thời kỳ trước.
- Năng lực cạnh tranh phải thể hiện được khả năng tranh giành, ganh đua
giữa các doanh nghiệp về năng lực sử dụng các yếu tố sản xuất, khả năng tiêu thụ
hàng hóa, khả năng mở rộng thị phần và sáng tạo các sản phẩm mới.
- Phải có phương thức cạnh tranh phù hợp: phối hợp giữa phương thức
truyền thống và phương thức hiện đại.
Tóm lại, có thể hiểu năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy
trì, nâng cao lợi thế cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ,
thu hút và sử dụng có hiệu quả các yếu tố sản xuất, nhằm mục đích cuối cùng là lợi
ích kinh tế cao nhất, đảm bảo kinh tế phát triển bền vững.
1.1.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Trong lịch sử, liên quan đến lý thuyết cạnh tranh và năng lực cạnh tranh có
hai trường phái tiêu biểu: cổ điển và hiện đại. Các đại diện tiêu biểu của trường phái
cổ điển: A.Smith, Darwin, John Stuart Mill… đã có những đóng góp nhất định
trong lý thuyết cạnh tranh sau này. Trường phái hiện đại với hệ thống lý thuyết đồ
sộ với ba quan điểm tiếp cận:
- Tiếp cận theo tổ chức ngành, đại diện là: trường Chicago và Harvard
- Tiếp cận tâm lý, đại diện là: Meuger, Mises, Chumpeter
- Tiếp cận cạnh tranh hoàn hảo
Ngày nay, có nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh trên các cấp
độ: quốc gia, doanh nghiệp, sản phẩm. Tuy nhiên, vẫn chưa có một lý thuyết nào
hoàn chỉnh và thuyết phục, vì thế vẫn chưa có lý thuyết chuẩn về năng lực cạnh
tranh.
Hai phương pháp đánh giá do một số giáo sư Đại học Harvard (Michael
Porter, Jefferey Shach) và một số chuyên gia WEF (Cornelius, Mache Levison)
tham gia xây dựng, và được đa số các quốc gia, các thiết chế kinh tế sử dụng, đó là:
6
- Phương pháp do Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) thiết lập trong Báo cáo
cạnh tranh toàn cầu.
- Phương pháp thứ hai do Viện Quốc tế về quản lý và phát triển (IMD) đề
xuất trong Niên giám cạnh tranh thế giới.
Trong điều kiện hội nhập với thế giới, tham gia vào thị trường quốc tế, Việt
Nam từng bước mở cửa dịch vụ ngân hàng, hướng tới xây dựng hệ thống ngân hàng
cạnh tranh bình đẳng trên mặt bằng quốc tế theo khuôn khổ pháp lý phù hợp và
thống nhất.
Cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng càng gay gắt và đầy thách thức đối với
các NHTM Việt Nam, đặc biệt khi chính phủ dần tháo dỡ rào cản đối với ngân hàng
nước ngoài và tiến đến xóa bỏ bảo hộ của nhà nước với các NHTM trong nước.
Chính vì vậy, tự bản thân mỗi NHTM Việt Nam phải tự đánh giá một cách chính
xác năng lực và vị thế cạnh tranh của ngân hàng mình. Cạnh tranh của các NHTM
là khả năng tạo ra và sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh, là nỗ lực hoạt động đồng
bộ của ngân hàng trong một lĩnh vực khi đưa đến cho khách hàng những sản phẩm
chất lượng cao, chi phí thấp để định vị vị trí của ngân hàng cao hơn so với các ngân
hàng khác trong cùng lĩnh vực sản phẩm, dịch vụ cung cấp.
Năng lực cạnh tranh của NHTM là khả năng ngân hàng tạo ra, duy trì và phát
triển lợi thế cạnh tranh, nhằm duy trì và mở rộng thị phần, có khả năng đạt được
mức lợi nhuận cao hơn mức trung bình ngành và tăng liên tục, đảm bảo an toàn và
lành mạnh trong hoạt động, có thể chống đỡ và vượt qua những biến động bất lợi
của môi trường kinh doanh. Lợi thế cạnh tranh mà NHTM đang có không phải bất
biến, mà liên tục thay đổi do các các đối thủ không ngừng cải tiến, đổi mới để giành
lấy lợi thế. Vì thế, các NHTM phải liên tục duy trì và phát triển năng lực cạnh tranh.
Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM là nâng cao sức mạnh và lợi
thế của ngân hàng so với đối thủ trong việc thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách
hàng để thu lợi nhuận ngày càng cao, bằng cách tạo ra các dịch vụ ngân hàng đa
năng với giá cả cạnh tranh để thu hút khách hàng, chiếm lĩnh thị trường, đảm bảo
kinh doanh an toàn và đạt được tỷ suất lợi nhuận cao. Đây là việc làm thường xuyên
7
của NHTM nhằm giành thế chủ động trong cạnh tranh, để có thể tồn tại và phát
triển trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay.
1.2. Đặc thù cạnh tranh ngành ngân hàng
Tuy môi trường, hoạt động cạnh tranh gay gắt, nhưng ngành ngân hàng có
những đặc trưng riêng, xuất phát từ đặc thù ngành và ảnh hưởng của hoạt động ngân
hàng đến kinh tế, những đặc trưng có thể kể đến bao gồm:
1.2.1. Ngành ngân hàng có cạnh tranh nhưng cần có hợp tác vì ngành tiềm ẩn
nhiều rủi ro
Khi các sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng có tính tương đồng, tính xã hội
hóa và tính nhạy cảm cao, chỉ cần có một khác biệt nhỏ, khách hàng cũng có thể
thay đổi trong lựa chọn ngân hàng để giao dịch. Chính sự dễ thay đổi của khách
hàng làm cho cạnh tranh giữa các ngân hàng càng quyết liệt hơn.
Hơn nữa, dịch vụ ngân hàng là một thị trường khá đặc biệt và nhạy cảm. Các
ngân hàng phải liên kết với các đối thủ trong hoạt động, phải bình đẳng và minh
bạch, một mối liên kết tự nhiên, có tính quy luật và có thể dự báo trước. Trong điều
kiện có hạn về vốn, công nghệ, mạng lưới, các ngân hàng phải liên kết với nhau để
có thể thỏa mãn cao nhất nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Sự hợp tác này sẽ
ngày càng mở rộng không chỉ quy mô mà còn cả chất lượng.
Thứ hai, hoạt động kinh doanh của NHTM có liên quan đến các tổ chức kinh
tế, chính trị, xã hội, đến từng cá nhân thông qua hoạt động huy động tiền gửi tiết
kiệm, cho vay, các dịch vụ tài chính khác, trong hoạt động kinh doanh, các NHTM
cũng mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các đối tượng khách hàng chung. Vì
vậy, cạnh tranh của các NHTM mang tính nhạy cảm, khá nguy hiểm vì hoạt động
của mỗi ngân hàng ảnh hưởng đến hệ thống mang tính dây chuyền: người gửi tiền,
người vay tiền, các ngân hàng, tổ chức tín dụng khác. Khi một ngân hàng gặp khó
khăn, có nguy cơ đỗ vỡ, tất yếu sẽ tác động đến các NHTM khác, kể cả các tổ chức
phi ngân hàng cũng bị ảnh hưởng.
8
Do đó, trong kinh doanh, các NHTM vừa phải cạnh tranh để giữ và tăng thị
phần, vừa phải hợp tác, hướng tới một môi trường lành mạnh, tạo an toàn hoạt động
cho toàn hệ thống.
1.2.2. Hoạt động ngành ngân hàng phụ thuộc vào môi trường bên ngoài
Lĩnh vực kinh doanh của ngân hàng là tiền tệ, vốn rất nhạy cảm và chịu tác
động của nhiều nhân tố: kinh tế, chính trị, tâm lý, xã hội… và mỗi nhân tố này khi
có thay đổi, dù rất nhỏ, cũng sẽ tác động nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường
kinh doanh của các NHTM. Chỉ cần một tin đồn dù không có thật cũng gây nên một
tác động lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của các ngân hàng. Hay, khi có một
NHTM hoạt động kém hiệu quả, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể ảnh hưởng
xấu đến các tổ chức kinh tế… Do đó, trong hoạt động kinh doanh, NHTM cần cạnh
tranh lành mạnh để phát triển khách hàng, mở rộng thị phần, tuân thủ pháp luật,
không cạnh tranh thôn tính đối thủ bằng mọi giá. Vì, một khi một đối thủ suy yếu
dẫn đến sụp đổ thì có thể hậu quả đem lại là rất lớn, thậm chí làm đỗ vỡ luôn chính
NHTM này, dựa trên tác động dây chuyền. Hai là, hoạt động của NHTM do có liên
quan đến mọi chủ thể, các mặt hoạt động kinh tế xã hội, nên để tránh nguy cơ đổ vỡ
hệ thống, NHTW cần giám sát chặt chẽ thị trường này và sớm đưa ra các cảnh báo
để phòng ngừa rủi ro.
