Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Pháp luật, lối sống và văn hóa công sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.91 MB, 72 trang )

PGS. TS. NGUYỄN MINH DOAN
(Chủ biên)
PHÁP LUẬT, LÔI SỐNG
VÀ VẪN HÓA GÔNG sở
NHÀ XUẤT BẢN Tư PHÁP
HÀ NỘI-2011
TẠP THE TAC GIA:
1. TS. Bùi Thị Đào - Phần B (II, V)
2. PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan - Phần A; Phần B (I,
III, VI); Phần c
3. ThS. Nguyễn Văn Năm - Phần B (IV)
4
LỜI GIỚI THIỆU
Pháp luật là những chuẩn mực hành vi của các tổ chức
và cá nhân không thể thiếu và cùng quan trọng trong hầu
hết các lĩnh vực khác nhau của đời sông xã hội hiện nay.
Bíít kỳ một tổ chức, cá nhân nào, đặc biệt là các cơ quan
nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, cũng cần
phải sống, làm việc có văn hóa theo tinh thần các quy định
của pháp luật để hướng tới chân - thiện - mỹ.
Với tinh thần đó, cuôn sách "Pháp luảt, lối sống và
vân hóa công sở' đã được biên soạn nhằm làm cho phong
trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sông văn hóa", đi vào
chiều sâu, thiết thực, hiệu quả hơn, làm cho các chuẩn mực
văn hóa pháp luật thấm sâu vào mọi mặt đời sông trong
mỗi gia đình, mỗi cộng đồng dân cư, mỗi cơ quan, đơn vị,
doanh nghiệp.
Nội dung cuốn sách trang bị cho bạn đọc một số kiến
thức về pháp luật, sự cần thiết phải sống, làm việc theo
5
pháp luật, lôi sống theo pháp luật và văn hóa công sở ở


nước ta trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và mở cửa, hội
nhập quốc tế vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Trân trọng giói thiệu cuốn sách cùng bạn đọc!
Hà Nội, tháng 8/2011
NHÀ XUẤT BẢN TƯ PHÁP
6
PHẦN A. PHÁP LUẬT
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT
1. Quan niệm vế pháp luật, nguồn gốc và sự cần thiết
của pháp luật
Pháp luật là một hiện tượng xã hội khá phức tạp, nên
có thế xem xét pháp luật ở nhiều phương diện, cấp độ khác
nhau. Trong lịch sử đã tồn tại khá nhiều quan niệm khác
nhau về pháp luật, nguồn gốc của pháp luật, cũng như sự
cần thiết của pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội.
Theo quan niệm tôn giáo thì pháp luật do các lực lượng
siêu nhiên sáng tạo ra, cũng như họ đã sáng tạo ra con
người. Do vậy, pháp luật là ý muôn của Thượng đế, là ý
Chúa Các nhà làm luật, đặc biệt là vua, chúa chỉ dựa
theo ý muôn của các đấng linh thiêng nói trên để viết ra các
điều luật cho mọi người tuân theo.
Quan điểm khác lại cho rằng, pháp luật sinh ra như
một lẽ tự nhiên (con người sống cần phải có những quy tắc
7
P K ap luẶt) lôi sổVig v à văn k óa CÔH0 sả
xử Sự, do vậy, pháp luật sinh ra là quá trình tất yếu, tự
nhiên), cũng như sự xuất hiện của con người, loài người
như một quá trình phát triển tất yếu tự nhiên. Từ đó, họ

cho rằng “ở đâu có xã hội, ở đó có pháp luật”. Theo quan
niệm của người xưa, cái thường tình của lòng người là hễ
có thừa thì xa xỉ, không đủ thì dồ sẻn, không ngăn cấm thì
dâm đãng, không theo tiết độ thì sai lầm, buông thả lòng
dục thì hư hỏng. Có thể nói, sự ham muôn của con người là
vô độ cho nên cần phải tiết chế những ham muốn của con
người bằng những quy tắc của đạo đức, luân lý, lễ giáo và
pháp luật để ẩm thực phải có hạn lượng, y phục phải có
tiết chế, nhà cửa phải có pháp độ, súc tụ phải có số thường,
xe cộ và đồ dùng phải có ngữ, có hạn , xét đến cùng là để
giữ phòng nguồn loạn vậy. Do vậy, trong pháp luật bao giờ
cũng có những quy định cấm đoán (quy định những hành
vi mà các chủ thể không được phép thực hiện). Lẽ dĩ nhiên,
pháp luật chỉ cấm những gì có hại cho xã hội, có hại cho
giai cấp thông trị. Ngoài các quy định cấm, pháp luật còn
có những quy định bắt buộc (quy định vê các nghĩa vụ pháp
lý cho các chủ thể) và những quy định cho phép (cho phép
chủ thể có thể hành động theo một cách thức nhất định).
Như vậy, pháp luật là hiện tượng gắn liền vối xã hội, là
phương tiện để quản lý xã hội, duy trì trật tự xã hội. Pháp
luật là những tiêu chuẩn, quy tắc căn bản mà mọi người
phải tuân theo, được đặt ra đế điều chỉnh các hoạt động của
con người, phối hợp, thống nhất hoạt động của các tổ chức
8
P k ẩ « A P H Á P L U Â T
và cá nhân theo những mục đích nhất định, đồng thời còn
dùng để trừ khử những điều gian tà, bất chính vì công
bằng xã hội.
Một số học giả khác lại cho rằng, pháp luật đồng nghĩa
với công lý và công bằng. Theo họ, pháp luật là công lý, bao

