Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Các nhân tố tác động đến dòng vốn FDI tại các nước đang phát triển khu vực Châu Á và Châu Phi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 67 trang )

1




CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN DÒNG VỐN FDI
TẠI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN KHU VỰC
CHÂU Á VÀ CHÂU PHI
Tóm tắt
Mục tiêu của bài nghiên cứu nhằm tìm ra các nhân tố ảnh hưởng đến
việc thu hút vốn FDI tại các nước đang phát triển khu vực châu Á và châu Phi.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: qui mô thị trường, tốc độ tăng trưởng kinh tế, độ
mở thương mại, tính kinh tế nhờ liên kết có tương quan dương với FDI. Trong
khi đó, độ biến động tỷ giá, lạm phát và nợ nước ngoài có tương quan âm với
FDI. Nhân tố mới KOPEN khi đưa vào mô hình có ý nghĩa thống kê, hệ số
KOPEN càng cao hàm ý rằng quốc gia đó càng thu hút nhiều vốn FDI hơn.
Trong nhóm biến độc lập: biến chi phí lao động có tương quan âm với FDI do
một phần ngoài giá nhân công rẻ, nhà đầu tư nước ngoài còn hướng đến lực
lượng lao động chất lượng cao. Ngoài ra, nguồn tài nguyên dồi dào, hệ thống
pháp luật hiệu quả cũng là điểm thu hút nhà đầu tư. Riêng thị trường tài chính
càng phát triển, lượng vốn nội địa tài trợ cho nền kinh tế càng dồi dào khi đó
vốn FDI sẽ không được khuyến khích nhiều ở quốc gia đó.




2





1. Giới thiệu
1.1 Xu hướng chung của dòng vốn FDI
Từ khi xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào khoảng thế kỷ thứ 19 đến
nay, hoạt động đầu tư nước ngoài có những biến đổi sâu sắc. Xu hướng chung
là ngày càng tăng lên về số lượng, quy mô, hình thức, thị trường, lĩnh vực đầu
tư và thể hiện vị trí, vai trò ngày càng to lớn trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Tổng số vốn lưu chuyển quốc tế trong những năm gần đây tăng mạnh, khoảng
20-30% một năm, nhưng chủ yếu tập trung vào các nước công nghiệp phát
triển. Điều đó phản ánh xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế phát triển mạnh
mẽ, các nước ngày càng phụ thuộclẫn nhau và tham gia tích cực hơn vào các
quá trình liên kết và hợp tác quốc tế.
Một đặc trưng của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hiện
nay là có sự tham gia ngày càng nhiều của các công ty xuyên quốc gia. Các
công ty xuyên quốc gia thường dựa vào chiến lược phát triển cạnh tranh độc
quyền và lợi thế của họ ở các nước đang phát triển để tiến hành hoạt động
FDI. Các công ty xuyên quốc gia kiểm soát 90% vốn FDI trên thế giới. Ngoài
ra, toàn cầu hóa cũng là một nguyên nhân thúc đẩy FDI của các công ty xuyên
quốc gia, nó làm tăng thêm khả năng tương tác quốc tế và tính cạnh tranh của
các chủ đầu tư và nó cũng là đối tượng cạnh tranh chủ yếu của các nước đang
phát triển, sự ảnh hưởng của các công ty xuyên quốc gia được thể hiện ở sự
gia tăng về lượng vốn FDI trên thế giới. Điều này đặt ra cho các nước đang
phát triển một vấn đề khó là cần chú trọng vào thu hút FDI của các công ty
xuyên quốc gia.
3




Theo Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD), World Investment Report, 2012 nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước

ngoài tiếp tục tăng trưởng 16% trong năm 2011 bất chấp ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu giai đoạn 2008 – 2009 và tình hình
khủng hoảng nợ công. Từ đầu những năm 1990, sự bùng nổ dòng vốn FDI
chảy vào các nước đang phát triển cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài đang
hướng đến một địa điểm đầu tư hứa hẹn nhiều tiềm năng đem lại lợi nhuận
cao. Năm 2011, lượng vốn FDI vào các nước phát triển tăng vọt và đạt 748 tỷ
USD, tăng 21% so với năm 2010 trong khi đó tại các nước đang phát triển đạt
684 tỷ USD, chiếm gần một nửa lượng vốn FDI toàn cầu và các nền kinh tế
chuyển đổi chiếm 6%. Sự gia tăng này tập trung chủ yếu vào các nước Châu Á
(10%); Châu Mỹ Latin và vùng Caribe (16%) và các nền kinh tế chuyển đổi
(25%). Ngược lại, khu vực Châu Phi ghi nhận sự sụt giảm dòng vốn FDI trong
3 năm liên tiếp: 2009, 2010 và 2011.











