BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
NGUYỄN THỊ LOAN
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
TP.HỒ CHÍ MINH-NĂM 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
NGUYỄN THỊ LOAN
TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở
VIỆT NAM
Chuyên ngành: Kinh tế-Tài chính-Ngân hàng
Mã số: 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. DƯƠNG THỊ BÌNH MINH
TP.HỒ CHÍ MINH-NĂM 2012
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG i
DANH MỤC HÌNH ii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT iii
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Lý luận cơ bản về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế 3
1.1 Cơ sở lý thuyết để xây dựng mô hình tác động của đầu tư công đến tăng
trưởng kinh tế 3
1.2 Quan điểm về đầu tư công sử dụng trong nghiên cứu 5
1.3 Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ tác động của đầu tư công và tăng trưởng kinh
tế 6
1.4 Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh
tế 10
1.5 Khái quát tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở một số nước trên
thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 14
1.5.1 Khái quát tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở một số nước
trên thế giới 14
1.5.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 17
Kết luận chương 1 18
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu 19
2.1 Các biến sử dụng trong mô hình thực nghiệm 19
2.2 Dữ liệu 19
2.3 Phương pháp nghiên cứu 20
Kết luận chương 2 21
Chương 3: Thực trạng tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
giai đoạn 2001-2011 23
3.1 Khái quát về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 1986-2011 23
3.2 Phân tích thực trạng đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2001-2011 25
3.2.1 Đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2001-2011 25
3.2.2 Hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam giai đoạn 2001-2011 31
3.3 Đánh giá tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai
đoạn 2001-2011 34
3.3.1 Kết quả đạt được 34
3.3.2 Hạn chế 39
3.3.3 Nguyên nhân hạn chế 43
3.4 Đo lường tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 43
3.4.1 Mô hình phân tích 43
3.4.2 Kết quả thực nghiệm 45
3.4.3 Hạn chế của mô hình đònh lượng 59
Kết luận chương 3. 60
Chương 4: Các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam nhằm mục tiêu
tăng trưởng kinh tế 61
4.1 Đònh hướng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 61
4.2 Giải pháp nâng cao tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế 62
4.3 Các giải pháp hỗ trợ 66
Kết luận chương 4. 67
KẾT LUẬN 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 70
PHỤ LỤC 1 73
PHỤ LỤC 2 74
i
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1: GDP và GNI bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2001-2011 24
Bảng 3.2: Tăng trưởng kinh tế và ICOR các thành phần kinh tế ở Việt Nam giai
đoạn 1995-2011. 32
Bảng 3.3: Cơ cấu GDP và cơ cấu vốn đầu tư công theo ngành 35
Bảng 3.4: Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thò, nông thôn và phân theo vùng 37
Bảng 3.5: Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam giai đoạn 2001-2011 38
Bảng 3.6: Ma trận hệ số tương quan 45
Bảng 3.7: Kết quả kiểm đònh nghiệm đơn vò 46
Bảng 3.8: Kết quả kiểm đònh ý nghóa thống kê của mô hình (2) 48
Bảng 3.9: Phần dư có phân phối chuẩn 48
Bảng 3.10: Kiểm đònh Wald mô hình (2) 49
Bảng 3.11: Kiểm đònh phần dư của mô hình (2) 50
Bảng 3.12: Hồi quy mô hình ECM với 2 bước trễ 54
Bảng 3.13: Hồi quy mô hình ECM với 1 bước trễ 55
Bảng 3.14: Kết quả kiểm đònh ý nghóa thống kê của mô hình ECM (1 bước trễ) 57
Bảng 3.15: Phần dư có phân phối chuẩn 57
Bảng 3.16: Kiểm đònh Wald mô hình ECM 1 bước trễ 58
ii
DANH MỤC HÌNH
Hình 3.1: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội theo thành phần kinh tế 26
Hình 3.2: Tăng trưởng vốn đầu tư theo nguồn vốn 27
Hình 3.3: Cơ cấu vốn đầu tư công theo nguồn vốn đầu tư 28
Hình 3.4: Cơ cấu vốn đầu tư công theo ngành kinh tế 30
Hình 3.5: So sánh hệ số ICOR của các thành phần kinh tế 33
Hình 3.6: Kết quả kiểm đònh Histogram-Normality mô hình (2) 49
Hình 3.7: Kết quả kiểm đònh Histogram-Normality mô hình ECM 1 bước trễ 58
iii
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ADF
Augmented Dickey-Fuller
BOT
Xây dựng-Vận hành-Chuyển giao
BT
Xây dựng-Chuyển giao
BTO
Xây dựng-Chuyển giao-Vận hành
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
ECM
Error Correction Model
EU
Liên Minh Châu u
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
GDP
Tổng sản phẩm quốc nội
GNI
Tổng thu nhập quốc dân
GNP
Tổng sản phẩm quốc dân
GSO
Tổng cục thống kê Việt Nam
ICOR
Incremental Capital Output Ratio
KPSS
Kwiatkowski-Phillips-Schmidt-Shin
NSNN
Ngân sách Nhà nước
OECD
Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế
PPP
Public Private Partnerships
USD
Đô la Mỹ
VAR
Vector Autoregresstion
WB
Ngân hàng Thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sau hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam vẫn là một quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển. Theo mục tiêu của chiến lược phát triển quốc gia giai đoạn 2011-2020, phấn
đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại,
đạt tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7 - 8%/năm. Tuy
nhiên, nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa
được hình thành đầy đủ. Kết cấu hạ tầng kém phát triển được xem là một trong
những nút thắt của tăng trưởng kinh tế. Thực trạng kinh tế Việt Nam đặt ra vấn đề là
nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế là rất lớn. Trong đó, việc huy động và sử dụng
vốn đầu tư phát triển của Nhà nước (đầu tư công) có một ý nghóa quan trọng. Đầu tư
công đóng vai trò tạo những nền tảng vật chất kỹ thuật quan trọng cho đất nước, là
"cú huých" đối với một số ngành và vùng trọng điểm, đồng thời thúc đẩy thực hiện
các chính sách phúc lợi xã hội, đảm bảo an ninh, quốc phòng. Mặc dù có đóng góp
quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, song đầu tư công ở Việt Nam trong thời
gian qua được xem là kém hiệu quả. Điều này đã được nói rất nhiều trên các
phương tiện thông tin đại chúng, trong các phiên chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội,
trong các cuộc hội thảo, diễn đàn.