Trong thực tiễn đã từng có trường hợp NHTW không quan tâm đến những
diễn biến bất lợi của thị trường, không đưa ra những cảnh báo và biện pháp kịp thời,
dẫn đến hậu quả là đổ vỡ thị trường tài chính tiền tệ, kéo theo sụp đổ toàn bộ nền
kinh tế quốc dân. Trong thị trường này, nhà nước khuyến khích cạnh tranh, và ưu
tiên mục tiêu ổn định nền kinh tế và bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Bằng việc thực
thi các chính sách đặc thù như chính sách tiền tệ hay chính sách kiểm soát đặc biệt,
Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình cạnh tranh. Sự can thiệp này có thể thu hẹp
giới hạn cạnh tranh giữa các NHTM trên thị trường, ảnh hưởng đến sự vận hành
bình thường của quy luật cạnh tranh.
9
1.2.3. Hoạt động ngành ngân hàng phụ thuộc vào tài chính quốc tế
Hoạt động của NHTM liên quan đến lưu chuyển tiền tệ, không chỉ giới hạn
phạm vi trong một nước, mà có liên quan đến nhiều nước nhằm hỗ trợ kinh tế đối
ngoại. Vì thế, trong hoạt động kinh doanh, hệ thống NHTM chịu chi phối bởi các
yếu tố trong nước và quốc tế: hành lang pháp luật, tập quán kinh doanh, thông lệ
quốc tế … Hội nhập kinh tế thế giới đồng nghĩa với việc các chủ thể trong nền kinh
tế nói chung và các NHTM nói riêng phải chủ động mở rộng quan hệ hợp tác và
phạm vi hoạt động. Do đó, hoạt động kinh doanh của NHTM chịu ảnh hưởng từ đối
tác, gắn chặt với biến động tỷ giá, lãi suất của thị trường tài chính quốc tế. Quá trình
hội nhập đưa các hoạt động kinh tế theo một quỹ đạo chung trên cơ sở các cam kết,
hiệp định thương mại. Các NHTM muốn hoạt động lành mạnh và phát triển bền
vững thì phải ký kết và tuân thủ các nguyên tắc này. Từ đó, các NHTM cần có các
chính sách kinh doanh và cạnh tranh phù hợp, thích ứng với diễn biến của thị
trường tài chính quốc tế.
1.2.4. Các rào cản trong việc gia nhập hoặc rời khỏi ngành
Trong lĩnh vực ngân hàng, việc gia nhập hay rời khỏi ngành là rất khó khăn
và hạn chế, đòi hỏi tuân thủ một quy trình kiểm soát chặt chẽ với những điều kiện
khó khăn từ phía nhà nước, góp phần làm cho thị trường an toàn, lành mạnh hơn,
tránh những tổn thất cho nền kinh tế do hoạt động yếu kém, thiếu minh bạch.
1.2.5. Công nghệ có vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng
Đây cũng được xem là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh giữa các NHTM.
Cạnh tranh phải dựa trên nền tảng công nghệ, kỹ thuật áp dụng có thể đáp ứng yêu
cầu tối thiểu của hoạt động kinh doanh. Do đó, trong cuộc cạnh tranh này yếu tố
công nghệ chi phối mạnh mẽ cơ sở hạ tầng tài chính, quyết định hoạt động kinh
doanh của các NHTM.