4




BẢNG 1.1: LƯỢNG VỐN FDI TOÀN CẦU VÀ CÁC
KHU VỰC

(Đơn vị tính: tỷ USD và %)

Nguồn: UNCTAD FDI-TNC-GVC Information System, FDI database
(www.unctad.org/fdistatistics)
5




BIỂU ĐỒ 1.1: LƯỢNG VỐN FDI TOÀN CẦU VÀ CÁC
NHÓM NỀN KINH TẾ
(Đơn vị tính: triệu USD)

Nguồn: UNCTAD FDI-TNC-GVC Information System, FDI database
(www.unctad.org/fdistatistics)

-
500,000
1,000,000
1,500,000
2,000,000
2,500,000
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002

2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Toàn thế giới
Nước đang phát
triển
Nền kinh tế
chuyển đổi
Nước phát triển
6




BIỂU ĐỒ 1.2: LƯỢNG VỐN FDI TẠI CÁC NƯỚC
ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC KHU VỰC
(Đơn vị tính: triệu USD)

Nguồn: UNCTAD FDI-TNC-GVC Information System, FDI database
(www.unctad.org/fdistatistics)


-

100,000
200,000
300,000
400,000
500,000
600,000
700,000
800,000
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Nước đang
phát triển
Khu vực châu
Phi

Khu vực châu
Mỹ
Khu vực châu Á
Khu vực châu
Đại Dương
7




Năm 2012, lượng vốn FDI toàn cầu bất ngờ sụt giảm 18% tương đương
1.35 ngàn tỷ USD so với năm trước đó. Nguyên nhân: sự phục hồi của các nền
kinh tế sau khủng hoảng kéo dài hơn dự kiến và chính sách vĩ mô bất ổn. Năm
2012 cũng là năm đầu tiên ghi nhận các nước đang phát triển tiếp nhận nhiều
vốn FDI hơn các nước phát triển. Trong đó, tại khu vực Châu Á tuy sụt giảm
khoảng 6.7% nhưng tính chung toàn khu vực thì châu Á chiếm 58% lượng
vốn FDI vào các nước đang phát triển trong khi đó khu vực châu Mỹ giảm nhẹ
2.2%. Riêng Châu Phi ngược lại với xu hướng chung của toàn thế giới. Năm
2012, lượng vốn FDI tại Châu Phi tăng 5.1% so với năm 2011. Theo dự báo
của UNCTAD, FDI năm 2013 có thể tăng nhẹ so với năm 2012 đạt 1.45 ngàn
tỷ USD; năm 2014 là 1.6 ngàn tỷ USD; năm 2015 là 1.8 ngàn tỷ USD. Tuy
vậy, kịch bản tăng trưởng FDI này có thể gặp nhiều rủi ro, như sự yếu kém về
cơ cấu trong hệ thống tài chính toàn cầu, khả năng xấu đi của kinh tế vĩ mô và
sự không ổn định về chính sách - những yếu tố có thể làm suy yếu niềm tin
của nhà đầu tư.









8




BIỂU ĐỒ 1.3: TOP 20 NƯỚC THU HÚT VỐN FDI
NHIỀU NHẤT THẾ GIỚI
(Đơn vị tính: Tỷ USD)

Nguồn: UNCTAD FDI-TNC-GVC Information System, FDI database
(www.unctad.org/fdistatistics)


9




Cũng theo UNCTAD, FDI có xu hướng chuyển dịch giữa các châu lục
và các nền kinh tế, trong đó các nước đang phát triển tiếp tục hấp dẫn nguồn
vốn này. Ví dụ tại châu Á, nếu năm 2013, 5 nền kinh tế đứng đầu về thu hút
FDI là Trung Quốc, Hồng Kông, Singapore, Indonesia và Malaysia thì năm
nay FDI có xu hướng dịch chuyển sang Campuchia, Myanmar và một số nền
kinh tế khác. Về việc vốn FDI dịch chuyển ra khỏi Trung Quốc, UNCTAD
cho rằng xu hướng này là do một số chỉ số của nền kinh tế này đã biến động.
Mới đây, Bank of America và JPMorgan đã hạ dự báo tăng trưởng năm 2013
của quốc gia đông dân nhất thế giới này xuống còn 7,6%, sau khi sản xuất

công nghiệp và đầu tư các tháng đầu năm tăng chậm hơn dự báo. Chi phí nhân
công tăng cũng làm giảm lợi thế cạnh tranh của Trung Quốc.