Từ thực trạng nêu trên, và với mong muốn tìm hiểu xem đầu tư công trong thời gian
qua tác động như thế nào đến tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ đó đưa ra những
khuyến nghò nâng cao hiệu quả đầu tư công nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tác
giả quyết đònh chọn đề tài “Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở
Việt Nam”. Trong nghiên cứu của mình, tác giả kết hợp cả phân tích đònh tính và
đònh lượng.
2
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam.
Để giải quyết mục tiêu trên, đề tài hướng đến các câu hỏi nghiên cứu sau:
- Đầu tư công tác động đến tăng trưởng kinh tế như thế nào trong ngắn hạn?
- Đầu tư công tác động đến tăng trưởng kinh tế như thế nào trong dài hạn?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để đạt mục tiêu nghiên cứu như trên, đề tài hướng đến các đối tượng nghiên cứu
như sau:
- Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam
- Vốn đầu tư khu vực kinh tế Nhà nước (đầu tư công)
- Hiệu quả đầu tư công ở Việt Nam
- Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia làm 4
chương:
- Chương 1: Lý luận cơ bản về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
- Chương 2: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
- Chương 3: Thực trạng tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở Việt
Nam giai đoạn 2001-2011
- Chương 4: Một số khuyến nghò nhằm nâng cao tác động của đầu tư công đến
tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam.
3
Chương 1: Lý luận cơ bản về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
1.1 Cơ sở lý thuyết để xây dựng mô hình tác động của đầu tư công đến tăng
trưởng kinh tế
Các nhân tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong các lý thuyết tăng trưởng có những
nét khác nhau. Dựa vào hàm sản xuất Y = F(K, L), lý thuyết tăng trưởng cổ điển cho
rằng nguồn gốc tăng trưởng bao gồm vốn (K) và lao động (L). Vì thế, chuyên môn
hóa và cải tiến kỹ thuật sẽ giúp nâng cao hiệu quả vốn và lao động. Ngoài ra, theo
lý thuyết tăng trưởng cổ điển (trước năm 1950), ngoại thương và thò trường cũng góp
phần cải thiện hiệu quả của vốn và lao động. Về phần mình, lý thuyết tăng trưởng
mới (1980-1990) tập trung vai trò của tri thức, vốn nhân lực, nghiên cứu và phát
triển, lợi suất tăng lên theo quy mô và ngoại thương trong tiến trình tăng trưởng [2].
Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào nhiều nhân tố, song các nhân tố cơ
bản là:
- Thứ nhất, nguồn nhân lực. Nhiều nhà kinh tế học cho rằng nguồn nhân lực hay
vốn con người là yếu tố quan trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các
yếu tố khác của sản xuất như vốn, công nghệ, nguyên vật liệu đều có thể mua
hoặc vay mượn nhưng nguồn nhân lực thì rất khó có thể làm điều tương tự.
- Thứ hai, vốn đầu tư (bao gồm đầu tư Chính phủ, đầu tư tư nhân và đầu tư nước
ngoài). Theo các nhà kinh tế, vốn đầu tư là một trong những nhân tố quan trọng
của quá trình sản xuất. Tùy theo mức độ vốn đầu tư mà người lao động được sử
dụng những máy móc, thiết bò nhiều hay ít (tỷ lệ tư bản trên mỗi lao động) và tạo
ra sản lượng cao hay thấp. Vốn đầu tư của toàn xã hội không chỉ là máy móc,
thiết bò dùng cho sản xuất mà còn bao gồm cả lượng vốn đầu tư để phát triển lợi
ích chung của toàn xã hội. Đó là lượng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của
4
quốc gia, mà phần lớn do Chính phủ đầu tư. Các nhà kinh tế học đã chỉ ra mối
liên hệ giữa tăng GDP với tăng vốn đầu tư. Cụ thể, Harod Domar đã nêu công
thức tính hiệu suất sử dụng vốn viết tắt là ICOR (Incremental Capital Output
Ratio). Đó là tỷ lệ tăng đầu tư chia cho tỷ lệ tăng GDP. Những nền kinh tế thành
công thường khởi đầu quá trình phát triển kinh tế với các chỉ số ICOR thấp,
thường không quá 3%, có nghóa là phải tăng đầu tư 3% để tăng 1% GDP. Một
nền kinh tế tăng trưởng cao không chỉ dừng lại ở việc tăng khối lượng vốn đầu tư
mà còn đặc biệt chú ý đến hiệu quả sử dụng vốn, quản lý vốn chặt chẽ, đầu tư
vốn hợp lý vào các ngành, các lónh vực của nền kinh tế.
