1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau khi Cách mạng thành công, nhân dân các bộ tộc Lào dưới sự lãnh
đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào giành được quyền làm chủ đất nước
và trong ngày mồng 2 tháng 12 năm 1975 đã thành lập nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân (CHĐCN) Lào. Đó là nhà nước kiểu mới - Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực
thuộc về nhân dân.
Để đảm bảo quyền làm chủ đất nước của nhân dân các bộ tộc Lào và
đáp ứng những yêu cầu mới trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà
nước rất quan tâm đến vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan
quyền lực nhà nước (quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp). Quốc hội là một
trong ba quyền lực đó. Quốc hội có chức năng và vị trí rất quan trọng. Quốc
hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhà nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Lào. Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và pháp luật, quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước và có quyền giám sát tối cao đối với
toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Theo chủ trương và đường lối của Đảng Nhân dân Cách mạng
(NDCM) Lào là xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)
của dân, do dân và vì dân, từng bước quản lý nhà nước bằng pháp luật, yêu
cầu đó đòi hỏi phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao chất
lượng hoạt động của Quốc hội, trong đó chức năng lập pháp phải được đẩy
mạnh hơn nữa để đáp ứng yêu cầu mới của Đảng và Nhà nước, để thể hiện
chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật phù hợp với đời sống xã hội
hiện nay.
2
Uỷ ban pháp luật là một trong những cơ quan của Quốc hội có chức
năng nhiệm vụ tham mưu cho Quốc hội trong công tác lập pháp, giám sát và
quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Uỷ ban pháp luật phải được
nâng cao chất lượng về tổ chức và hoạt động nhằm làm tốt chức năng nhiệm
vụ của mình, làm sáng tỏ, phát huy những giá trị của dân chủ đại diện, đảm
bảo quyền lực thuộc về nhân dân.
Vì vậy, nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để tiếp tục nâng cao chất
lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào là đòi hỏi cấp bách cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Bởi
vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban
pháp luật của Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay vấn đề nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội nói
chung và nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật nói riêng đã và
đang được các nhà nghiên cứu khoa học Lào và Việt Nam quan tâm đến,
nhưng vấn đề này ở Việt Nam không phải là vấn đề mới vì có nhiều nhà nghiên
cứu khoa học nghiên cứu từ lâu. Ở Lào, vấn đề này là vừa được nghiên cứu
chính thức chỉ là một số công trình nghiên cứu khoa học đề cập đến trong vài
năm vừa qua.
Những công trình khoa học nghiên cứu đến đề tài này như sau:
- Tổ chức và hoạt động của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. CTQG, năm 1993.
- Quyền giám sát tối cao của Quốc hội, luận án tiến sỹ (1995) của
Phạm Ngọc Kỳ, Viện Nhà nước và pháp luật.
- Nhân dân lao động thực thi quyền lực chính trị thông qua cơ quan
dân cử của Nguyễn Viết Bé, Nxb. CTQG, Hà Nội năm 1998.
3
- Chức năng lập pháp của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, luận văn thạc sỹ (1998) của Phạm Thị Tình, trường Đại học Luật
Hà Nội.
- Hoàn thiện quy trình xem xét, quyết định các vấn đề quan trọng của
đất nước trong hoạt động của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, luận văn thạc sỹ (2001) của Nguyễn Quốc Thắng, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Đổi mới tổ chức bộ máy Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, luận văn thạc sỹ (2001) của Trần Thị Thanh Mai, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nâng cao chất lượng và hiệu lực của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam, luận văn thạc sỹ (2002) của Nguyễn Thị Dung,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Tăng cường vai trò của Quốc hội trong việc đảm bảo quyền lực chính
trị của nhân dân lao động ở nước CHDCND Lào, luận văn thạc sỹ (2004) của
Xải U Phun Xả Ly, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nhìn chung những công trình trên đã đề cập đến khía cạnh của hoạt
động Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, tiếp thu những kết quả đó, luận văn
nghiên cứu một cách hệ thống toàn diện vấn đề nâng cao chất lượng hoạt
động của Quốc hội theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân và vì dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu cả lý luận và thực tiễn về tổ chức và
hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, đề xuất những phương hướng
nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, góp
phần vào việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân ở nước CHDCND Lào.