10




1.2 Lý do chọn đề tài
Câu hỏi làm thế nào thu hút được vốn FDI nhận được rất nhiều sự quan
tâm của các nhà kinh tế và người làm chính sách bởi với quan điểm FDI góp
phần tăng trưởng kinh tế thông qua việc bổ sung nguồn vốn trong nước,
chuyển giao công nghệ, kỹ thuật hiện đại, trình độ chuyên môn và trình độ
quản lý tiên tiến cho nước tiếp nhận đầu tư. Thực tế cũng cho thấy, các nước
có tốc độ tăng trưởng nhanh tiếp nhận nguồn vốn FDI nhiều hơn và ngược lại.
Một mặt, FDI bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế, làm tăng cầu các yếu tố sản
xuất như: lao động, nguyên vật liệu đầu vào… góp phần giải quyết việc làm
cho một bộ phận không nhỏ dân cư. Thêm vào đó, qua các hình thức đầu tư
này, tại nước tiếp nhận đầu tư hình thành một hệ thống doanh nghiệp có vốn
nước ngoài làm đa dạng hóa các thành phần kinh tế, thúc đẩy khả năng cạnh
tranh của các thành phần kinh tế khác để tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt

hơn trong khi giá thành hạ từ đó làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế,
thúc đẩy tăng trưởng cung về sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ. Vì vậy, các
nước đang phát triển với nhu cầu đầu tư cao để đạt được mục tiêu tăng trưởng
ngày càng cạnh tranh để thu hút được nhiều nguồn vốn FDI hơn nữa.
Chủ đề khám phá các nhân tố tác động đến dòng vốn FDI vào các nước
đang phát triển đã được trình bày trong nhiều bài nghiên cứu. Mottaleb và
Kalirajan (2010) làm nghiên cứu thực nghiệm trên mẫu 68 nước có thu nhập
thấp và trung bình từ năm 2000 – 2007 cho thấy các nước với GDP lớn, tốc độ
tăng trưởng GDP cao, ngoại thương phát triển cùng môi trường kinh doanh tốt
dễ dàng thu hút FDI hơn. Một vài bài nghiên cứu khác chia mẫu theo từng khu
vực địa lý: Nikolaos Antonakakis và Gabriele Tondl (2011) với khu vực các
11




nước OECD, George Owusu-Antwi và cộng sự (2012) với các nước châu Phi,
Alan A. Bevan và Saul Estrin (2000) với các nước Trung và Đông Âu,
T.Bhavan và cộng sự (2011) với các nước châu Á. Tuy nhiên, các bài nghiên
cứu đều khảo sát trên số lượng quan sát tương đối nhỏ và các nghiên cứu đưa
tất cả các nhân tố vào mô hình mà không phân chia thành nhóm nhân tố vĩ mô
sau đó lần lượt đưa các nhân tố định tính/thể chế vào mô hình để xem xét.
Đồng thời, cũng chưa có bài nghiên cứu nào tập trung riêng vào mẫu thuộc
khu vực châu Á và châu Phi để xem xét. Do đó, để khắc phục một số hạn chế
như trên, tác giả tiến hành nghiên cứu đề tài “Các nhân tố tác động đến dòng
vốn FDI vào các nước đang phát triển khu vực châu Á và châu Phi”.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của bài nghiên cứu nhằm khám phá các nhân tố tác động tới
dòng vốn FDI vào 25 nước đang phát triển thuộc khu vực châu Á và châu Phi
trong khoảng thời gian 14 năm từ năm 1998 – 2011.

1.4 Điểm mới của bài nghiên cứu
Bộ ba bất khả thi là một trong những lý thuyết rất quan trọng của tài
chính quốc tế, được phát triển dựa trên những ý tưởng của Robert Mundell và
Marcus Fleming vào thập niên 1960. Hai ông đã xây dựng lý thuyết “Bộ ba
bất khả thi”, phát biểu như một định đề: một quốc gia không thể đồng thời đạt
được tỷ giá cố định, hội nhập tài chính và độc lập tiền tệ. Trong đó:
Độc lập tiền tệ là sử dụng chính sách tiền tệ để ổn định nền kinh tế, thực
hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát. Ngân hàng trung
12