gồm những quy định do nhà nước ban hành đại diện cho
công bằng xã hội, thể hiện sự đồng thuận của các thành
viên trong xã hội, nhằm thực hiện công lý, bảo vệ lợi ích cho
tất cả mọi thành viên trong xã hội. .
Quan diểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng, pháp
luật là hiện tượng có tính lịch sử, là sán phẩm của sự phát
triển xã hội. Pháp luật không phải là ý chí của thượng đế
hay của một lực lượng siêu nhiên nào ngoài trái đất gán
ghép vào xã hội, mà nó nảy sinh trong dời sông xã hội, là
kết quả của sự biến đổi xã hội từ xã hội mông muội, thấp
kém sang xã hội văn minh, phức tạp, từ xã hội không có
giai cấp sang xã hội có giai cấp. Theo quan điểm Mác -
Lênin thì trong xã hội nguyên thuỷ chưa có pháp luật, việc
quản lý, điều chỉnh các quan hộ xã hội khi đó được dựa vào
tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo , là những công cụ
điều chỉnh thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích chung của các
thành viên trong xã hội nên được mọi người thừa nhận và
tự giác tuân theo. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn
nhất định thì những công cụ như đạo đức, tập quán, tín
điều tôn giáo không còn khả năng hoặc không thể duy trì
quản lý xã hội như cũ được nữa, vì ý chí của các thành viên
9
luẠt> lối sôV\g và văn hóa cô n g sà
trong xã hội không còn thông nhất, lợi ích của các giai cấp
trong xã hội đã có sự khác biệt căn bản, thậm chí đôi lập
với nhau. Trong điều kiện đó, để giữ cho xã hội trong vòng
“trật tự\ đồng thòi bảo vệ được lợi ích của giai cấp mình,
giai cấp thống trị đã thông qua nhà nước tạo ra một công
cụ điều chỉnh mới là pháp luật. Như vậy, pháp luật ra đòi
do nhu cầu xã hội để quản lý một xã hội đã phát triển quá

phức tạp, đã xuất hiện những giai cấp có lợi ích đôi lập với
nhau và nhu cầu giai cấp để bảo vệ lợi ích cho giai cấp
thống trị về kinh tê và chính trị trong xã hội. Một cách
khái quát thì pháp luật ra đời và tồn tại gắn liền với xã hội
có giai cấp; là sản phẩm của sự phát triển xã hội vừa mang
tính khách quan (sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của xã hội)
vừa mang tính chủ quan (phụ thuộc ý chí nhà nước của
giai cấp thông trị). Theo c. Mác và F. Ảngghen thì pháp
luật chẳng qua là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên
thành luật, mà nội dung của ý chí đó là do điều kiện sinh
hoạt vật chất của giai cấp thông trị quyết định, cần chú ý
là khi nhà nưóc ra đời thì các hình thức tổ chức của con
ngưòi trước đó (thị tộc, bộ lạc) không còn tồn tại, nhưng
khi pháp luật ra đời, các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội
khác như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo vẫn song
song cùng tồn tại vói nó. Quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin cho rằng, pháp luật được hình thành chủ yếu bằng
hai con đường cơ bản sau: Thứ nhất, nhà nước tuyên bô'
(thừa nhận) một sô' quy tắc xử sự đã có sẵn trong xã hội
10
PU án A - P H ^ P L U Â t
như tập quán, đạo đức, tín điều tôn giáo thành pháp luật
và dùng quyền lực nhà nước bảo đảm cho chúng được tôn
trọng, được thực hiện. Nhà nước cũng có thể thừa nhận
sức mạnh pháp lý có tính quy phạm cho các quyêt định
(cách giải quyết) những vụ việc cụ thổ của các cơ quan nhà
nước.trưốc đó thành những khuôn mẫu để giải quyết
những trường hợp tương tự; thứ hai, nhà nưốc đặt ra
những quy tắc xử sự mới buộc các tổ chức và cá nhân phải
tuân theo. Những quy tắc này thường do các cơ quan nhà