- Thứ ba, tiến bộ công nghệ. Lòch sử phát triển đã chứng minh tăng trưởng kinh tế
rõ ràng không phải là sự sao chép giản đơn, là việc đơn thuần chỉ tăng thêm lao
động và vốn. Ngược lại, đây là quá trình sáng chế và thay đổi công nghệ sản
xuất không ngừng. Tiến bộ công nghệ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng vì nó góp
phần làm tăng năng suất lao động, tăng năng suất vốn, mở ra các ngành nghề và
sản phẩm mới…
- Thứ tư, xuất khẩu. Xuất khẩu có thể tác động đến tăng trưởng kinh tế một cách
trực tiếp vì nó là một thành phần của tổng sản phẩm hay một cách gián tiếp
thông qua ảnh hưởng của nó đến các nhân tố của tăng trưởng. Cụ thể xuất khẩu
làm tăng nhu cầu trong nền kinh tế và do vậy, mở rộng thò trường cho sản xuất
nội đòa; xuất khẩu làm tăng đầu tư trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài; xuất
khẩu thúc đẩy thay đổi công nghệ, cải thiện nguồn vốn nhân lực, qua đó làm
tăng năng suất.
5
1.2 Quan điểm về đầu tư công sử dụng trong nghiên cứu
Theo lý thuyết kinh tế học, đầu tư công là việc đầu tư để tạo ra năng lực sản xuất và
cung ứng hàng hóa công cộng. Trên thực tế, theo Bộ Tài chính Đan Mạch (2011),
đầu tư công chỉ được quan niệm bao gồm các hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn của
Nhà nước vào vốn vật chất (đường sá, văn phòng, các công trình thủy lợi…). Viện
Chính sách kinh tế Hoa Kỳ (2011) lại cho rằng, đầu tư là tất cả các khoản chi tiêu
ngân sách cho các đối tượng khác nhau trong nền kinh tế mà những khoản chi tiêu
này có tác dụng kích hoạt hoặc thúc đẩy chi tiêu của mọi thành phần kinh tế. Giáo
sư Robert-Ducan (Đại học Missouri, Hoa Kỳ, 2011) đã tóm tắt quan điểm của mình
rằng “đầu tư công có nghóa là sở hữu công”, nói cách khác, bất kỳ chi tiêu nào sử
dụng các nguồn lực do Nhà nước sở hữu đều bao hàm trong khái niệm đầu tư công.
Ở Việt Nam đầu tư công (trong dự thảo Luật đầu tư công) là đầu tư từ nguồn vốn
của Nhà nước vào các ngành, lónh vực phục vụ lợi ích chung, không nhằm mục đích
kinh doanh. Theo quan niệm này, đầu tư nhằm mục đích kinh doanh của các DNNN
không nằm trong đầu tư công. Việc tách đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước nhằm
mục đích kinh doanh không nằm trong đầu tư công sẽ làm cho quá trình phân loại
hay thống kê trở nên phức tạp hơn nhiều [5].
Trong Niên giám thống kê Việt Nam, đầu tư là “toàn bộ những chi tiêu để làm tăng,
duy trì tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất đònh” [18]. Vốn đầu tư thường được
thực hiện qua các dự án đầu tư và một số chương trình đầu tư quốc gia với mục đích
chủ yếu là bổ sung tài sản cố đònh. Đầu tư được ghi chép và thống kê theo các
ngành, các cấp quản lý (Trung ương, đòa phương) và theo nguồn vốn các thành phần
kinh tế (đầu tư Nhà nước, đầu tư kinh tế ngoài Nhà nước và đầu tư của khu vực có
vốn đầu tư nước ngoài). Đầu tư cũng được thống kê theo giá thực tế và giá so sánh
6
năm 1994. Như vậy, đầu tư công (đầu tư Nhà nước) bao gồm: đầu tư ngân sách phân
cho các bộ, ngành Trung ương và phân cho các đòa phương; đầu tư theo các chương
trình hỗ trợ có mục tiêu; đầu tư của DNNN [5].
Để đơn giản hơn cho nghiên cứu, tác giả sử dụng cách tiếp cận đầu tư công từ góc
độ tính chất sở hữu của nguồn vốn trong đầu tư. Như vậy, đầu tư công (đầu tư Nhà
nước) bao gồm tất cả các khoản đầu tư do Nhà nước và DNNN tiến hành.
Theo phân loại của Tổng cục thống kê thì vốn đầu tư công (đầu tư Nhà nước) bao
gồm: vốn NSNN; vốn vay và vốn DNNN.