ương có thể tăng cung tiền và giảm lãi suất khi nền kinh tế suy thoái và giảm
cung tiền, tăng lãi suất khi nền kinh tế phát triển quá nóng.
Hội nhập tài chính nghĩa là dòng vốn được tự do ra vào nền kinh tế.
Việc này cho phép công dân của nước đó đa dạng hóa tài sản bằng cách đầu tư
ra nước ngoài. Nó cũng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đem theo các
nguồn lực, kinh nghiệm, chuyên môn để đầu tư vào nước đó.
Duy trì tỷ giá ổn định giúp tạo ra cái neo danh nghĩa để chính phủ tiến
hành các biện pháp ổn định giá cả. Cái neo này làm cho nhận thức của nhà đầu
tư đối với rủi ro của nền kinh tế giảm đi, làm tăng thêm niềm tin của công
chúng vào đồng nội tệ. Tất cả giúp làm cho môi trường đầu tư tốt hơn.
Aizenman, Chinn và Ito (2008) đã chỉ ra rằng chính phủ các nước đang
phát triển trong việc lựa chọn mẫu hình bộ ba bất khả thi là hướng tới trạng
thái trung gian giữa ba chính sách mục tiêu: hội nhập tài chính nhưng không
quên kiểm soát vốn, độc lập tiền tệ vừa phải, và cơ chế tỷ giá biến động trong
một biên độ mục tiêu cho phép bằng cách tăng cường kho dự trữ ngoại hối
như một công cụ để quản lý tỷ giá. Ba ông cũng đã giới thiệu thước đo bộ ba
bất khả thi từ đó đưa ra bộ chỉ số "Trilemma Indexes". Trong đó, tác giả đã sử

dụng dữ liệu của chỉ số mức độ hội nhập tài chính - KOPEN để phục vụ cho
mục đích nghiên cứu tác động của chỉ số này có gây ra tác động lấn át một
hoặc một số nhân tố kinh tế vĩ mô khác hay không.



13




1.5 Tổng quát nội dung bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu tiếp theo sẽ bao gồm các nội dung sau:
Phần 2: Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây
Phần 3: Phương pháp nghiên cứu
Phần 4: Kết quả nghiên cứu
Phần 5: Kết luận

















14




2. Tổng quan các kết quả nghiên cứu trước đây
2.1 Những nghiên cứu về mặt lý thuyết
Vấn đề liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng nhận được
nhiều sự quan tâm và có rất nhiều lý thuyết nghiên cứu tập trung vào chủ đề
này, trong đó các lý thuyết hầu như tập trung phát triển từ nền tảng lý thuyết
của S. Hymer, R.Vernon và J. Dunning. Các nhà kinh tế đều tin rằng, FDI là
một nhân tố quan trọng trong việc thúc đầy tăng trưởng kinh tế tất cả các
nước, đặc biệt là các nước đang phát triển.
Stephen H. Hymes (1960) là nhà kinh tế đầu tiên phát triển lý thuyết về
công ty đa quốc gia. Các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù (chẳng
hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở
nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm
đầu tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động,
đất đai,chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên. Những
công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công nghệ đầu tư ra các
nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu
thụ tiềm năng.
Raymond Vernon (1966) nghiên cứu đầu tư trực tiếp của các công ty
Mỹ vào các nước Đông Âu sau thế chiến thứ hai trong ngành sản xuất công
nghiệp trong khoảng thời gian từ 1950 - 1970. Qua thời gian, Mỹ đã trở thành
nước nhập khẩu chính của nhiều hàng hóa mà trước đây nó đã từng sản xuất,
phát triển và xuất khẩu. Vernon dựa vào bốn giai đoạn trong một chu kỳ sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm 3 giai đoạn: (1) Giai đoạn phát
15




minh và giới thiệu; (2) Giai đoạn phát triển qui trình và đi tới chín muồi; (3)
Giai đoạn chín muồi hay được tiêu chuẩn hoá. Trong giai đoạn đầu, các sản
phẩm mới tung ra thị trường vẫn còn đang dần được hoàn thiện, nên doanh số
tăng trưởng chậm, chưa có lợi nhuận vì phải tốn chi phí nhiều cho việc giới
thiệu sản phẩm ra thị trường. Tiếp theo, trong giai đoạn tăng trưởng, sản phẩm
được thị trường tiếp nhận nhanh chóng và sản xuất một sản phẩm đạt tới giai
đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển cũng là lúc thị trường sản phẩm này có
rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh
tranh giữa nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết
định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản
xuất sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn. Do đó
các công ty đa quốc gia của Mỹ tại nước ngoài có cơ hội xuất khẩu các sản
phẩm này ngược trở lại thị trường Mỹ. Tóm lại, có thể thấy, đầu tư trực tiếp
nước ngoài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn thứ hai của một chu kỳ kinh
doanh.
John Harry Dunning (1977) nghiên cứu các công ty đa quốc gia tiến
hành đầu tư ra nước ngoài khi họ sở hữu một số lợi thế nhất định để có thể
cạnh tranh với các công ty sản xuất trong nước như: (i) Lợi thế sở hữu: Lợi thế
sở hữu có được vì các công ty đa quốc gia là chủ sở hữu của vốn tri thức bao
gồm nguồn nhân lực, quyền sở hữu tài sản trí tuệ, bí quyết sản xuất, bí quyết
công nghệ và các tài sản marketing khác như nhãn hiệu, thương hiệu, uy tín
của hãng trên thị trường quốc tế So với các loại vốn vật chất khác như thiết
bị, máy móc, vốn tri thức có tính linh hoạt cao hơn và có thể di chuyển dễ
dàng hơn giữa các quốc gia. Bên cạnh đó, với những yếu tố đặc trưng như