nước có thẩm quyên đặt ra thông qua những trình tự, thủ
tục, hình thức nhất định.
Khoa học pháp lý hiện nay thường xem xét pháp luật ở
các cấp độ sau:
- Thứ nhất, theo nghĩa thông thường hay còn gọi là theo
nghĩa hẹp thì pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự
chung do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện, thể
hiện ý chí của nhà nước và là công cụ điều chỉnh các quan
hệ xã hội.
- Thứ hai, tiếp cận pháp luật từ phương diện thực định,
họ cho rằng pháp luật gồm tất cả các quy định pháp luật
được thể hiện trong các nguồn pháp luật của quốc gia.
Chẳng hạn, pháp luật Việt Nam gểm tất cả các quy định
pháp luật được thể hiện chủ yếu trong các văn bản quy
phạm pháp luật, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành.
1 1
"pKáp luật, lồi sô'r\g v à văn Kóa công SỎ
- Thứ ba, tiếp cận pháp luật theo nghĩa rộng, theo họ
pháp luật bao gồm tất cả các quy định pháp luật do nhà
nước ban hành, những tư tưởng, quan điểm, nguyên tắc
pháp luật và những vấn đề có liên quan mà chưa phải là
pháp luật thực định (Chẳng hạn, việc áp dụng pháp luật
tương tự ) được quốc gia thừa nhận và áp dụng.
Mặc dù có những cách tiếp cận khác nhau khi nói về
pháp luật, song tất cả các quan điểm đều thừa nhận rằng,
nói đến pháp luật thì bộ phận cốt lõi và chủ yếu, không thể
thiếu là các quy phạm pháp luật (các quy tắc xử sự chung).
Ngoài ra, trong pháp luật còn có những bộ phận khác
không phải là quy phạm pháp luật song những bộ phận đó

chỉ chiếm sô" lượng không lớn trong pháp luật.
Khái quát những quan niệm khác nhau về pháp luật có
thể định nghĩa pháp luật như sau: Pháp luật là hệ thống
các quy định, trong đó phổ biến và chủ yếu là các quy tắc
xử sự chung, do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện,
thể hiện ý chí của nhà nước và là công cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội uì lợi ích, mục đích của giai cấp thống trị,
vì sự tồn tại và phát triển của cả xã hội.
Về sự cần thiết của pháp luật đối với nhà nước, xã hội
và mỗi cá nhân đã được các nhà tư tưởng đê cập đến từ thời
cổ đại. Chẳng hạn, từ xa xưa phái Pháp gia ở Trung Quốc
với những ngưòi đại diện như Quản Trọng, Tử Sản, Thân
Bất Hại, Hàn Phi Tử đã nhấn mạnh đến sự cần thiết
12
VUầH A P H Á P l u A t
phải cai trị (quản lý) đất nước bằng pháp luật. Phái Pháp
gia đã nhận thấy rằng, muôh nước mạnh, phải tước bớt đặc
quyền của tầng lớp quý tộc, phải để cao pháp luật. Theo họ
thì: “Pháp là cái quy tắc của thiên hạ cho nên lấy pháp
luật mà chu phạt thì dân có chết cũng không oán, lấy pháp
lượng công thì dân nhận thưởng không có chịu ơn công
đức cho nên các quan cai trị sai khiến dân điều gì có
pháp luật thỉ dân theo, không có pháp luật thì dân không
theo nữa. Dân lấy pháp luật mà cùng với quan chống cự
nhau, người dưới với người trên lấy pháp luật mà cùng làm
công việc. Cho kẻ dối trá không được khinh chủ mình, kẻ
ghen ghét không được dùng lòng giặc cướp của mình, kẻ
dèm pha nịnh hót không được thi hành xảo quyệt, ơ ngoài
ngàn dặm không ai dám tự tiện làm điều phi pháp”. ‘ Phái
Pháp gia còn nhấn mạnh rằng: “pháp luật dù không hoàn

hảo cũng còn hơn không có pháp luật, vì nó có thể thống
nhất được lòng người".2
Theo Thương Ưởng, một người trong phái Pháp gia thì:
“Cai trị một nước có ba điều, một là pháp luật, hai là lòng
tin của dân, ba là quyền lực” và không chỉ cần phải có pháp
1 Quán Tử, trích theo Nguyễn Dăng Thục, Lịch sử triết học phương
Đông, Nxb. Thành phô' Hồ Chí Minh, 1991, Tập 2, tr.291.
2 Trích theo Lã Trân Vũ, Lịch sử tư tưởng chính trị Trung Quốc, Nxb.
Sự Thật, Hà Nội 1964, tr.182.
13
P K óp luột/ tói sổV
»0
và VÕKV hóa cổ n g St5
luật mà pháp luật phải được ban hành rõ ràng, dễ hiểu để
“kẻ ngu, người giỏi đều có thể hiểu được" mà thực hiện.
Hàn Phi Tử lại chủ trương dùng pháp luật làm công cụ
trị nước, đồng thời phải có uy quyền và thủ pháp cai trị để
bảo đảm cho pháp luật được tuân thủ và thi hành đúng.
Theo Hàn Phi Tử thì: Thế và thuật là những điều kiện
thiết yếu để bảo đảm cho pháp luật có hiệu lực (Pháp - Thê
- Thuật). Hàn Phi cho rằng, con ngưòi vốn ác nên phải
trừng phạt nghiêm khắc, phải cai trị họ bằng pháp luật với
những hình phạt nghiêm khắc. Pháp luật là hiện thân của
sức mạnh, là bạo lực để cai trị, chỉ có hình phạt nghiêm
khắc mới thiết lập được trật tự xã hội. Pháp luật phải là cơ
sở cho việc điểu hành nhà nưốc, pháp luật đốì với mọi người
đều như nhau. Ông viết: “Pháp luật không hùa theo người
sang, sợi dây dọi không uốn mình theo cây gỗ cong. Khi đã
thi hành pháp luật thì kẻ khôn củng không thể từ, kẻ dũng
củng không dám tranh. Trừng trị cái sai không tránh kẻ