1.3 Cơ sở lý thuyết về mối quan hệ tác động của đầu tư công và tăng trưởng
kinh tế
- Đầu tư công thúc đẩy tăng trưởng GDP
Vốn đầu tư công là một thành phần quan trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội,
một nhân tố có tác động thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư tác động đến tăng trưởng kinh tế ở hai mặt: tổng cung và tổng cầu. Theo
Adam Smith (đầu thế kỷ 18) thì việc tăng vốn đầu tư sẽ dẫn đến tăng sức lao động
và tăng công cụ sản xuất cả về số lượng lẫn chất lượng, từ đó mở rộng sản xuất. Tới
thế kỷ 19, K.Marx đã đề cập đến vốn như là một trong bốn yếu tố tác động đến quá
trình tái sản xuất gồm đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Kế thừa
những tư tưởng trên các nhà kinh tế tân cổ điển tiêu biểu là Cobb và Douglas đã
phân tích rõ vai trò của vốn thông qua hàm sản xuất. Như vậy, tăng quy mô vốn đầu
tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế nếu các yếu tố khác
không thay đổi. Mặt khác, tác động của vốn đầu tư còn được thực hiện thông qua
hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ… Do đó,
đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế.
7
Ngoài ra, đầu tư còn là một thành phần quan trọng của tổng cầu. Theo Keynes, tổng
sản lượng của nền kinh tế hình thành nhờ vào việc hiện thực hóa những quyết đònh
chi tiêu: chi tiêu tiêu dùng của hộ gia đình, chi tiêu cho đầu tư mở rộng kinh doanh
của doanh nghiệp, chi tiêu của Chính phủ và chi tiêu ròng của nền kinh tế bên ngoài
đối với sản phẩm nội đòa.
AD = C + I + G + X – M
Như vậy, gia tăng đầu tư sẽ làm cho tổng cầu tăng trong điều kiện các yếu tố khác
không đổi. Sự thay đổi tổng cung, tổng cầu được phản ảnh qua tốc độ tăng trưởng
kinh tế. Như vậy, thay đổi quy mô vốn đầu tư cũng là nguyên nhân làm thay đổi tốc
độ tăng trưởng kinh tế.
Mối quan hệ giữa đầu tư với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là mối quan hệ
biện chứng, nhân quả, có ý nghóa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở
lý luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nhiều nước trong thời
kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm.
- Tác động đổi mới công nghệ
Đầu tư công là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết đònh đổi mới và phát triển
khoa học công nghệ của một quốc gia. Trong mỗi thời kỳ các nước có bước đi khác
nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đoạn đầu, các nước đang phát triển
do có nhiều lao động và nguyên liệu nên thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng
nhiều lao động và nguyên liệu. Sau đó, giảm dần hàm lượng lao động và nguyên
liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bò và tri thức thông
qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư
mạnh vốn thiết bò và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Quá trình
này là quá trình chuyển từ đầu tư nhỏ sang đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không
8
có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo cho sự thành công của quá trình chuyển đổi
và phát triển của khoa học và công nghệ. Đầu tư công chính là nguồn vốn quan
trọng làm thay đổi công nghệ, tác động không nhỏ đến sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, đổi mới phương thức sản xuất, làm tăng quy mô sản lượng, tăng sức cạnh tranh
của nền kinh tế.
- Tác động đến chuyển dòch cơ cấu kinh tế
Chuyển dòch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng các bộ phận cấu thành
nền kinh tế. Sự chuyển dòch cơ cấu kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng
đều về quy mô, tốc độ giữa các ngành, vùng.
Đầu tư công góp phần làm chuyển dòch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến
lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ tạo ra sự cân đối trên
phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền
kinh tế. Đối với cơ cấu ngành, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít, việc sử
dụng vốn hiệu quả cao hay thấp… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả
năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển
các ngành mới. Do đó làm dòch chuyển cơ cấu kinh tế ngành.
Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư công có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, đòa thế, kinh
tế, chính trò… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc
đẩy những vùng khác cùng phát triển.
- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động
Nhiều nhà kinh tế học cho rằng nguồn nhân lực hay vốn con người là yếu tố quan
trọng nhất trong tăng trưởng kinh tế. Hầu hết các yếu tố khác của sản xuất như vốn,
9
công nghệ, nguyên vật liệu đều có thể mua hoặc vay mượn nhưng nguồn nhân lực
thì rất khó có thể làm điều tương tự. Đầu tư công vào lónh vực vốn con người, lónh
vực giáo dục đào tạo, lónh vực nghiên cứu phát triển sẽ giúp nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Có thể nói “nguồn lực con người là
nguồn lực của mọi nguồn lực”, là “tài nguyên của mọi tài nguyên”. Vì vậy, con
người có sức khỏe, trí tuệ, tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình, được tổ chức chặt
chẽ là nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
- Tác động thu hút các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển
Đầu tư công vào lónh vực kết cấu hạ tầng là một nội dung quan trọng trong chi đầu
tư công. Kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại là điều kiện để nền kinh tế phát triển
nhanh và ổn đònh. Kết cấu hạ tầng phát triển mở ra khả năng thu hút các luồng vốn
đầu tư đa dạng trong và ngoài nước, đặc biệt là dòng vốn FDI. Kết cấu hạ tầng liên
quan đến cả yếu đầu vào lẫn đầu ra của hoạt động kinh doanh, nên nó là điều kiện
nền tảng để các nhà đầu tư khai thác lợi nhuận. Nếu hạ tầng cơ sở yếu kém và thiếu
đồng bộ thì nhà đầu tư rất khó khăn để triển khai dự án, chi phí đầu tư tăng cao,
quyền lợi của nhà đầu tư không được đảm bảo và do vậy nhà đầu tư sẽ không muốn
đầu tư vốn của mình. Như vậy, đầu tư công vào lónh vực kết cấu hạ tầng sẽ có tác
động thu hút các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước, từ đó thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển.