Công nghệ ngày càng phát triển làm cho phương thức hoạt động của NH
thay đổi, mang đến nhiều cơ hội hơn cho các ngân hàng. Hơn nữa, cạnh tranh trong
lĩnh vực ngân hàng là cạnh tranh bậc cao, cho nên các tiêu chuẩn cũng khắc khe hơn
các lĩnh vực cạnh tranh khác. Vì thế, các NHTM phải nhìn thấy được tầm quan
10
trọng của công nghệ để có các chiến lược phát triển rõ ràng, cụ thể: một, công nghệ
là nhân tố giúp các ngân hàng tạo được lợi thế cạnh tranh riêng; hai, qua việc ứng
dụng công nghệ kỹ thuật hiện đại, cập nhật kịp thời những đổi mới của thời đại là
điều kiện giúp cho ngân hàng có thể vượt trước các đối thủ cạnh tranh, tránh được
nguy cơ tụt hậu.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
Liên quan đến các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh có thể chia ra
thành hai nhóm, cụ thể như sau:
1.3.1. Nhóm yếu tố khách quan
Trong nhóm này, chúng ta sẽ xem xét đến bốn yếu tố ảnh hưởng đến năng
lực cạnh tranh của một NHTM, các yếu tố đó là:
- Các NHTM mới tham gia thị trường: nhóm NHTM mới này có những lợi
thế nhất định như: (1) mở ra những tiềm năng mới, (2) có động cơ và khát vọng
giành thị phần, (3) có vốn kinh nghiệm từ việc tham khảo các NHTM hiện hữu, (4)
có dữ liệu thống kê tương đối đầy đủ và có khả năng dự báo thị trường… chưa cần
biết NHTM mới mạnh yếu thế nào thì các NHTM hiện hữu cũng có thể thấy một
mối đe dọa về thì phần, vì khi có một đối thủ tham gia vào thị trường thì cũng đồng
nghĩa với việc thị phần các NHTM hiện tại sẽ bị giảm xuống, vì phải chia sẻ với
NH mới. Ngoài ra, NHTM cũ cũng có một vấn đề khác cần quan tâm, đó chính là
chưa có các thông tin và kế sách kinh doanh của NHTM mới, do đó, sẽ rất khó khăn
trong việc ứng phó…
- Các đối thủ NHTM hiện tại: đây là mối quan tâm thường xuyên của các
NHTM, có tác động mạnh đến chiến lược kinh doanh. Các NHTM phải luôn quan
tâm đến đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng dịch vụ… để có thể tồn tại và mở
rộng thị phần và chiến thắng đối thủ cạnh tranh.
- Khách hàng: cũng là một sức ép cho các NHTM. Đặc điểm kinh doanh
trong lĩnh vực ngân hàng chính là khách hàng, từ cá nhân đến tổ chức sản xuất kinh
doanh, tiêu dùng, thậm chí là các tổ chức tín dụng khác. Họ vừa là người mua sản
phẩm dịch vụ ngân hàng, cũng đồng thời là người bán các sản phẩm dịch vụ cho
11
ngân hàng. Ở vai trò người mua, họ muốn sử dụng các sản phẩm của ngân hàng ở
mức chi phí thấp nhất, trong khi đó, ở vai trò người bán sản phẩm cho ngân hàng,
thông qua các hình thức gửi tiết kiệm, mở tài khoản giao dịch, họ lại muốn có được
mức lãi suất cao hơn. Như vậy, NHTM phải đối mặt với mâu thuẫn giữa hai nhóm
khách hàng này, làm thế nào để có thể tạo lợi nhuận hiệu quả, vừa giữ chân khách
hàng, vừa có thể thu hút được nguồn vốn giá rẻ nhất có thể. Chính mâu thuẫn đó đã
đặt ra cho ngân hàng nhiều khó khăn trong định hướng và xây dựng phương thức
hoạt động trong tương lai.
- Sản phẩm dịch vụ mới: sự ra đời ồ ạt của các tổ chức tài chính trung gian
đang đe dọa lợi thế của các NHTM khi cung cấp các dịch vụ tài chính mới bên cạnh
các dịch vụ truyền thống (vốn dĩ do NHTM đảm nhận). Sản phẩm mà các trung
gian tài chính cung cấp mang tính khác biệt, tạo sự đa dạng, mang đến nhiều cơ hội
lựa chọn cho người mua và thị trường NH cũng được mở rộng hơn.
1.3.2. Nhóm yếu tố chủ quan
Bên cạnh nhóm yếu tố khách quan ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của
NHTM, thực tế còn có các yếu tố nội tại (chủ quan) của hệ thống NHTM tác động
lớn đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng này. Đó chính là: (1) năng lực quản
trị và điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng, (2) Quy mô về vốn và tình hình tài
chính của ngân hàng (3) Kỹ thuật công nghệ trong cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân
hàng, (4) chất lượng đội ngũ nhân viên, (5) cấu trúc tổ chức họat động, (6) Danh
tiếng, uy tín của ngân hàng. Nhóm yếu tố chủ quan tạo nên tính cạnh tranh cao
trong kinh doanh ngân hàng, góp phần tạo nên sức mạnh nội tại cho ngân hàng đó.