trên, vốn tri thức có thể cùng một thời điểm được sử dụng như đầu vào tại
16




nhiều địa điểm khác nhau. Chính vì vậy, một công ty đa quốc gia có thể tương
đối dễ dàng xuất khẩu vốn tri thức của họ sang các quốc gia khác với lợi thế
cạnh tranh đáng kể là chi phí thấp. (ii) Lợi thế vị trí: liên quan đến chi phí
giao dịch giữa hai quốc gia. Nếu chi phí giao dịch là đáng kể, công ty đa quốc
gia sẽ lựa chọn phương án đặt nhà máy sản xuất của họ ở nước ngoài thay vì
sản xuất trong nước và xuất khẩu để thỏa mãn thị trường nước ngoài. Khi đó,
công ty đa quốc gia sẽ thực hiện quyết định đầu tư theo chiều ngang, sản xuất
ở thị trường nước sở tại những sản phẩm tương tự như sản xuất trong nước.
Ngược lại, khi chi phí giao dịch thấp, công ty đa quốc gia có thể lựa chọn
phương án phân tán chuỗi giá trị sản xuất của họ thành nhiều mắt xích riêng lẻ
và phân bổ hoạt động sản xuất các mắt xích đó tại nhiều địa điểm khác nhau
trên thế giới - đầu tư theo chiều dọc. (iii) Lợi thế nội bộ hóa tài sản tri thức:
nhằm ngăn chặn đánh cắp hay học hỏi bí quyết công nghệ, các công ty đa
quốc gia thường tập trung hóa những tài sản tri thức này và chỉ mang đến thị
trường quốc gia sở tại những hoạt động sản xuất và cung cấp dịch vụ ở mức
độ đơn giản và chỉ sử dụng một phần của những tài sản tri thức mà họ có.
2.2 Những nghiên cứu về mặt thực nghiệm
Các đặc điểm nào của quốc gia hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài? Để
hiểu được điều này, cần tìm hiểu các động lực cơ bản để một công ty tiến hành
đầu tư ra nước ngoài thay vì xuất khẩu hoặc thuê ngoài các công đoạn sản xuất
ở nước ngoài. Căn cứ vào mục đích của việc đầu tư, có thể phân chia dòng
vốn FDI thành ba loại cơ bản: (i) FDI nhằm tìm kiếm nguồn lực - Resource-
seeking: Đầu tư nhằm khai thác các nguồn lực lao động rẻ hoặc giàu tài
nguyên thiên nhiên, mà những nguồn lực này không có ở nước sở tại. Thông

17




thường các công ty đa quốc gia đầu tư vào các nước đang phát triển có tài
nguyên dầu mỏ như ở Trung Đông hay ở Châu Phi có vàng, kim cương, ở
Đông Nam Á có lao động rẻ. (ii) FDI tìm kiếm thị trường - Market-seeking:
Đầu tư nhằm thâm nhập thị trường mới hoặc duy trì thị trường hiện có. (iii)
FDI tìm kiếm hiệu quả - Effficiency-seeking: Đầu tư nhằm tăng cường hiệu
quả bằng việc tận dụng lợi thế của tính kinh tế theo quy mô hay phạm vi, hoặc
cả hai. Lý thuyết về FDI còn phân biệt giữa FDI theo chiều ngang và FDI theo
chiều dọc. FDI theo chiều ngang là kết quả của quyết định đầu tư của các công
ty đa quốc gia theo đó các công ty này thực hiện các hoạt động sản xuất hay
cung cấp dịch vụ giống nhau ở nhiều địa điểm khác nhau. FDI theo chiều dọc
là kết quả của quyết định đầu tư trong đó các công ty đa quốc gia chia nhỏ
chuỗi giá trị của họ thành những công đoạn sản xuất, cung cấp dịch vụ riêng
biệt và lựa chọn các địa điểm khác nhau để thực hiện một hay một số mắt xích
trong chuỗi giá trị đó.
Nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra các đặc điểm ảnh hưởng đến việc thu hút
loại FDI như: qui mô thị trường, chi phí lao động rẻ, tài nguyên thiên
nhiên…Tùy theo nguồn lực của từng nước mà dòng vốn FDI sẽ đi vào nước
đó theo từng mục đích như trên. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, vẫn có
thêm nhiều nhân tố khác ngoài các nhân tố trên góp phần thu hút vốn FDI vào
các quốc gia.
James P. Walsh và Jiangyan Yu (2010) tiếp cận đề tài các nhân tố tác
động đến dòng vốn FDI với góc độ phân chia vốn FDI thành ba nhóm ngành
chính: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Các nhân tố bao gồm nhóm nhân
tố vĩ mô: Độ mở thương mại, tỷ giá hối đoái thực, tốc độ tăng trưởng GDP,
18