đại thần, thưởng cái đúng không bỏ sót kẻ thất phu. Cho
nên điều sửa chữa được sự sai lầm của người trên, trị được
cái gian của kẻ dưới, trừ được loạn, sửa được điều sai,
thống nhất đường lối của dân không gì bằng pháp luật".'
Không chỉ ở phương Đông mà các nhà tư tưởng phương
Tây cũng luôn chú ý tới sự cần thiết phải có pháp luật, cai trị,
1 Xem: "Hàn Phi Tử của Hàn Phi", Người dịch Phan Ngọc, Nxb. Văn
học, Hà Nội, 2001, tr.61-62.
14
PU án A . P H Á P L IA Ặ T
quản lý xã hội bằng pháp luật. Chẳng hạn, Sô Lông thì chủ
trương tổ chức xã hội trên cơ sở pháp luật, xây dựng xã hội
dân chủ. Nhà triết học và toán học Pitago cho rằng, nhà nước
phải được tổ chức và tồn tại trên cơ sở những đạo luật công
bằng. Pháp luật là đại lượng bình đẳng, là mẫu số chung của
các hàm sô' khác nhau, là Gơ sở để điều chỉnh tất cả. Có như
vậy, xã hội mói có trật tự và ổn định. Bổn phận của con người
là tôn trọng thượng đế, cha mẹ và pháp luật. Nhà triết học
Democrit cho rằng, nhà nước và pháp luật xuất hiện như một
quá trình tất yếu, tự nhiên. Công bằng trong chính trị, pháp
luật, đạo đức là đặc trưng của sáng tạo tự nhiên hợp quy luật.
Nhà nước phải cai trị bằng luật pháp và mọi người phải tuân
thủ pháp luật. Nhà triết học Sôcrat thì chủ trương phân chia
pháp luật thành pháp luật tự nhiên và pháp luật thực định và
chúng đều giông nhau đó là lý trí. Luật và lẽ công bằng là một,
những người nắm quyền cai trị phải là những người có trí tuệ,
thông hiểu đòi sống và không nhất thiết phải là quý tộc.
Nhà triết học Platôn khẳng định: Sự cai trị phải gắn
liền với luật pháp và luật pháp phải công bằng. Pháp luật
công bằng là những quyết định của trí tuệ được thiết lập vì

lợi ích chung của nhà nước chứ không phải của một nhóm
nhỏ nào trong xã hội. Thể chê xấu nhất là bạo chúa, ở đó
không có pháp luật, chỉ có bạo lực và sự lộng quyền.1
1 Mokitreva.K.A (1971), Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới,
Bản dịch của Lưu Kiếm Thanh và Phạm Hồng Thái, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1993.
15
PK óp luột/ lôi sông và VÕK\ Kóa côr»g SỞ
Xuất phát từ những tư tưởng, quan điểm của các nhà
tư tưởng cổ đại về sự thống trị của pháp luật trong đời sống
nhà nước và xã hội; những ý tưởng về một nhà nước tôn
trọng và thực hiện pháp luật; về các nguyên tắc, hình thức,
cơ cấu đê thiết lập quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, tác động
qua lại giữa pháp luật với quyền lực chính trị; các cách
chông lại sự chuyên quyển, lộng quyền của nhà nước, của
các cá nhân cầm quyền; quan điểm về việc thực hiện sự
quản lý nhà nước và xã hội bằng pháp luật, bảo đảm sự
công bằng, bình đẳng trong đời sông chính trị - xã hội
Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, các tư tưởng về nhà nước
pháp quyền đã có sự phát triển mạnh mẽ và hình thành
học thuyết nhà nưốc pháp quyền với những quan điểm cơ
bản là: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân
dân là gốc của quyền lực; các quan hệ xã hội căn bản phải
được điều chỉnh bằng pháp luật, mọi người đều phải tuân
theo không có ngoại lệ; pháp luật phải có vai trò chủ đạo
trong điều chỉnh các quan hộ xã hội, trong đó tính tối cao
thuộc về hiến pháp và luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện
trên thực tế các quyền, tự do cơ bản của công dân; có sự
phân công, kiểm soát và chê ước lẫn nhau giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành

pháp và tư pháp; bảo đảm chế độ trách nhiệm qua lại giữa
nhà nước và công dân; bảo đảm sự độc lập của toà án Các
quan điểm về nhà nước pháp quyền đều đề cập đến mối
quan hệ giữa nhà nước với pháp luật và với công dân trên
16
P M * A P H Á P L U A t
tinh thần: Nhà nước phải đề cao chủ quyền nhân dân, phải
tôn trọng, bảo vệ các quyền, tự do của con người và bảo
đảm thực hiện các quyền, tự do đó, đồng thời nhà nước phải
chịu trách nhiệm trước công dân và ngược lại; pháp luật
phải có tính tối thượng, là công cụ quản lý xã hội mang tính
tối cao, việc quản lý nhà nước và xã hội trưóc hết và quan
trọng nhất là bằng pháp luật, mọi tổ chức và cá nhân đặc
biệt là nhà nước, các cơ quan nhà nước đều phải tôn trọng
và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật; pháp luật phải luôn
phù hợp với quy luật khách quan, có tác dụng thúc đẩy xã
hội phát triển vì hạnh phúc của con người
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự tồn tại của pháp luật
cũng là tất yếu khách quan bởi những lý do cơ bản sau: thứ
nhất, xã hội xã hội chủ nghĩa được thoát thai từ chính xã
hội cũ, do đó về mọi phương diện như kinh tế, đạo đức và
tinh thần vẫn còn mang dấu vết của xã hội cũ mà từ đó
nó đã sinh ra nên vẫn cần pháp luật để hạn chế, loại bỏ
những hình thức kinh tế tư hữu, tác động làm xuất hiện và
phát triển những hình thức kinh tế mới, chuyển đổi, cải tạo
xã hội cũ, xây dựng phát triển xã hội mới tốt đẹp hơn ; thứ
hai, xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn là xã hội có giai cấp nên
vẫn cần phải được quản lý bằng pháp luật, cần phải dùng
pháp luật để giữ gìn trật tự xã hội, giải quyết những xung
đột, tranh chấp trong xã hội Như vậy, về mặt vật chất,

pháp luật vẫn còn tồn tại với tư cách là yếu tô" điều tiết
(quyêt định) việc phân phối sản phẩm và định mức lao
17
PK óp luẠt, lôì Sống và văn hóa eôrxg sở
động giữa những thành viên trong xã hội; về mặt xã hội,
vẫn cần có pháp luật để củng cố và’ hình thành những
nguyên tắc dân chủ xã hội chủ nghĩa, quy định quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm cho các tổ chức và các cá nhân, thiết
lập trật tự trong các quan hệ xã hội, trong quan hệ gia
đình, trong đời sống sinh hoạt cộng đồng, bảo vệ chế độ xã
hội, chế độ nhà nước, những thành quả của cách mạng
Về mặt tinh thần, nhu cầu cần tồn tại pháp luật đã được
V.I. Lênin nhấn mạnh:
“nếu không rơi vào không tưởng thì
không thể nghĩ rằng sau khi lật đổ chủ nghĩa tư bản, người
ta sẽ tức khắc có thể làm việc cho xã hội mà không cần phải
có tiêu chuẩn pháp luật nào cả, hơn nữa, việc xoá bỏ chủ
nghĩa tư bản không thể đem lại ngay được những tiền đề
kinh tế cho một sự thay đổi như vậy”1.
Như vậy, do đòi hỏi của cuộc đấu tranh giai cấp, nhu
cầu cải tạo, tổ chức, xây dựng và quản lý xã hội mới, giai
cấp cồng nhân và nhân dân lao động vẫn phải cần tới pháp
luật. Vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định:
“Quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo
lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực hiện
thống nhất trong cả nước”, Đảng Cộng sản Việt Nam còn
nhấn mạnh, “mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải
sống và làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn
1 Xem: V.I. Lênin toàn tập, tập 33, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.116.

18
P M n A . P H ^ P L IA Ậ T
trọng pháp luật. Không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền
thế đ ể làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải được xử
lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử theo pháp luật,
Cấm bao che hành động phạm pháp và người phạm pháp
dưới bất cứ hình thức nào”.1
Vì vậy, trong các bản hiến pháp của Việt Nam luôn quy
định: Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không
ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn
vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh
chấp hành hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và
chống các tội phạm, các vi phạm hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tập thê và của công dân đều bị xử
lý theo pháp luật.
2. Bản chất của pháp luật
Bản chất của pháp luật là vấn đề quan trọng và phức
tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tô' khác nhau nên tồn tại
nhiều quan điểm và quan niệm khác nhau vê bản chất của
pháp luật.
• Pháp luật là một hiện tượng quan trọng và phức tạp
1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội 1987, tr.120-121.
19
P k ấ p luột/ lốỉ sông v à vãn Kóa cÓKv<g SỞ
írong đờỉ sổh# *ã /lội. Pháp luật xuất hiện khi xã hội đã
phát triển tương đôi cao, sự ra đời và tồn tại của pháp luật
là một bưóc tiến của văn minh và văn hoá trong việc điều