4
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc nâng cao chất lượng hoạt động của
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội.
- Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của Uỷ ban pháp luật của
Quốc hội trong công cuộc đổi mới hiện nay.
- Đề xuất những phướng hướng và giải pháp tiếp tục nâng cao chất
lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu luận văn là hoạt động của Uỷ ban pháp luật của
Quốc hội nước CHDCND Lào.
- Thời gian xem xét chủ yếu là từ năm 2002 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, chủ trương đường lối đổi mới
của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của
triết học Mác Lênin, phương pháp lôgíc kết hợp với lịch sử, phương pháp
phân tích và tổng hợp, khảo sát thực tiễn so sánh, điều tra xã hội học…
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Đánh giá rõ thực trạng chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của
Quốc hội nước CHDCND Lào hiện nay.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu, cần thiết có tính khả thi nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào.
7. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn sẽ góp phần hoàn thiện về phương diện lý luận về việc nâng
cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND
5
Lào trên cơ sở góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do
dân và vì dân.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu và
giảng dạy về nhà nước và pháp luật trong các trường đào tạo cán bộ của Đảng và
Nhà nước về nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 9 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
CỦA UỶ BAN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA UỶ BAN PHÁP LUẬT CỦA
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
1.1.1. Sự hình thành của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào là đất nước có lịch sử vẻ vang trên con
đường đấu tranh chống ngoại xâm, nhiều thế hệ sinh sống có lòng yêu nước,
hy sinh dũng cảm để giành độc lập tự do cho dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng NDCM Lào phong trào cách mạng Lào từng bước lớn mạnh, trải qua
nhiều năm đấu tranh ác liệt gian khổ nhân dân Lào đã giành được độc lập tự
do, từ địa vị nô lệ, nhân dân các bộ tộc Lào đã được làm chủ đất nước, lật đổ
chính quyền cũ và giành được chính quyền về tay mình. Tại Đại hội đại biểu
nhân dân toàn quốc lần thứ nhất khai mạc trọng thể tại Thủ đô Viêng Chăn từ
ngày mồng 1 - 2 / 12 / 1975 nhân dân Lào đã tuyên bố với thế giới sự ra đời
của nước CHDCND Lào và khẳng định ý chí và nguyện vọng của nhân dân
6
các bộ tộc Lào là chấm dứt chế độ cũ. Đại hội đã nhất trí đơn xin thoái vị của
Vua, đơn xin giải thể Hội đồng quốc gia chính trị Liên hiệp và Chính phủ liên
hiệp lâm thời. Đại hội đã thông qua nghị quyết về tên Nhà nước, quốc kỳ,
quốc huy, quốc ca, ngôn ngữ và chính thức tổ chức Nhà nước [33, tr.1004].
Cơ cấu quyền lực nhà nước tối cao đầu tiên của nước CHDCND Lào
do Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ nhất bầu ra và thông qua vào
ngày 2 tháng 12 năm 1975. Hệ thống chính trị cách mạng đầu tiên của nước
CHDCND Lào được tổ chức và hoạt động theo cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ". Các bộ phận cấu thành trong hệ thống
chính trị gồm có: Đảng, Nhà nước, Hội đồng nhân dân tối cao, Mặt trận Tổ
quốc Lào và các tổ chức quần chúng, trong cấu trúc đó bộ phận chiếm vị trí
quan trọng nhất là Hội đồng nhân dân (HĐND) tối cao
Cơ cấu Nhà nước đầu tiên của nước CHDCND Lào gồm có:
- Chủ tịch nước CHDCND Lào.
- Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội).
- Hội đồng Bộ trưởng (Chính phủ).
Chủ tịch nước là nguyên thủ quốc gia, là người tượng trưng cho sự
đoàn kết, thống nhất các bộ tộc Lào trên cả nước, là người thay mặt nhân dân
trong quan hệ quốc tế. Chủ tịch nước đồng thời là Chủ tịch Hội đồng nhân dân
tối cao.
Dựa vào thực tiễn của đất nước, CHDCND Lào đầu tiên được tổ chức
theo quy định tại Điều 1 của Luật tổ chức Hội đồng nhân dân tối cao đầu tiên
1978 (khi đó chưa có Hiến pháp) đã quy định:
- Quốc gia: chia thành tỉnh - thành phố;
- Tỉnh chia thành huyện;
- Huyện: chia thành xã.