tính kinh tế nhờ liên kết
(1)
, lạm phát, GDP bình quân đầu người và nhóm nhân
tố định tính: Lao động, độc lập về chính trị, sự hiệu quả của hệ thống tài
chính, độ sâu tài chính, cơ sở hạ tầng, giáo dục bậc tiểu học, trung học và phổ
thông. Nghiên cứu trên mẫu gồm 27 nước phát triển và nhóm nền kinh tế mới
nổi trong khoảng thời gian từ 1985 – 2008 sử dụng mô hình GMM cho kết
quả: FDI theo nhóm ngành nông nghiệp ít chịu tác động của các nhân tố trong
khi FDI theo nhóm ngành công nghiệp và dịch vụ chịu ảnh hưởng bởi các
nhân tố theo hướng khác nhau tùy thuộc vào thu nhập của quốc gia đó và tỷ
giá hối đoái cũng như chỉ số phát triển (độ sâu thị trường tài chính, giáo dục)
và nhân tố thuộc về thể chế (sự độc lập về chính trị và độ co giãn của thị
trường lao động). Ngoài ra, tác động của các nhân tố cũng có sự khác biệt giữa
nhóm nước phát triển và nhóm nền kinh tế mới nổi.
Sau khảo sát tại 57 quốc gia có thu nhập thấp và trung bình trong 10
năm 2000 – 2009, Hussain và Kimuli (2012) sử dụng phương pháp OLS, 2
SLS với mô hình nghiên cứu như sau:
FDI
it
= β
0
+ β
1
marketsize
it
+ β

2
inf
it
+ β
3
tariff
it
+ β
4
educ
it
+ β
5
(M2/GDP)
it
+
α
1
S
i
+ α
2
T
t
+ e
it

Trong đó:
FDI
it

:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tính trên % của GDP của nước thứ i
tại năm t.
Marketsize
it:
GDP bình quân đầu người của nước thứ i tại năm t.
inf
it:
Tỷ lệ lạm phát của nước thứ i tại năm t.
19




tariff
it:
Thuế nhập khẩu của nước thứ i tại năm t.
educ
it:
Tỷ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở của nước thứ i tại năm t.
M2/GDP
it:
Tỷ lệ M2/GDP đại diện cho sự phát triển thị trường tài chính
của nước thứ i tại năm t.
S
i
và T
t:
tương ứng là đặc trưng riêng có của từng quốc gia và tính bất
biến theo thời gian của dữ liệu.

Kết quả nghiên cứu phát hiện nhân tố qui mô thị trường là nhân tố quan
trọng nhất trong các nhân tố như: môi trường vĩ mô ổn định, giáo dục, lực
lượng lao động và sự phát triển của hệ thống tài chính. Mẫu nghiên cứu thu
thập từ hạ Sahara Châu Phi, Đông Âu, Châu Á và Châu Mỹ Latin.
Một nghiên cứu khác cũng đồng quan điểm nhân tố qui mô thị trường là
quan trọng nhất là Khachoo và Khan (2012). Sử dụng dữ liệu bảng gồm 32
nước đang phát triển trong khoảng thời gian 1982 – 2008 với mô hình nghiên
cứu như sau:

Trong đó:
FDI
it
: được lấy là giá trị vốn đầu tư nước ngoài đi vào một quốc gia,
tính trên đơn vị tiền US$.
GDP
it
: GDP của nước thứ i tại năm t, tính trên đơn vị tiền US$.
tr
it
: Dự trữ của nước thứ i tại năm t, tính trên đơn vị tiền US$.
20




pc
it
: Mức tiêu thụ điện năng của nước thứ i tại năm t, đại diện cho chất
lượng cơ sở hạ tầng, tính trên đơn vị kWh/đầu người.
wgr