chỉnh các quan hệ xã hội của đời sông cộng đồng con ngrròi.
Pháp luật là công cụ, phương tiện điều chỉnh các quan hệ
xã hội, xuất hiện do nhu cầu của đời sôYig cộng đồng của
con người, thể hiện quan điểm, quan niệm của con người về
lối sông, sinh hoạt, về việc giải quyết tranh chấp, mâu
thuẫn phát sinh trong xã hội. Pháp luật là căn cứ bảo đảm
tự do, bình đẳng, an ninh, an toàn và tiến bộ trong xã hội.
Sự tồn tại của pháp luật đáp ứng nhu cầu được bảo vệ. được
che chở của mỗi con người cũng như mỗi cộng đồng trong
xã hội. Trong xã hội có giai cấp, tự do, quyền, nghĩai vụ
pháp lý của mỗi ngươi, mỗi cộng đồng đều do pháp luật quy
định. Do vậy, tự do của con người trong cuộc sông, trong lao
động, sáng tạo về căn bản được pháp luật bảo đảm. p háp
luật được xem như “thần công lý” bảo vệ, che chở cho ri-hân
dân. Vì vậy, từ xa xưa nhà triết học biện chứng Hi Lạp
Heraclit đã nhắc nhở nhân dân phải đấu tranh bảo vệ p háp
luật như bảo vệ chôn nương thân của mình.
Pháp luật được ban hành vói mục đích mang lại lợi ích
cho con người, vì con người, mang tính nhân văn sâu sắc.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiên, pháp lluật
thường khinh miệt con người, nhâ't là những người :hiuộc
tầng lốp dưới của xã hội, thậm chí ở nhiều nước pháp lluật
coi trọng tài sản hơn tính mạng con người. Ngày nay, pháp
20
PM« A.
m Á P
l u A t
luật từng bước coi trọng con người, con người được coi là giá
trị cao nhất trong xã hội. Pháp luật bảo vệ danh dự, nhân
phẩm, tài sản của con người. Pháp luật không chỉ bảo vệ

người bị hại, trừng trị người VI phạm các quy định pháp luật
mà còn bảo vệ người vi phạm khỏi sự trả thù của những
người bị hại. Không chỉ bảo vệ con ngưòi, tài sản, lợi ích của
con người, pháp luật còn bảo vệ cả một sô"loài động, thực vật
trên trái đất, bảo vệ môi trường sông của con người.
Nói tới pháp luật là nói tới công lý, công bằng (mặc dù
công lý, công bằng chỉ có tính chất tương đốì, bởi chúng phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của lực lượng cầm quyền và điều
kiện để thực hiện chúng), ớ một chừng mực nhất định nào
đó, pháp luật là biểu hiện của công ỉý, công bằng của xã hội
đương thòi. Các tranh chấp, mâu thuẫn trong xã hội nếu
dựa vào các phương tiện khác không giải quyết được thì
phải dựa vào pháp luật.
Giá trị xã hội to lớn của pháp luật còn thể hiện ở chỗ
pháp luật vừa là chuẩn mực, thước đo của hành vi con
người, vừa là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội, kiểm
soát sự phát triển xã hội, kiểm nghiệm các quy trình, các
hiện tượng xã hội, đưa đến cho con người lượng thông tin
nhất định về các giá trị và các yêu cầu của xã hội.
- Pháp luật vừa có tính cụ thể vừa có tính trừu tượng.
Tính cụ thể của pháp luật thể hiện thông qua các quy
phạm pháp luật (thông thường các quy phạm pháp luật
được trình bày rất ngắn gọn, rõ ràng, chính xác, một
2 1
P h á p \uậị, lối sáVi0 v á vãn kóa C-Ông sả
nghĩa). Tính trừu tượng của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp
luật không phải bao giờ cũng cụ thể bởi pháp luật được áp
dụng trên phạm vi toàn quốc gia, với các nhóm xã hội, giai
tầng, cá nhân ở những khu vực khác nhau, trong rất nhiều
những tình huống cụ thể khác nhau của đời sống xã hội. Do

vậy, trong một sô" trưòng hợp nội dung của pháp luật chỉ có
thể là những nguyên tắc chung (trừu tượng), còn tuỳ vào
từng trường hợp cụ thể sẽ có những phương án cá biệt, cụ
thể hoá những nguyên tắc đó cho phù hợp. Chẳng hạn,
nguyên tắc bình đẳng của công dân trưóc pháp luật sẽ được
áp dụng linh hoạt vào mỗi trường hợp cụ thể.
- Pháp luật vừa có tính khách quan vừa có tính chủ
quan. Tính khách quan của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp
luật sinh ra do nhu cầu đòi hỏi của xã hội, phải phản ánh
đúng nhu cầu khách quan của xã hội, xuất phát từ thực tế
cuộc sổng, phù hợp vối thực tế cuộc sông. c. Mác cho rằng,
Nhà làm luật phải tự coi mình như một nhà sinh vật
học. Họ không làm ra luật, không sáng tạo ra luật mà chỉ
thể thức hóa luật. Chúng ta sẽ phải chê trách nhà làm luật
về sự tuỳ tiện nếu như ông ta thay thế bản chất của sự việc
bằng nhiều điểm bịa đặt”'.
Như vậy, nhà làm luật không tự mình làm ra luật,
không phát minh ra luật, mà chỉ ghi nhận những quy luật
1 c. Mác-Ph.Ăng ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1995, tr.232.
22
P K án A P H Á P L U Ậ T
phát triển của xã hội bằng những ký tự được gọi là quy
phạm pháp luật. Tính chủ quan của pháp luật thể hiện ở
chỗ pháp luật phụ thuộc vào ý chí của nhà nưóc, xuất phát
từ lợi ích của nhà nước, giai cấp, dân tộc Nhà nưóc thông
qua các cơ quan có thẩm quyền ban hành ra các quy định
pháp luật để ghi nhận, bảo vệ và phát triển chúng. Nhà
nước “tựa hồ như đứng trên xã hội”, buộc cả xã hội phải
phục tùng pháp luật, tức phục tùng ý chí nhà nước.