- Xã: chia thành làng (bản).
7
Hệ thống tổ chức Hội đồng nhân dân tối cao đầu tiên của nước
CHDCND Lào được thiết lập theo 4 cấp như sau:
- Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội);
- Hội đồng nhân dân tỉnh - thành phố;
- Hội đồng nhân dân huyện;
- Hội đồng nhân dân xã.
Hội đồng nhân dân tối cao khóa I hoạt động với nhiệm kỳ đặc biệt kéo
dài gần 14 năm (1975 - 1889), được tổ chức và hoạt động trong điều kiện cả
nước vừa phải hoàn thành cách mạng giải phóng, thống nhất đất nước, vừa
thực hiện từng bước cải cách dân chủ, hoàn thiện bộ máy nhà nước để góp
phần quan trọng vào thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Số đại biểu Hội đồng nhân dân tối cao (Quốc hội) khóa I được bầu gồm
45 đại biểu, trong đó có 4 đại biểu nữ, 1 Chủ tịch, 4 Phó Chủ tịch và 1 Tổng
Thư ký thường trực, 13 ủy viên thường vụ và có 3 ủy ban: ủy ban dự án hiến
pháp, ủy ban dự án nghị định sắc lệnh - Luật bầu cử và ủy ban Kế hoạch và
ngân sách; đồng thời còn có Văn phòng giúp việc Quốc hội. Với trách nhiệm
là đại biểu của nhân dân, Quốc hội thực sự trở thành nơi phản ánh mọi tâm tư,
nguyện vọng của nhân dân. Các đại biểu Quốc hội được nhân dân bầu ra thực
sự trở thành người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của nhân dân, thay mặt nhân
dân thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân các bộ tộc Lào.
Hội đồng nhân dân tối cao khóa II được bầu ngày 26 tháng 03 năm
1989 có số đại biểu là 79, trong đó có 5 đại biểu nữ. HĐND Tối cao khóa II
ngoài các chức danh Chủ tịch, Phó Chủ tịch còn có thêm Uỷ ban thường vụ
(UBTV) và các ban phụ trách các lĩnh vực quan trọng của đất nước trong đó
có Uỷ ban pháp luật.
8
Chủ tịch HĐND Tối cao khóa II không kiêm chức Chủ tịch nước như
khóa I, chỉ phụ trách vụ của mình đó là cơ quan lập pháp tối cao. HĐND Tối
cao khóa II được tổ chức và hoạt động trong giai đoạn đổi mới đất nước, thực
hiện vai trò trọng yếu trong việc thể hiện hóa những chủ trương đường lối của
Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ IV, HĐND Tối cao đã ban hành Hiến pháp,
Hiến pháp đầu tiên của nước CHDCND Lào và 22 đạo luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội theo từng lĩnh vực cụ thể.
Hệ thống tổ chức HĐND Tối cao khóa II được tổ chức và hoạt động
theo ba cấp như sau:
- HĐND Tối cao;
- HĐND tỉnh - thành phố;
- HĐND huyện.
HĐND Tối cao khóa I như trên đã nói được tổ chức hoạt động theo 4
cấp, bởi vì điều kiện đất nước mới giải phóng bộ máy chính quyền địa
phương vẫn giữ nguyên theo hình thức nhà nước khu giải phóng. Đến HĐND
Tối cao khóa II đã thay đổi, nhất là bỏ HĐND cấp xã.
Quốc hội nước CHDCND Lào chính thức đã ra đời vào ngày 20 tháng
12 năm 1992, gồm có 85 đại biểu, 8 đại biểu nữ, có một Chủ tịch, 2 Phó Chủ
tịch, 8 ủy viên Thường vụ và 6 ủy ban: ủy ban thư ký, ủy ban kinh tế và kế
hoạch tài chính, Uỷ ban pháp luật, ủy ban văn hóa-xã hội, ủy ban dân tộc và
ủy ban đối ngoại, đồng thời còn có Văn phòng giúp việc Quốc hội.