Nếu một NHTM biết khai thác và phát huy các yếu tố chủ quan, nắm bắt thông tin
về các đối thủ mới gia nhập ngành, thận trọng trước các đối thủ hiện tại, đáp ứng
nhu cầu ngày càng cao của khách hàng thì vấn đề cạnh tranh và đứng vững trong
lĩnh vực kinh doanh này không phải là điều không thể. Các NHTM nhờ cạnh tranh
sẽ trở nên mạnh hơn, và có khả năng ứng phó vững vàng trước những cú sốc kinh
tế.
12
1.4. Các tiêu thức đánh giá năng lực cạnh tranh
1.4.1. Năng lực tài chính
Năng lực tài chính của NHTM được hiểu là khả năng của ngân hàng trong
việc đáp ứng, xử lý các vấn đề phát sinh trong hoạt động kinh doanh, là khả năng, là
sức mạnh nội lực giúp ngân hàng có thể phản ứng linh hoạt trước mỗi sự thay đổi
tích cực hay tiêu cực của thị trường, như: khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh kiếm
lời…
Nói cách khác năng lực tài chính là sức đề kháng của ngân hàng trước những
rủi ro, nó quyết định khả năng sinh lời, khả năng mở rộng quy mô, khả năng kiểm
soát rủi ro, khả năng xử lý nợ xấu và làm minh bạch hóa tài chính.
Năng lực tài chính là thước đo sức mạnh của NHTM tại một thời điểm cụ
thể, phản ánh tiềm năng và triển vọng trong tương lai của ngân hàng, bao gồm các
tiêu chí sau:
1.4.1.1. Quy mô vốn tự có
Theo luật các tổ chức tín dụng, vốn tự có bao gồm phần giá trị thực có của
vốn điều lệ, các quỹ dự trữ và một số tài sản nợ khác. Quy mô vốn tự có có thể thay
đổi trong quá trình hoạt động của NHTM. Vốn tự có bao gồm:
- Vốn cấp 1: vốn điều lệ thực có, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự
phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, lợi nhuận không chia.
- Vốn cấp 2: phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định và các loại chứng
khoán đầu tư được định giá lại, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ
chức tín dụng phát hành có thời hạn dài.
Hoạt động kinh doanh của NHTM có rất nhiều rủi ro, bị tác động bởi môi
trường kinh tế, đối tượng khách hàng đa dạng… những rủi ro này khi xảy ra sẽ gây
ra thiệt hại lớn cho ngân hàng, đôi khi có thể đưa ngân hàng đến bờ vực phá sản.
Khi đó, vốn tự có sẽ giúp ngân hàng bù đắp được những thiệt hại phát sinh, đảm
bảo cho ngân hàng tránh được nguy cơ trên. Đây chính là nguồn vốn quan trọng để
đánh giá năng lực tài chính của NHTM, cung cấp tài chính cho hoạt động kinh
13
doanh, quyết định sức mạnh và khả năng cạnh tranh của NHTM trong mọi hoạt
động.
- Hoạt động huy động vốn: vốn tự có của NHTM có chức năng bảo vệ cho
khách hàng không bị mất vốn, vì thế vốn tự có lớn sẽ tạo cho khách hàng niềm tin,
thu hút khách hàng gửi tiền.
- Hoạt động cho vay và đầu tư: mức độ cho vay và đầu tư bị giới hạn bởi
các tỷ lệ giới hạn tín dụng liên quan vốn tự có, do đó để mở rộng cho vay và đầu tư
thì yêu cầu NHTM phải có vốn tự có lớn, bên cạnh đó, nguồn vốn tự có lớn là cơ sở
để khách hàng tin tưởng vào năng lực cho vay và giải ngân của ngân hàng, họ có
thể mong đợi mức lãi suất vay hợp lý nhờ vào lợi thế theo quy mô.
- Hoạt động cung cấp dịch vụ thanh toán và dịch vụ ngân hàng khác: ngân
hàng dùng vốn tự có đầu tư vào công nghệ, máy móc, trang thiết bị để phát triển
dịch vụ, nâng cao năng suất, hiệu quả, an toàn cho các dịch vụ ngân hàng, tăng tính
cạnh tranh.
Vốn tự có được dùng để xác định việc mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động
của NHTM, quy mô huy động vốn, tỷ lệ giới hạn tín dụng đối với khách hàng, tỷ lệ
an hoàn hoạt động… làm căn cứ quản lý và kiểm soát hoạt động của NHTM.