Có thể nói, bất luận trong khía cạnh nào, thì pháp luật
cũng là sự nhận thức chủ quan của con người đốì với thế
giới khách quan, con người nhận thức tồn tại xã hội rồi đưa
ra các quy tắc xử sự chung phản ánh, tác động lại và cải
biến tồn tại xã hội.
- Pháp luật vừa có tính xã hội vừa có tính giai cấp. Hầu
hết các học giả thường chỉ nhấn mạnh đến tính xã hội (vai
trò và giá trị xã hội) của pháp luật và thường tìm cách lẩn
tránh không nói đến tính giai cấp của nó. Chỉ những người
theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì mối công khai thừa nhận
và nhấn mạnh đến tính giai cấp của pháp luật. Theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì pháp luật ra đời và tồn
tại gắn liền với xã hội có giai cấp, nó là sản phẩm của sự
phát triển xã hội vừa mang tính khách quan (sinh ra do
nhu cầu đòi hỏi của xã hội, phản ánh đống nhu cầu khách
quan của xã hội, xuất phát từ thực tế cuộc sông, phù hợp
vói thực tế cuộc sông) vừa mang tính chủ quan (phụ thuộc
ý chí của nhà nưỏc, xuất phát từ lợi ích nhà nước, dân tộc,
23
P K óp \uẠị, lối sôVvg và văn Kóa cổ n g s<5
giai Cấp (đặc biệt là lợi ích và mục đích của giai cấp thống
trị) mà ban hành ra các quy định pháp luật).
+ Tính xã hội của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật là
một hệ thống các quy tắc xử sự chung được tạo ra để điều
chỉnh các quan hệ xã hội xuất phát từ nhu cầu của đời sông
chung của con người, nên nó thể hiện tính xã hội to lớn.
Pháp luật là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội mang
tính quy phạm và tính bắt buộc chung để tổ chức và quản
lý đời sông cộng đồng, duy trì sự ổn định xã hội vì lợi ích
chung, vì sự tồn tại và phát triển của cả xã hội. Có thể nói,

pháp luật là chuẩn mực chung của xã hội, đại diện cho công
bằng xã hội. 0 phương diện này, pháp luật là sự đồng thuận
của cả xã hội, thể hiện ý chí và đem lại lợi ích cho toàn xã
hội. Trong xã hội hiện đại, sự phụ thuộc của con người vào
nhau nhiều hơn nên tính xã hội của pháp luật cũng ngày
càng được củng cô", mở rộng và phát triển hơn. Tính xã hội
của pháp luật không chỉ bó hẹp trong một quốc gia mà còn
mở rộng tác dụng đốĩ với lợi ích của các quốc gia khác và của
toàn nhân loại nói chung. Điều này biểư hiện ở chỗ ngày
nay có nhiều quy định pháp luật được áp dung chung cho
tất cả các quốc gia, dân tộc vì lợi ích chung của cả loài người.
+ Tính giai cấp của pháp luật thể hiện ở chỗ pháp luật
do nhà nước ban hành, mà quyền lực nhà nước lại nằm
trong tay giai cấp thống trị là chủ yếu. Do vậy, ý chí mà
pháp luật thể hiện chủ yếu là ý chí của giai cấp thông trị
(trong chủ nghĩa xã hội thì đó là ý chí của nhân dân). Giai
24
VUầrx jA. P -H Á P L l^ Ậ T
cấp thông trị đã thông qua nhà nước đổ hợp thức hoá ý chí
của giai cấp mình thành ý chí nhà nước dưới dạng các quy
tắc xử sự chung bắt buộc toàn bộ xã hội phải thực hiện.
Trong xã hội có giai cấp tồn tại nhiều loại quy phạm khác
nhau, thể hiện ý chí và nguyện vọng của các giai cấp, các
lực lượng xã hội khác nhau, nhưng chỉ có một hệ thông
pháp luật thống nhất chung cho toàn bộ xã hội, thể hiện ý
chí của giai cấp thông trị một cách đầy đủ và sâu sắc.
Tính giai cấp của pháp luật còn thể hiện ở mục đích
điểu chỉnh các quan hệ xã hội, pháp luật luôn bảo vệ lợi ích,
thực hiện mục đích của giai cấp thông trị, pháp luật là một
tron g những vũ khí chính trị giai cấp mà giai cấp thông trị