Quốc hội đã có những thay đổi nhất định về tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp năm 1991, dựa trên thực tiễn của đất nước và phù hợp với
tinh thần đổi mới, Quốc hội đã thống nhất quyết định HĐND Tối cao 3 cấp
chuyển thành Quốc hội một cấp. Nhằm thực hiện vị trí, vai trò, và nhiệm vụ
của mình, Điều 39 Hiến pháp 1991 xác định rõ: Quốc hội là cơ quan quyền
9
lực nhà nước cao nhất, là cơ quan có quyền lập hiến, lập pháp, có quyền giám
sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước [34, tr.8].
Ngày 21 tháng 12 năm 1997, Quốc hội khóa IV được bầu ra gồm có 99
đại biểu, 21 đại biểu nữ, có 1 Chủ tịch, 3 Phó Chủ tịch (1 nữ) 7 ủy viên
thường vụ có 6 ủy ban như Quốc hội khóa III, nhưng bỏ ủy ban thư ký và
thành lập thêm ủy ban quốc phòng, an ninh [32, tr.5].
Quốc hội khóa V được bầu vào ngày 24 tháng 4 năm 2002 gồm có 109
đại biểu, 25 đại biểu nữ, 1 Chủ tịch, có 1 Phó Chủ tịch, 7 ủy viên Thường vụ
và có 6 ủy ban: Uỷ ban pháp luật, ủy ban kinh tế - kế hoạch và tài chính, ủy
ban văn hóa xã hội, ủy ban dân tộc, ủy ban đối ngoại và ủy ban quốc phòng,
an ninh. Quốc hội tiếp tục thực hiện vị trí vai trò của mình trên cơ sở Hiến
pháp (1991), Hiến pháp sửa đổi năm 2003, Luật về Quốc hội năm 1993, Luật
về Quốc hội sửa đổi năm 2003 và Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997,
phát huy những thành quả đạt được của Quốc hội các khóa trước. Quốc hội khóa
V đã có những đổi mới đáng kể, tiến hành tương đối đồng bộ, khẩn trương và có
hiệu quả trên quy mô rộng lớn trong nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
1.1.2. Sự phát triển của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào
1.1.2.1. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1992
Trong lịch sử Quốc hội nước CHDCND Lào, Uỷ ban pháp luật luôn
luôn là bộ phận cấu thành cơ cấu tổ chức của Quốc hội, cũng như Nghị viện
các nước, Quốc hội không thể hoạt động được nếu không có ủy ban chuẩn bị
nội dung các báo cáo, tham mưu những vấn đề thuộc nội dung của các dự án
luật, những vấn đề quan trọng do các cơ quan có thẩm quyền trình ra Quốc
hội xem xét, thông qua. Với những nhiệm vụ chuyên môn khác nhau, mỗi ủy
ban của Quốc hội đều có chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình để tạo nên
hiệu quả hoạt động của Quốc hội.
10
Quốc hội của bất kỳ nước nào cũng có chức năng làm luật chức năng
quyết định ngân sách, chức năng giám sát việc thực thi pháp luật và một số
chức năng khác.
Qua nghiên cứu hệ thống Nghị viện các nước trên thế giới cho thấy,
việc thành lập các ủy ban trong Nghị viện các nước thường dựa trên các bộ
tương đương của Chính phủ nhưng hầu hết Nghị viện nào cũng có những ủy
ban chủ chốt như ủy ban về pháp luật, kinh tế, ngân sách. Ở Việt Nam, Uỷ
ban pháp luật là một trong 7 ủy ban và Hội đồng dân tộc của Quốc hội, Uỷ
ban pháp luật có vị trí quan trọng góp phần vào việc giúp Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trong công tác lập pháp,
giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Ở Quốc hội Trung Quốc có 8 ủy ban chuyên môn. Trong đó ủy ban luật
pháp có vị trí quan trọng. Nghị viện Cộng hòa Pháp có Uỷ ban pháp luật phụ
trách về các lĩnh vực luật dân sự, luật hình sự, luật xí nghiệp, đoàn thể, chính
quyền địa phương ở cả Thượng viện và Hạ viện. Nghị viện Liên bang
Australia có các ủy ban Thượng viện nghiên cứu chi tiết các dự án luật và
kiểm tra tính xác thực của các bản thẩm tra dự án luật.