Ngày nay, việc nâng cao tính cạnh tranh của vốn tự có là yêu cầu khách quan
đối với mỗi NHTM nhằm đáp ứng chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng và
mở rộng ra thị trường tài chính quốc tế.
1.4.1.2. Chất lượng tài sản nợ
Tài sản nợ của ngân hàng hay còn gọi là tiêu sản, bao gồm: các tài khoản
giao dịch, phi giao dịch, vốn trên thị trường tiền tệ, hợp đồng mua lại, chứng khoán
hóa các khoản cho vay và vốn chiếm dụng khác. Chủ yếu là vốn huy động: lãi suất,
chất lượng dịch vụ ngân hàng
1.4.1.3. Chất lượng tài sản có
Tài sản có của ngân hàng thể hiện ở bên trái bảng tổng kết tài sản, tập trung
phần lớn ở mục cho vay và đầu tư. Đây là tài sản mang đến nguồn thu nhập chủ yếu
cho NHTM, và cũng là tài sản ẩn chứa nhiều rủi ro nhất. Để đánh giá chất lượng tài
14
sản có, chúng ta sẽ tập trung chủ yếu vào chất lượng hoạt động tín dụng thông qua
các tiêu chí sau:
- Nợ quá hạn (non performing loan – NPL) là khoản nợ mà một phần hoặc
toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn càng cao càng chứng tỏ
chất lượng tín dụng của ngân hàng kém.
Tỷ lệ NPL = Dư nợ quá hạn/Dư nợ cho vay (1.1)
Một cách tiếp cận khác, nợ quá hạn là những khoản tín dụng không hoàn trả
đúng hạn, không được phép và không đủ điều kiện để gia hạn nợ. Trong hệ thống
NHTM VN, nợ quá hạn được phân loại theo thời gian và chia thành các nhóm:
+ Nợ quá hạn dưới 90 ngày: Nợ cần chú ý
+ Nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày: Nợ dưới tiêu chuẩn
+ Nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày: Nợ nghi ngờ
+ Nợ quá hạn từ 361 ngày trở lên: Nợ có khả năng mất vốn
- Nợ xấu (Bad Debt): là những khoản nợ quá hạn từ 90 ngày mà không đòi
được và không được tái cơ cấu.
Các đặc trưng của nợ xấu:
+ Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ ngân hàng khi các cam kết
này đã đến hạn.
+ Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến
khả năng ngân hàng có thể không thu hồi cả vốn lẫn lãi.
+ Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) được đánh giá là giá trị phát
sinh không đủ trang trãi nợ gốc và lãi.
+ Về thời gian: những khoản nợ đã quá hạn ít nhất 90 ngày.
Hai chỉ tiêu trên phản ảnh chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng
thương mại, qua đó, có thể đánh giá tính hợp lý của chính sách tín dụng, tính hiệu
quả của quy trình cấp và kiểm soát tín dụng ở NHTM. Ngoài ra, có thể xét đến chỉ
tiêu về mức độ tập trung tín dụng. Với chỉ tiêu này, chúng ta sẽ đánh giá được mức
độ tập trung đối với một ngành kinh tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi có biến
15
động lớn về kinh tế, xã hội xảy ra đối với ngành có mức độ tập trung cao, và khi đó,
chất lượng tài sản có của ngân hàng sẽ giảm.
1.4.2. Năng lực kinh doanh
1.4.2.1. Qui mô và khả năng huy động vốn
Quy mô ngân hàng càng lớn, càng tạo được niềm tin cho khách hàng. Từ đó,
có thể nâng cao khả năng huy động vốn. Đây được xem là một yếu tố để đánh giá
năng lực cạnh tranh của NHTM.
1.4.2.2. Khả năng thanh khoản
Khả năng thanh khoản là khả năng tiếp cận các khoản tài sản hoặc nguồn vốn
có thể dùng để chi trả với chi phí hợp lý ngay khi nhu cầu vốn phát sinh.