- Tác động nâng cao phúc lợi và mức sống của người dân
Ngoài tác động thu hút các nguồn lực đầu tư trong và ngoài nước, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh phát triển như đã trình bày ở trên, đầu tư công vào lónh vực kết cấu hạ
tầng còn có tác động nâng cao phúc lợi và mức sống người dân. Kết cấu hạ tầng
10
phát triển thực sự có ích cho người nghèo. Có thể kể đến những cơ sở hạ tầng thiết
yếu ở các vùng nghèo như trường học, trạm y tế, thủy lợi nhỏ, đường giao thông
nông thôn, nước sạch và vệ sinh môi trường Phúc lợi xã hội cũng được nâng cao
thông qua nhiều chương trình như tín dụng đối với học sinh nghèo, cho vay vốn phát
triển sản xuất đối với các hộ gia đình đặc biệt khó khăn… Nhờ vậy, mức sống của
người dân ngày càng được cải thiện.
1.4 Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của đầu tư công đến tăng trưởng
kinh tế
Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều tác giả nghiên cứu về mối quan hệ tác động của
đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế, dưới đây tác giả xin trình bày tóm lược một vài
nghiên cứu điển hình về vấn đề này.
- Tác giả Nazima Elahi và Adiqa Kiani (2011) với đề tài “Investigating Public
Invetsment – Growth Nexus for Parkistan”, nghiên cứu này được thực hiện nhằm
phân tích mối quan hệ giữa chi đầu tư công với tăng trưởng kinh tế ở Parkistan.
Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu hàng năm từ năm 1975 đến năm 2009 và áp dụng
phương pháp ARDL (Autoregressive distributed Lag Approach) để ước lượng độ
co dãn trong ngắn hạn và dài hạn của mô hình. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng, có
một tác động dương của chi tiêu khu vực công đến tăng trưởng kinh tế ở
Parkistan trong ngắn hạn và dài hạn, tuy nhiên, vai trò của đầu tư công thì không
đáng kể so với đầu tư tư nhân vì sự không hiệu quả của khu vực công [27].
- Tương tự, tác giả Ejaz Ghani và Musled-ud Din (2006) với đề tài “The impact of
public investment on economic growth in Parkistan” cũng phân tích tác động của
đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế của Parkistan. Trong nghiên cứu này, tác giả
11
sử dụng phương pháp VAR, sử dụng bộ dữ liệu hàng năm từ năm 1973 đến năm
2004. Dựa trên những cân nhắc về lý thuyết, ngoài biến đầu tư công, mô hình
còn có thêm biến đầu tư tư nhân và biến chi tiêu công. Kết quả chỉ ra rằng tăng
trưởng chòu ảnh hưởng lớn bởi đầu tư tư nhân, còn tác động của đầu tư công và
chi tiêu công thì không đáng kể [22].
- Các tác giả Ogundipe, Mushay Adeniyi, Aworinde và Olalelean Bashir (2011)
với đề tài “Sectoral Analysis of The Impact of Public Investment on Economic
Growth in Nigeria”, nhằm phân tích tác động của đầu tư công đến tăng trưởng
kinh tế của Nigeria. Phân tích hồi quy và kiểm đònh Unit root test được sử dụng
để kiểm tra tính ổn đònh của các biến được xem xét, nghiên cứu sử dụng bộ dữ
liệu hàng năm từ năm 1970 đến năm 2008. Qua phân tích tác động của các biến,
nghiên cứu khuyến nghò rằng Chính phủ nên tăng chi tiêu cho lónh vực sản xuất
như nông nghiệp, giáo dục, giao thông và thông tin liên lạc, giảm chi tiêu cho
quốc phòng [28].
- Marinas Marius-Corneliu, Socol Cristian và Socol Aura-Gabriela (2011) đã
nghiên cứu đề tài “The Impact of Public Investment on Economic Growth in
Romania”. Trong nghiên cứu này, tác giả sử dụng mô hình VAR để ước lượng
cường độ của những biến động đầu tư công lên tăng trưởng kinh tế ở Romania,
dữ liệu sử dụng theo quý từ năm 2000 đến năm 2010. Theo kết quả nghiên cứu,
1% tăng lên trong đầu tư công dẫn đến một sự tăng lên trong GDP khoảng 0,03%.
Như vậy, tăng chi đầu tư công không dẫn đến thổi bùng tăng trưởng kinh tế ở
Romania nên không phải là giải pháp để phục hồi nền kinh tế sau thời kỳ khủng
hoảng [24].