Nghị viện Canada có ủy ban liên hợp Thường trực, chuyên xem xét các
nghị định của Chính phủ, có các ủy ban lập pháp để xem xét một dự án luật
cụ thể và chấm dứt hoạt động khi dự án luật đó được gửi lại cho Hạ viện,
Nghị viện Phần Lan có ủy ban Hiến pháp và ủy ban lập pháp. Nghị viện
Indonexia có ủy ban pháp chế và Văn phòng luật sư…
Ở CHDCND Lào HĐND tối cao (Quốc hội) khóa I đã có 2 ủy ban: ủy
ban dự án Hiến pháp và ủy ban dự án sắc lệnh và Luật bầu cử, chưa gọi là Uỷ
ban pháp luật, cả 2 ủy ban có chức năng và nhiệm vụ tham mưu cho việc lập
hiến pháp, thẩm tra các sắc lệnh liên quan đến nhiệm vụ và quyền hạn của
HĐND tối cao và phổ biến chính sách của Đảng. Khi đó chức năng và nhiệm
11
vụ của Đảng và Nhà nước chưa phân công rõ ràng bởi vì sau khi đất nước
được giải phóng, tình hình trên đất nước chưa ổn định, nền kinh tế của Nhà
nước bị phá hủy, cơ sở vật chất thiếu thốn, nhân dân bị nghèo đói và vẫn còn
tàn quân của chính quyền cũ hoạt động chống lại chế độ mới. Một số nơi còn
có tình trạng nhân dân không hiểu biết chủ trương, đường lối của chế độ mới,
Nhà nước cũng chưa kịp ban hành các đạo luật, Nhà nước đã tạm thời quản lý
kinh tế - xã hội bằng các chỉ thị, thông tư, sắc lệnh và đường lối của Đảng.
Nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa
phương là chú trọng hai nhiệm vụ cơ bản:
- Tổ chức và động viên rộng rãi, phát huy dân chủ nâng cao trình độ
nhận thức của nhân dân về chính trị, về tinh thần yêu nước, yêu giai cấp, yêu
chế độ mới, cùng nhau xây dựng và bảo vệ chế độ Cộng hòa dân chủ nhân
dân non trẻ mới được thành lập.
- Đấu tranh chống và trấn áp những kẻ có âm mưu phản cách mạng,
những người có tội ác to lớn đối với nhân dân, xóa bỏ tận gốc những tàn dư tệ
nạn của xã hội cũ.
Đứng trước tình hình đất nước còn có nhiều khó khăn như vậy HĐND
tối cao khóa I đã tập trung vào việc khôi phục đất nước sau chiến tranh đã làm
cho việc lập Hiến pháp bị tạm dừng, ủy ban dự án Hiến pháp không được hoạt
động theo nhiệm vụ được đề ra.
Đến cuối nhiệm kỳ của HĐND tối cao khóa I, tình hình kinh tế - chính
trị và xã hội đã ổn định, cũng là lúc Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng
NDCM Lào được mở ra (1986). Đại hội lần này đã ban hành chính sách đổi
mới đất nước toàn diện, trong đó việc quản lý nhà nước bằng pháp luật đã
được đề cao. Trong Văn kiện của Đại hội đã khẳng định: “Muốn quản lý nhà nước
được là không có cách nào khác phải xây dựng và cải cách hệ thống chính sách về
12
mọi mặt của đời sống xã hội, hệ thống chính sách đó phản ánh chính xác, khách
quan và phản ánh được lợi ích chung của nhân dân” [25, tr.79].
Song song với xây dựng và cải cách hệ thống chính sách, Văn kiện Đại
hội cũng xác định phải thể chế hóa chính sách đó thành pháp luật. Vì nếu
không có pháp luật thì không thể quản lý xã hội được.
Sự phát triển của xã hội đang đòi hỏi Nhà nước Lào phải xây dựng và
không ngừng cải cách các bộ máy quản lý để đủ khả năng đáp ứng việc xây
dựng hệ thống pháp luật. Công việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội, đào tạo và sắp xếp bộ máy cán bộ công chức, quản lý và tạo điều kiện
quản lý mọi hoạt động của xã hội đi theo chủ trương, đường lối của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo sáng suất của Đảng, cùng với chính sách đổi mới của
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và tình hình ổn định của đất nước trong
giai đoạn mới đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hoạt động trở lại của ủy ban
dự án Hiến pháp ủy ban đã bắt đầu việc chuẩn bị cho soạn thảo bản Hiến pháp
đầu tiên của nước CHDCND Lào.