it
: Chi phí lao động của nước thứ i tại năm t, tính trên đơn vị tiền
US$.
Opn
it
: Độ mở thương mại của nước thứ i tại năm t, tính trên đơn vị tiền
US$.
Sử dụng mô hình FMOLS cho kết quả qui mô thị trường, dự trữ, cơ sở
hạ tầng và chi phí lao động là các nhân tố chính tác động đến biến phụ thuộc
là FDI.
Sự ổn định về kinh tế và chính trị - xã hội là điều kiện tiên quyết nhằm
giảm thiểu những rủi ro kinh tế chính trị của vốn FDI vượt khỏi sự kiểm soát
của chủ đầu tư nước ngoài. Những bất ổn định kinh tế chính trị không chỉ làm
cho dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp, mà còn làm cho dòng vốn từ trong
nước chảy ngược ra ngoài, tìm đến những nơi "trú ẩn" mới an toàn và hấp dẫn
hơn. Điều kiện này không chỉ bao gồm các yêu cầu về duy trì sự ổn định phát
triển kinh tế và trật tự xã hội cần thiết cho sự vận hành bình thường của đất
nước, sự hoàn chỉnh hữu hiệu và tính có thể dự báo được của hệ thống pháp
luật đầu tư theo xu hướng ngày càng tiếp cận tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế,
mà còn phải duy trì được dư luận và tâm lý xã hội chung thuận lợi và ủng hộ
các nhà đầu tư nước ngoài. Theo UNCTAD, World Development Report
2012, đây là năm thứ 3 liên tiếp sụt giảm dòng vốn FDI chảy vào các nước
châu Phi, đặc biệt là khu vực Bắc Phi, trong đó Ai Cập và Libya, 2 địa điểm
thu hút FDI nhất khu vực có mức độ bất ổn cao dẫn đến dòng vốn FDI sụt
21




giảm nghiêm trọng. Owusu-Antwi và cộng sự (2012) lý giải nguyên nhân các

nước Châu Phi chưa thành công trong việc thu hút vốn FDI là do sự bất ổn
chính trị, cơ sở hạ tầng lạc hậu, quản trị yếu, các chiến dịch marketing chưa
hấp dẫn.
Trong bài nghiên cứu “Tại sao luồng vốn FDI chảy vào các nước? Bằng
chứng mới từ các nền kinh tế chuyển đổi”, Campos và Kinoshita (2003) sử
dụng mô hình system GMM với dữ liệu bảng của 25 nền kinh tế chuyển đổi từ
1990 – 1998 và kết luận rằng nhân tố thể chế, tài nguyên thiên nhiên, tác động
lan tỏa (agglomeration effect) và chi phí lao động. Ngoài ra, tác giả còn
nghiên cứu thêm vấn đề khu vực/vùng miền có ảnh hưởng đến kết quả nghiên
cứu hay không? Khu vực Đông Âu và các nước Baltic thì thể chế, tác động lan
tỏa và cải cách kinh tế là nhân tố chính trong khi đó tại các nước thuộc Liên
bang Xô Viết dòng vốn FDI phụ thuộc nhiều vào tài nguyên thiên nhiên và cải
cách kinh tế.
T.Bhavan và cộng sự (2011) nghiên cứu các nhân tố và tác động tăng
trưởng lên FDI tại 4 nước khu vực Nam Á từ năm 1995 đến năm 2008. Bài
nghiên cứu bao gồm hai phần chính:
(1) Sử dụng mô hình trọng lực (gravity model) để khám phá các nhân tố
tiềm năng có thể tác động đến FDI tại các nước nghiên cứu. Mô hình trọng lực
dựa trên ý tưởng các nhân tố tại các nước đầu tư lẫn nước tiếp nhận đầu tư và
một lực hấp dẫn có ảnh hưởng quan trọng trong việc xác định các nhân tố tác
động lên FDI. Phương trình nghiên cứu có dạng:
FDI
ijt
= β
0
+ β
1
g
it
+ β

2
g
jt
+ β
3
Y
it
+ β
4
Y
jt
+ β
5
dist
ij
+ β
6
V
irt
+ v
t
+ e
ijt

22




Trong đó:

g
it
, g
jt
: tốc độ tăng trưởng của tiếp nhận đầu tư/nước đầu tư
Y
it
, Y
jt
: GDP của nước tiếp nhận đầu tư/nước đầu tư
dist
ij
: khoảng cách giữa 2 nước tiếp nhận đầu tư/nước đầu tư
V
irt
: vector của r biến ảnh hưởng đến FDI của nước tiếp nhận đầu tư
v
t
: tác động thời gian (time effect)
e
ijt
: sai số
(2) Sử dụng mô hình tăng trưởng (Y = f (Y
t-1
, K, L, H) để nghiên cứu
tác động lên tăng trưởng kinh tế của FDI. Mô hình có dạng:
g
it
= β
0

+ β
1
g
it-1
+ β
2
X
ilt

3
Z
ikt
+ ν
it
Trong đó:
g
it
: tốc độ tăng trưởng GDP
X
ilt
: vectơ của l biến nội sinh (% FDI/GDP; % viện trợ nước
ngoài/GDP; % tiết kiệm trong nước/GDP; nguồn vốn nội địa – capital
formation)
Z
ikt
: vectơ của k biến nội sinh (lực lượng lao động; chỉ số phát triển con
người)
ν
it
: sai số