12
- Tác giả Rohan Swaby (2007) với đề tài “Public Investment and Growth in
Jamaica” nhằm tìm ra mối quan hệ giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế ở
Jamaica. Mối quan hệ được thiết lập bằng việc sử dụng mô hình VECM, sử dụng
bộ dữ liệu hàng quý từ năm 1994 đến năm 2006. Kết quả chỉ ra rằng mặc dù đầu
tư công có tác động dương đến tăng trưởng GDP nhưng tác động này là không
đáng kể [29].
- Tác giả Mohsin S.khan (1996) trong nghiên cứu “Government Investment and
Economic Growth in the Developing World” nhằm tìm ra mối quan hệ tác động
của đầu tư khu vực công và đầu tư khu vực tư nhân đến tăng trưởng kinh tế trong
dài hạn ở các nước đang phát triển. Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu của 95 nước
đang phát triển thời kỳ 1970-1990. Kết quả cho thấy có một sự khác biệt đáng kể
trong tác động của đầu tư công và đầu tư tư nhân đối với tăng trưởng kinh tế
trong đó đầu tư tư nhân có tác động đến tăng trưởng kinh tế nhiều hơn so với đầu
tư tư nhân [26].
- Các tác giả Bukhari, Ali và Saddaqat với đề tài “Public Investment and
Economic Growth in the Three Little Dragons: Evidence from Heterogeneous
Dynamic Panel Data” nhằm tìm ra mối quan hệ tác động giữa các biến vó mô
được chọn. Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu của 3 nền kinh tế năng động là Korea,
Singapore và Taiwan thời kỳ 1971-2000. Nghiên cứu chỉ ra rằng cả đầu tư công,
đầu tư tư nhân và chi tiêu khu vực công có tác động đến tăng trưởng kinh tế ở tất
cả các nước trong dài hạn [21].
Các nghiên cứu của tác giả trong nước
Trong nước, có khá nhiều nghiên cứu về đầu tư công và hiệu quả đầu tư công, tuy
nhiên còn thiếu những nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa đầu tư công và
13
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, dưới đây tác giả trình bày các nghiên cứu điển
hình có liên quan đến đề tài tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế.
- Nghiên cứu của TS.Tô Trung Thành (2011) với đề tài: “Đầu tư công “lấn át” đầu
tư tư nhân? Góc nhìn từ mô hình thực nghiệm VECM”. Mô hình cụ thể trong
nghiên cứu này, tác giả sử dụng mô hình VECM với ba biến số là: đầu tư khu
vực Nhà nước (GI), đầu tư khu vực tư nhân (PI) và GDP (Y), số liệu sử dụng từ
năm 1986 đến năm 2010 để ước lượng các hàm phản ứng và các hệ số co dãn.
Theo đó, hiện tượng đầu tư công “lấn át” đầu tư tư nhân được thể hiện rõ nét.
Trung bình cứ 1 thập niên, 1% tăng vốn đầu tư công ban đầu sẽ khiến đầu tư tư
nhân bò thu hẹp 0,48%. Đồng thời, tác động đến GDP của đầu tư công là thấp so
với tác động của đầu tư tư nhân. Bài viết hàm ý trong quá trình chuyển đổi kinh
tế, cần giảm dần tỷ trọng đầu tư công, đồng thời tăng cường mạnh mẽ hiệu quả
và chất lượng của đầu tư khu vực Nhà nước [17].
- Nghiên cứu của Ths. Ngô Lý Hóa (2008) với đề tài: “Tác động của đầu tư công
đến tăng trưởng kinh tế tỉnh Long An”. Trong nghiên cứu tác giả ứng dụng mô
hình Harrod-Domar để phân tích mối tương quan giữa đầu tư công và tăng trưởng
kinh tế tỉnh Long An. Mô hình cụ thể gồm 3 biến: đầu tư khu vực công (Ig), đầu
tư khu vực tư (Ip) và GDP, số liệu sử dụng từ năm 1987 đến 2007. Tác giả sử
dụng phương pháp bình phương bé nhất (OLS) để ước lượng các biến trong mô
hình. Kết quả, đầu tư công và đầu tư tư nhân đều tác động tích cực đến tăng
trưởng kinh tế của tỉnh, tuy nhiên đầu tư công tác động ít hơn đầu tư tư nhân [4].
- Tác giả Phan Thanh Tấn (2011) với đề tài “ Tác động của đầu tư công đến tăng
trưởng kinh tế tỉnh Bình Thuận” cũng ứng dụng mô hình Harrod-Domar để phân
tích mối tương quan giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế tỉnh Bình Thuận
14
[15]. Việc sử dụng các biến trong mô hình và kết quả mô hình cũng tương tự như
nghiên cứu của tác giả Ngô Lý Hóa.
Như vậy, các nghiên cứu trên của các tác giả trong và ngoài nước đều đi đến kết
luận rằng đầu tư công tuy có tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế, nhưng tác
động này là không đáng kể hoặc ít hơn so với đầu tư tư nhân.
1.5 Khái quát tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở một số nước
trên thế giới và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.5.1 Khái quát tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế ở một số
nước trên thế giới
- Đầu tư công ở Hy Lạp
Hy Lạp là quốc gia nằm ở Đông Nam Châu Âu, có nền kinh tế đứng thứ 28 trên thế
giới và là thành viên của OECD. Hy Lạp có nền kinh tế công-nông nghiệp khá hiện
đại. Trong khoảng 3 năm trở lại đây, Hy Lạp là quốc gia được nhắc đến nhiều nhất
trong cuộc khủng hoảng nợ công ở Châu Âu và Hy Lạp được xem là tấm gương điển
hình trong vấn đề sử dụng và quản lý đầu tư công không hiệu quả, là nguyên nhân
chính gây ra khủng hoảng nợ công ở nước này.