HĐND tối cao khóa II đã được thành lập Uỷ ban pháp luật trên cơ sở
kết hợp 2 ủy ban là ủy ban dự án Hiến pháp và ủy ban dự án sắc lệnh và luật
bầu cử. Uỷ ban pháp luật của HĐND tối cao khóa II có nhiệm vụ quan trọng
là tham mưu cho Uỷ ban thường vụ HĐND tối cao trong việc soạn thảo bản
Hiến pháp đầu tiên và một số dự án luật. Uỷ ban pháp luật đã góp phần quan
trọng trong việc soạn thảo bản Hiến pháp đầu tiên. Bản Hiến pháp này đã
được quần chúng nhân dân góp ý kiến rộng rãi và cũng là lần đầu tiên có sự
đồng ý của nhân dân tham gia soạn thảo bản Hiến pháp. Bản Hiến pháp đã
tổng kết những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng và xây
dựng đất nước Lào. Quy định chế độ chính trị, chế độ kinh tế và chế độ xã
hội, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và hệ thống bộ máy nhà nước,
đồng thời quy định quyền làm chủ của nhân dân. Bản Hiến pháp được đại
13
biểu HĐND tối cao khóa II thảo luận nhiều lần và đến cuối nhiệm kỳ đã được
thông qua vào ngày 14/8/1991 tại kỳ họp thứ 6, và được công bố chính thức
ban hành vào ngày 15/8/1991. Đó là cơ sở pháp lý vững chắc để xây dựng bộ
máy nhà nước và là một văn bản luật cơ bản đầu tiên, thể hiện đường lối đổi
mới của Đảng NDCM Lào, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng hệ thống
pháp luật cho các nhiệm kỳ Quốc hội tiếp theo, bảo đảm cho các cơ quan lập
pháp, hành pháp và tư pháp hoạt động có hiệu quả trong tình hình mới.
1.1.2.2. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Phải mất gần 16 năm sau khi giải phóng đất nước, Nhà nước CHDCND
Lào mới xây dựng được bản Hiến pháp vì nhiều lý do trong và ngoài nước, từ sự
sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu, sau đó là sự ra đi của ông
Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản (21/11/1992) - vị lãnh tụ trong công cuộc cách
mạng giải phóng đất nước. Ông là người khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước.
Trước tình hình trong nước và quốc tế có sự biến đổi mạnh mẽ với nhiều thuận lợi
cũng như khó khăn thử thách. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
giai đoạn đổi mới như vậy CHDCND Lào cần phải kiên trì mục tiêu độc lập dân
tộc, chủ quyền đất nước trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, xác định phát triển
kinh tế - xã hội là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, cải
cách và hoàn thiện Nhà nước, phát huy dân chủ, giữ vững và phát huy bản chất
giai cấp công nhân, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân,
do dân, và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng NDCM Lào.
Giai đoạn này được coi là giai đoạn đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và
hoạt động của Quốc hội, với việc quy định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ của
Quốc hội và các ủy ban của Quốc hội, thành lập thêm các ủy ban chuyên môn
đặc trách những lĩnh vực rộng lớn của đời sống xã hội, cơ cấu, chất lượng của
đại biểu Quốc hội được chú trọng nâng cao. Đây cũng là giai đoạn mà những
thành quả của công cuộc đổi mới toàn diện được phát huy, những chủ trương
14
chính sách lớn của Đảng và Nhà nước được tập trung thực hiện nhằm tiếp tục
đẩy mạnh sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và cũng đặt ra yêu cầu
bức xúc trong đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, bộ máy
Nhà nước, cải cách hành chính, cải cách tư pháp và đổi mới tổ chức và hoạt
động của Quốc hội ngang tầm đòi hỏi và yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong
giai đoạn mới.
Số lượng thành viên của Uỷ ban pháp luật được tăng cường nhiều hơn.
Các đại biểu là thành viên ủy ban đều được lựa chọn trên cơ sở bảo đảm hoàn
thành chức năng, nhiệm vụ của ủy ban, có tính đến yếu tố đại diện cho các
vùng, miền, ngành và lĩnh vực công tác nhằm bảo đảm cho hoạt động của ủy
ban vừa có tính chuyên môn cao vừa bảo đảm tính đại diện hợp lý và có điều
kiện thời gian hoạt động.