23




Sau khi sử dụng mô hình system GMM với dữ liệu bảng của nhóm
nước Nam Á cho kết luận rằng khoảng cách và các đặc điểm đặc trưng của
nước đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư là các nhân tố quan trọng nhất ảnh
hưởng đến việc thu hút vốn FDI. Bên cạnh đó là chu kỳ kinh tế của cả hai
nước, độ mở thương mại, chỉ số phát triển con người, dân số và chất lượng cơ
sở hạ tầng cũng đóng vai trò quan trọng.
Khi nghiên cứu hành vi đầu tư của các công ty đa quốc gia của Mỹ vào
bốn nước thuộc Liên Minh Châu Âu sử dụng dữ liệu bảng phân theo nhóm
ngành công nghiệp, Barrel và Pain (1999) phát hiện ra rằng các qui định của
pháp luật về lao động và tính kinh tế nhờ liên kết là hai yếu tố quan trọng nhất.
Tiềm năng của tính kinh tế nhờ liên kết cũng thu hút thêm được đầu tư mới.
Tính kinh tế nhờ liên kết bắt nguồn từ việc các công ty trong cùng một ngành
công nghiệp có xu hướng tập trung lại thành một khu công nghiệp. Từ đó cắt
giảm chi phí bằng cách sản xuất hàng loạt, nhân lực dồi dào với kĩ năng và
kiến thức chuyên môn nhờ liên kết giữa các hãng, công ty với nhau. Đây cũng
là kết quả của bài nghiên cứu thực hiện trên 751 nhà máy sản xuất của Nhật
hình thành trên nước Mỹ của Head, Ries và D. Swenson (1995). Nhà đầu tư
nước ngoài sẽ xem xét kết quả đầu tư của các nhà đầu tư khác vào nước tiếp
nhận và đây cũng ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của họ. Một nước có dòng
vốn FDI chảy vào nhiều củng là một tín hiệu tích cực đến các nhà đầu tư khác.
Sự ổn định tiền tệ của một nước là yếu tố quan trọng khi một nhà đầu tư
nước ngoài xem xét đến khi dự định đầu tư. Để thu hút được FDI, nền kinh tế
một nước phải là nơi an toàn cho sự vận động của vốn đầu tư, và là nơi có khả
năng sinh lợi cao hơn các nơi khác. Hầu hết đều cho rằng sự giảm giá đồng
24





tiền của một nước sẽ làm tăng đầu tư nước ngoài vào nước đó hơn với kết quả
nghiên cứu của Froot and Stein (1991) và Blonigen (1997).
John C. Anyanwu (2012) nghiên cứu đề tài “Tại sao FDI đi vào các
nước: bằng chứng thực nghiệm từ các nước châu Phi” với bộ dữ liệu 53 nước
châu Phi trong khoảng thời gian từ năm 1996 – 2008. Tác giả sử dụng phương
pháp nghiên cứu OLS sau đó là GMM để kiểm định mô hình sau:

Trong đó:
i và j là nước thứ i; j và t là thời gian.
FDI: FDI đi vào 1 nước tính trên % của GDP.
UrbanPop: Tỷ lệ dân số thành thị trên tổng dân số
GDPPC: GDP bình quân đầu người (US$)
Openness: Độ mở thương mại (%GDP)
Financialdev: Sự phát triển thị trường tài chính (domestic credit to the
private sector as % of GDP)
25




Inflation: Tỷ lệ lạm phát hàng năm
ExchangeRate: Tỷ giá hối đoái
Infrastructure: chất lượng cơ sở hạ tầng tính bằng tỷ lệ người sự dụng
điện thoại di động trên 1000 dân.
HumanCapital: Chất lượng nguồn nhân lực tính bằng tỷ lệ tốt nghiệp
trung học cơ sở

Aid: Giá trị vốn ODA nhận được trong năm, tính trên % GDP
GDPGrowth: Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm.
FDI_1: FDI với độ trễ 1 năm
Corruption: Sự ổn định chính trị của nước đó (tính bằng đánh giá xếp
hạng từ 1 -100)
RegulatorQuality: Sự hiệu quả của hệ thống pháp luật (tính bằng đánh
giá xếp hạng từ 1 -100)
RuleofLaw: Sự minh bạch của pháp luật (tính bằng đánh giá xếp hạng
từ 1 -100)
Oilexporters: Giá trị xuất khẩu dầu thô
Regions: Biến giả phân chia từng khu vực địa lý
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tại châu Phi: qui mô thị trường; độ mở
thương mại, tính kinh tế nhờ liên kết, viện trợ nước ngoài; sự hiệu quả của hệ

×