Hy Lạp có tốc độ tăng trưởng GDP khá nhanh, trung bình hàng năm là 4,3% giai
đoạn 2001-2007 so với mức trung bình của khu vực Eurozone là 3,1%. Tuy nhiên
trong giai đoạn này, mức chi tiêu Chính phủ tăng 87% trong khi mức thu của chính
phủ chỉ tăng 31% khiến cho ngân sách thâm hụt vượt quá mức cho phép 3% GDP
của EU. Đặc biệt, trong giai đoạn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007, 2008,
cuộc khủng hoảng này nổ ra đã ảnh hưởng khá mạnh đến các ngành công nghiệp
chủ chốt của Hy Lạp. Kinh tế Hy Lạp lâm vào tình trạng khó khăn, nguồn thu để tài
trợ cho NSNN bò co hẹp mạnh. Trong hoàn cảnh đó, Chính Phủ Hy Lạp chủ trương
15
tăng cường đầu tư công để kích thích kinh tế. Sự thái quá và lạm dụng đầu tư công
trong một nước có chính sách an sinh xã hội cao này đã trực tiếp dẫn đến gánh nặng
nợ công và thâm hụt NSNN, thậm chí đã trở thành cơn dòch đe dọa sự an toàn và
lành mạnh của khu vực Eurozone. Việc gia tăng quy mô đầu tư công đã gắn liền với
tình trạng kém hiệu quả trong sử dụng nguồn vốn đầu tư này. Đây là hệ quả của
chính sách chi tiêu công thiếu kiểm soát, thiếu minh bạch, vấn đề quản trò tài chính
công yếu kém. Hy Lạp là một trong những nước có tỷ lệ tham nhũng cao nhất trong
khu vực EU. Năm 2008, người Hy Lạp đã chi tới 750 triệu euro tiền hối lộ cho các
lãnh đạo khu vực công và khu vực tư. Tham nhũng mang tính hệ thống là vấn đề cơ
bản nhất dẫn đến tình trạng đầu tư công ở Hy Lạp ngày càng trở nên thiếu hiệu quả.
Thiệt hại mà tham nhũng gây ra cho Hy Lạp ước tính vào khoảng 8% GDP. Khi sự
thiếu minh bạch trong số liệu thống kê của Hy Lạp bò phát hiện cũng là lúc các nhà
đầu tư rút vốn ồ ạt khỏi các ngân hàng của Hy Lạp, đẩy quốc gia này vào tình trạng
khó khăn trong việc huy động vốn trên thò trường vốn quốc tế.
Nếu xét ở góc độ nguồn vốn, chủ yếu nguồn vốn cho đầu tư công là nguồn vay nước
ngoài. Hậu quả của tình trạng này làm cho nợ công của Hy lạp ngày một tăng, trở
thành 1 trong 10 nước nợ công lớn nhất thế giới, tỷ lệ nợ công tính đến đầu năm
2012 lên tới 172% GDP, trong khi mức cho phép của Eurozone đối với mỗi nước
thành viên là tổng nợ công không quá 60% GDP. Nếu xét về nội dung đầu tư công,
một hiện tượng không hợp lý và thiếu hiệu quả là tỷ lệ chi tiêu cho quản lý công
trong tổng số chi tiêu công của Hy Lạp từ năm 2004 đã cao hơn nhiều so với các
nước thành viên OCED khác, trong khi đó, chất lượng và số lượng dòch vụ không
được cải thiện nhiều. Trong đầu tư công, phần lớn các khoản vốn dành cho đầu tư cơ
sở hạ tầng, do đó đã tạo ra được sự hoàn thiện ở mức độ cao hệ thống cơ sở hạ tầng
16
kỹ thuật của đất nước. Tuy nhiên, do quản lý nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng không
tốt, nên hiệu quả đầu tư thấp. Điều này khiến Nhà nước phải dành một khối lượng
vốn cao hơn nhiều so với mức đáng có của nó[5].
- Đầu tư công ở Hàn Quốc
Hàn quốc là quốc gia thuộc khu vực Đông Á. Sau chiến tranh Triều Tiên, kinh tế
Hàn Quốc đã phát triển nhanh chóng. Cuối thế kỷ 20, Hàn Quốc là một trong những
nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất trong lòch sử thế giới hiện đại. GDP
bình quân đầu người của nước này đã nhảy vọt từ 100 USD từ năm 1963 lên mức kỷ
lục 10.000 USD vào năm 1995 và 25.000 USD vào năm 2007. Hiện nay, Hàn Quốc
có nền kinh tế phát triển, đứng thứ 3 ở Châu Á và đứng thứ 10 trên thế giới. Một
nghiên cứu gần đây của Goldman Sachs đã chỉ ra Hàn Quốc sẽ trở thành nước giàu
thứ 3 trên thế giới vào năm 2025 với GDP bình quân đầu người là 52.000 USD.