Thường trực Uỷ ban pháp luật hoạt động chuyên trách, toàn bộ thời
gian và công sức phục vụ cho hoạt động của ủy ban và Quốc hội, các đại biểu
được lựa chọn là những người có trình độ và kinh nghiệm xây dựng pháp luật,
trong hoạt động tư pháp và một số lĩnh vực chuyên môn khác, có trách nhiệm
cao trong công việc và tổ chức hợp lý, khoa học các hoạt động của ủy ban
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao.
Uỷ ban pháp luật có bộ máy giúp việc là Cục pháp luật, bao gồm các
cán bộ, chuyên viên là những người tốt nghiệp đại học luật ở trong nước và
nước ngoài. Các điều kiện làm việc như văn phòng, trang thiết bị và cơ sở vật
chất cần thiết phục vụ cho hoạt động của ủy ban ngày càng được tăng cường
cả về số lượng và chất lượng, bảo đảm để ủy ban thực hiện đầy đủ chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của mình.
1.2. CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA UỶ BAN PHÁP LUẬT CỦA QUỐC HỘI
NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
15
Quốc hội nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào là cơ quan đại diện
quyền lực và lợi ích của nhân dân các bộ tộc, vừa là cơ quan quyền lực nhà
nước vừa là cơ quan lập Hiến, có quyền quyết định vấn đề quan trọng của đất
nước, giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp và tư pháp.
Quốc hội có các ủy ban giúp việc về nhiều lĩnh vực khác nhau, các ủy
ban của Quốc hội là cơ quan tham mưu của Quốc hội và UBTVQH, có nhiệm
vụ thẩm tra các dự án pháp luật, dự án pháp lệnh, giúp Quốc hội và UBTVQH
thực hiện nhiệm vụ giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước. Mỗi ủy ban
của Quốc hội đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để tạo nên
hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Trong đó Uỷ ban pháp luật là cơ quan tham
mưu của Quốc hội và UBTVQH trong lĩnh vực lập hiến, lập pháp. Uỷ ban
pháp luật được giao quyền thẩm tra, xem xét về tính hợp hiến, hợp pháp, tính
thống nhất của dự án luật trước trình Quốc hội xem xét, thông qua, giám sát
hoạt động của Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, kiến nghị các giải
pháp liên quan đến lĩnh vực pháp luật. Trong lịch sử của Quốc hội, Uỷ ban
pháp luật của Quốc hội các khóa đã góp phần quan trọng vào việc giúp Quốc
hội và UBTVQH hoàn thành chức năng, nhiệm vụ trong công tác lập pháp,
giám sát và quyết định vấn đề quan trọng của đất nước, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì
dân do Đảng NDCM Lào đã đặt ra.
1.2.1. Chức năng và phương thức hoạt động thẩm tra của Uỷ ban
pháp luật của Quốc hội
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào là cơ quan tham
mưu, giúp việc và giám sát của Quốc hội, UBTVQH trong lĩnh vực lập hiến,
lập pháp thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp, luật về Quốc hội
và các văn bản khác.
16
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào có ba chức năng
chính là thẩm tra, giám sát, kiến nghị về lĩnh vực được giao. Ba chức năng
này không thể tách rời nhau mà luôn luôn gắn kết, hỗ trợ cho nhau. Để thực
hiện chức năng thẩm tra Uỷ ban pháp luật của Quốc hội phải thực hiện chức
năng giám sát, khảo sát và qua công tác giám sát để có thể có những kiến nghị
là căn cứ xác đáng phục vụ cho chức năng thẩm tra. Qua công tác thẩm tra,
giám sát mới đề xuất, kiến nghị với Quốc hội và UBTVQH các giải pháp để
thực thi pháp luật hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành cho
phù hợp với tình hình thực tiễn.