Tính thanh khoản rất quan trọng và có ý nghĩa đối với một tổ chức, đặc biệt
là các NHTM, vì khi rủi ro thanh khoản xảy ra, rất có thể ngân hàng sẽ phải đối mặt
với rủi ro phá sản và gây ra những tác động nghiêm trọng đến toàn hệ thống ngân
hàng. Chính vì vậy mỗi NHTM sẽ có những biện pháp phù hợp để quản lý rủi ro
thanh khoản, thông thường sẽ dựa trên hai tỷ lệ sau:
- Tỷ lệ dự trữ sơ cấp trong tổng tài sản càng cao thì khả năng thanh khoản
của ngân hàng càng tốt. Dự trữ sơ cấp NHTM gồm: tiền mặt, tiền gửi tại NHNN, tại
các ngân hàng khác.
- Tỷ lệ cho vay/tiền gửi của khách hàng: hệ số này cần ổn định, và nếu không
vượt quá 1 là dấu hiệu khả năng thanh toán của ngân hàng được duy trì, cụ thể tùy
thuộc vào năng lực quản lý, quản trị rủi ro, điều hành hoạt động và khả năng huy
động của mỗi ngân hàng.
Các NHTM cần duy trì tỷ lệ thanh khoản phù hợp, sao cho cân đối giữa cung
và cầu thanh khoản một cách hợp lý, vì thanh khoản liên quan đến khả năng sinh
lời. Do đó, mỗi ngân hàng cần có chiến lược quản trị, quản lý thanh khoản phù hợp
cho từng thời kỳ.
1.4.2.3. Khả năng sinh lời
Các NHTM thường sử dụng chỉ tiêu tỷ suất sinh lợi trên tổng tài sản (ROA)
để đo lường mối quan hệ giữa khả năng sinh lời của tổng tài sản và nguồn vốn. Một
16
phần nguồn vốn được dùng để tạo nên tài sản không sinh lời, và một phần tài sản
sinh lời góp phần tạo nên thu nhập cho ngân hàng.
Chỉ tiêu ROA được tính như sau: ROA = Lợi nhuận ròng/Tổng tài sản
ROA phản ánh tính hiệu quả của việc sử dụng tài sản của NH, cho biết một
đơn vị tài sản tham gia vào hoạt động kinh doanh sẽ tạo nên bao nhiêu đơn vị lợi
nhuận ròng. Do đó, nếu ROA lớn, phản ánh NH hoạt động kinh doanh tốt, cơ cấu
tài sản hợp lý. Tuy nhiên, nếu ROA quá lớn, cũng là một mối lo ngại. Vì rủi ro luôn
tỷ lệ thuận với lợi nhuận. Bên cạnh chỉ tiêu ROA, một số chỉ tiêu khác cũng thường
được sử dụng, đó là:
- Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE): phản ánh một đồng
vốn chủ sở hữu sẽ tạo nên bao nhiêu đồng lợi nhuận, đây là chỉ tiêu mà các cổ đông
quan tâm nhiều nhất. Vì thế, các NH luôn cố gắng tăng ROE, nhằm hấp dẫn cổ
đông, thông qua các hình thức, biện pháp như: kiểm soát chi tiêu đầu tư, nâng cao
tính hiệu quả của quản lý rủi ro. Tuy nhiên, tăng ROE cũng phải trong giới hạn chấp
nhận được, nếu như ROE tăng quá cao, cao hơn cả ROA, điều này sẽ cho thấy rằng
nguồn vốn tự có của ngân hàng chiếm tỷ trọng quá nhỏ trong tổng nguồn vốn… làm
ảnh hưởng đến mức độ lành mạnh trong cạnh tranh ngân hàng.
- Chỉ tiêu thứ hai, đó là tỷ lệ thu nhập lãi thuần (NIM): phản ánh trung bình
một đơn vị tài sản có sinh lời sẽ tạo ra bao nhiêu đơn vị lãi thuần.
1.4.2.4. Khả năng quản trị rủi ro
Theo Basel I, một tổ chức tài chính được gọi là đủ vốn khi hệ số CAR
(Capital Adequacy Ratio) đạt mức tối thiểu 8%.
CAR = Vốn tự có/Tổng tài sản có rủi ro quy đổi (1.2)
Tỷ lệ vốn an toàn của ngân hàng được quy định bởi tiêu chí sau:
Vốn cấp 1 ≥ Vốn cấp 2 + Vốn cấp 3 (1.3)
Với: Vốn cấp 1 bao gồm: vốn điều lệ; các quỹ dự phòng được công bố (dự phòng
cho các khoản cho vay); lợi nhuận giữ lại; lợi ích thiểu số tại công ty con có hợp
nhất báo cáo tài chính; lợi thế thương mại.