Đóng góp vào sự thành công trên con đường phát triển của Hàn Quốc phải kể đến
mô hình phát triển hỗn hợp với sự kết hợp một cách linh hoạt vai trò của Nhà nước
và tư nhân trong quá trình đầu tư phát triển.
Trong những năm từ 1960 đến 1980, để đẩy nhanh phát triển kinh tế thì vai trò của
khu vực Nhà nước cực kỳ quan trọng. Về lónh vực đầu tư, Nhà nước không chỉ đảm
nhận cho các lónh vực về cơ sở hạ tầng, an sinh, phúc lợi xã hội mà còn có vai trò
quan trọng trong đầu tư phát triển lónh vực kinh tế, trong đó, đầu tư vào các ngành
công nghiệp nặng được xem như là “sân chơi” của Nhà nước. Tuy vậy, theo xu
hướng phát triển của khu vực tư nhân, Nhà nước giảm dần vò trí đối với đầu tư cho
lónh vực kinh tế. Hiện nay, đầu tư công cho lónh vực kinh tế ở Hàn Quốc chỉ còn lại
là hỗ trợ, ưu tiên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như đầu tư cho lónh vực
ứng dụng công nghệ cao, công nghệ mới, đầu tư cho nghiên cứu khoa học. Hiện nay,
17
ở Hàn Quốc, trong lónh vực kinh tế, đầu tư vào lónh vực khoa học công nghệ được
xem là nhiệm vụ quan trọng nhất trong đầu tư công. Đặc biệt, từ năm 1993, để thực
hiện chiến lược phát triển các khu công nghệ cao, với mục tiêu mang tính dài hạn và
hướng nhiều đến lợi ích xã hội, các khu công nghệ cao của Hàn Quốc được xây
dựng và phát triển dựa trên 100% nguồn vốn Nhà nước, và được Nhà nước quản lý
theo nguyên tắc 50% vốn Trung ương và 50% vốn chính quyền đòa phương.
Lónh vực phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật là sân chơi chính của đầu tư công của Hàn
Quốc. Tuy vậy, lónh vực này hiện nay cũng được thay thế với tốc độ nhanh hơn của
khu vực tư nhân. Từ chỗ gần 100% các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, văn hóa, xã hội đều
được thực hiện bằng vốn đầu tư Nhà nước thì từ cuối thập niên 1990 đến nay, khu
vực tư nhân đã bắt đầu tham gia với quy mô ngày càng lớn.
Có thể nói một trong những thành công trong tái cơ cấu đầu tư công ở Hàn Quốc là
việc áp dụng hình thức hợp tác công tư (PPP). Việc thực hiện hình thức PPP ở Hàn
Quốc có tác dụng nhiều mặt. Một là, tăng hiệu quả sử dụng vốn do quản lý khu vực
tư nhân năng động, có thể dẫn tới tăng hiệu quả và giá trò của đồng vốn sử dụng vào
đầu tư. Hai là, tăng thêm các nguồn tài chính cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
kinh tế-kỹ thuật-xã hội so với trước kia chỉ thực hiện được từ nguồn vốn đầu tư công;
cuối cùng là mở rộng việc tái tạo ra tài sản và cung cấp dòch vụ công, cụ thể là giúp
gia tăng hệ thống cơ sở hạ tầng mà không cần có các khoản thêm vào từ các khoản
vay của Chính phủ [5].
1.5.2 Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ những thất bại trong đầu tư công ở Hy Lạp và những thành công trong đầu tư
công ở Hàn Quốc, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
18
- Xác đònh quy mô và cơ cấu đầu tư công hợp lý
Sự thái quá và lạm dụng đầu tư công của Hy Lạp là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
nợ công và thâm hụt ngân sách. Tham nhũng mang tính hệ thống ở Hy Lạp là hệ quả
của chính sách chi tiêu công thiếu kiểm soát chặt chẽ và thiếu minh bạch, vấn đề
quản trò tài chính công yếu kém và chi tiêu công bừa bãi. Bài học đặt ra cho Việt
Nam là Nhà nước cần xác đònh quy mô và cơ cấu đầu tư công để phân bổ cho các
ngành, các lónh vực và cần có cơ chế quản lý vốn đầu tư thích hợp.
- Chuyển đổi từ đầu tư công sang hình thức hợp tác công tư (PPP)
Bài học ở Hàn Quốc cho thấy hợp tác công tư là mở ra cơ hội, điều kiện huy động
nguồn vốn của khu vực tư nhân vào việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng và các lónh vực
khác như giáo dục, y tế, lónh vực nghiên cứu và ứng dụng, từ đó làm giảm gánh nặng
cho NSNN, thúc đẩy hoạt động của khu vực tư nhân.
Kết luận chương 1
Qua những lý luận cơ bản ở trên, có thể thấy đầu tư công có vai trò đặc biệt quan
trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư công giúp phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
cao, nâng cao mức sống dân cư, ổn đònh kinh tế vó mô và đóng góp đáng kể vào thực
hiện xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, đầu tư công cũng góp phần quan trọng vào
chuyển dòch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm; đònh vò và củng cố nền kinh tế đất
nước trong mối quan hệ với khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, bài học từ đầu tư công
của Hy Lạp và Hàn Quốc cũng cho thấy quản lý đầu tư công hiệu quả là thách thức
đối với các quốc gia.