dùng để chống lại các giai cấp khác, duy trì sự thống trị của
giai cấp mình. Với ý nghĩa đó, pháp luật chính là một trong
những công cụ để thực hiện sự thông trị giai cấp. Tuy
nhiê n, pháp luật không chỉ thể hiện ý chí và bảo vệ lợi ích
của giai cấp thông trị, ở những mức độ nhất định, pháp
luật còn thể hiện ý chí và quan tâm đến lợi ích của các giai
cấp và tầng lớp khác trong xã hội.
Ngoài việc bảo vệ lợi ích của giai cấp thông trị, pháp
luật còn là phương tiện để bảo vệ lợi ích của quổc gia, dân
tộc, đấu tranh chông lại sự xâm hại từ bên ngoài đối với lợi
ích của đất nước.
Như vậy, cũng như nhà nước, pháp luật vừa mang tính
xã hội, vừa mang tính giai cấp. Hai thuộc tính này của
2 5
P K áp luột/ lối sõVvg và văn ịr\óa công sc5
pháp luật luôn có mốì liên hệ mật thiết với nhau. Không
có pháp luật chỉ thể hiện duy nhất tính giai cấp và ngược
lại, cũng không có pháp luật chỉ thể hiện tính xã hội. Tuy
nhiên, tính giai cấp và tính xã hội của các kiểu pháp luật
khác nhau thì khác nhau và sự biểu hiện của chúng cũng
khác nhau, thậm chí trong cùng một kiểu pháp luật nhưng
ở mỗi thời gian phát triển khác nhau thì các thuộc tính
của pháp luật có thể cũng khác nhau. Chúng biến đổi tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, đạo đức, quan điểm,
đường lối và các trào lưu chính trị - xã hội trong mỗi nước,
ở một thời kỳ lịch sử nhất định. Xu hướng chung thì tính
giai cấp của pháp luật ngày càng được thể hiện kín đáo
hơn, còn tính xã hội thì được củng cố, mở rộng và phát
triển mạnh mẽ hơn.
Từ những phân tích trên cho thấy, pháp luật là hệ

thông các quy định do nhà nưốc ban hành và bảo đảm thực
hiện, thể hiện ý chí nhà nước của giai cấp thống trị trong
xã hội, là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội để bảo vệ
lợi ích, thực hiện mục đích của giai cấp thống trị, đồng thòi
duy trì sự tồn tại và phát triển vì lợi ích của cả xã hội.
- Pháp luật còn có tính dân tộc, tính mở. Pháp luật
mang trong mình những cái riêng của mỗi quốc gia, dân
tộc. Mỗi quổíc gia, dân tộc nhìn nhận các vấn đề có sự khác
nhau nên cùng một hiện tượng nhưng mỗi quốc gia, dân tộc
có cách giải quyết, ứng xử đối với các vấn đề đó là khác
26
P k á * A . P H Á P L U Ậ T
nhau. Bên cạnh đó, pháp luật cũng chứa trong nó những
cái chung của con người, cộng đồng người và của cả nhân
loại. Nhiều quy định trong pháp luật quốc gia không chỉ vì
lợi ích của quốc gia mình mà còn vì lợi ích chung của con
ngưòi, của loài người. Chính vì vậy, pháp luật của mỗi nước
cũng luôn có sự tiếp thu, tiếp biến những giá trị nhân văn
từ pháp luật của các nước khác, các dân tộc khác.
3. Chức nãng của pháp luật
Chức năng của pháp luật là những phương diện (mặt)
tác động của pháp luật, thế hiện bản chất, điều kiện tồn tại
thực tế và giá trị xã hội của pháp luật. Chức năng của pháp
luật được hình thành từ sự tác động của pháp luật bằng
con đường nhà nước tới các lĩnh vực của đòi sống xã hội vì
những mục đích nhất định. Pháp luật có nhiều phương
diện tác động tối các quan hệ xã hội, do vậy hình thành
nhiều chức năng xã hội khác nhau. Nội dung, phạm vi các
chức năng của pháp luật có thể thay đổi theo sự thay đổi
về cơ sở kinh tế - xã hội và các bảo đảm của pháp luật ở mỗi

giai đoạn.
- Chức năng phản ánh. Pháp luật thể hiện quá trình
nhận thức chủ quan về nhu cầu khách quan của đòi sống
xã hội. Pháp luật phản ánh cóc đặc điểm, trạng thái vận
động của các quan hệ kinh tế và nền tảng xã hội. Pháp luật
cũng ghi nhận, phản ánh ý chí nhà nưóo của giai cấp cầm
quyền trong việc điều chỉnh, xác lập trật tự xã hội theo
27

×