- Chức năng thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước
CHDCND Lào. Thẩm tra là hoạt động thuộc chức năng, nhiệm vụ của các ủy
ban của Quốc hội do Quốc hội giao nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật, pháp
lệnh và các dự án văn bản pháp luật khác trước khi trình Quốc hội, UBTVQH
xem xét thông qua. Đây là một khâu quan trọng trong quy trình xây dựng luật,
pháp lệnh của Quốc hội. Trong các nhiệm vụ, quyền hạn được giao thì nhiệm
vụ thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh và các dự án, báo cáo khác được coi là
nhiệm vụ quan trọng nhất, nó là cơ sở, căn cứ để đưa các kiến nghị, giải pháp
hoàn thiện các dự án luật, pháp lệnh hoặc dự thảo nghị quyết để trình Quốc
hội, UBTVQH xem xét, sửa đổi hệ thống pháp luật hiện hành nhằm đưa pháp
luật thực sự đi vào cuộc sống, có giá trị điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy
nhiên, không nên hiểu đơn thuần nhiệm vụ thẩm tra các dự án chỉ phục vụ cho
việc thực hiện chức năng của Quốc hội là hoạt động lập pháp mà còn phục vụ
cho cả ba chức năng của Quốc hội.
- Quan niệm về chức năng thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội
nước CHDCND Lào. Thẩm tra là điều tra, tìm hiểu để xem xét lại điều đã kết
luận hoặc vấn đề đã nêu có đúng, có chính xác không. Hoạt động thẩm tra của
Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào là hoạt động mang tính
17
pháp lý, được tiến hành thông qua các hình thức họp toàn thể hoặc phiên họp
thường trực của ủy ban theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Hoạt động
thẩm tra của Uỷ ban pháp luật nhằm kiểm tra, xem xét, đánh giá, thẩm định
chất lượng và nội dung của dự án luật, dự án pháp lệnh và các văn bản khác
của các cơ quan được giao soạn thảo hoặc có trách nhiệm chuẩn bị các dự án
luật, dự án pháp lệnh và các văn bản trước khi trình Quốc hội, UBTVQH xem
xét và thông qua. Khi tiến hành hoạt động thẩm tra, Uỷ ban pháp luật có quyền
yêu cầu cơ quan, tổ chức báo cáo, trình bày về những vấn đề có liên quan đến
dự án được thẩm tra, có quyền bác bỏ hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoặc có
quyền đề nghị hoãn lại để trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội vào một
phiên họp khác. Để phục vụ thẩm tra, Uỷ ban pháp luật của Quốc hội có quyền
tiến hành một loạt các hoạt động khác như khảo sát, điều tra, xem xét trực tiếp
chất vấn, yêu cầu báo cáo về những vấn đề có liên quan đến các dự án luật, pháp
lệnh.
- Lĩnh vực thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào.
Theo Luật về Quốc hội năm 2003 (Điều 33) đã xác định nhiệm vụ thẩm
tra của Uỷ ban pháp luật về lĩnh vực như sau:
+Tổ chức bộ máy nhà nước, hình sự, nhân sự, hành chính và các dự án
khác do Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao.
+Dự kiến của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, đề
nghị của cơ quan khác, của tổ chức, của đại biểu Quốc hội về xây dựng luật,
pháp lệnh, kiến nghị của đại biểu Quốc hội về luật, pháp lệnh.
+Các báo cáo của Chính phủ về việc giải quyết khiếu nại, tổ cáo của
công dân, về công tác phòng ngừa và chống vi phạm pháp luật và tội phạm,
công tác thi hành án, các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
18
Thẩm quyền trong nhiệm vụ thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc
hội nước CHDCND Lào căn cứ vào chất lượng dự án được soạn thảo, thông
qua quy trình thẩm tra, ủy ban có quyền đưa ra các quyết định sau đây:
+ Tán thành với toàn bộ nội dung và hình thức của dự án. Việc tán
thành này được thể hiện qua báo cáo thẩm tra hoặc của ủy ban trình ra Quốc
hội hoặc UBTVQH. Hoạt động thẩm tra của Uỷ ban pháp luật có đạt chất
lượng và hiệu quả hay không còn tùy thuộc vào việc chuẩn bị báo cáo thẩm
tra (giai đoạn cuối cùng của quy trình thẩm tra). Hay nói cách khác, báo cáo
thẩm tra là kết quả cuối cùng của hoạt động thẩm tra. Toàn bộ nội dung của
cuộc họp thẩm tra được phản ánh qua báo cáo thẩm tra;
+ Không tán thành với toàn bộ dự án. Hậu quả của quyết định này là
ngay sau khi cuộc họp thẩm tra, dự án có thể được trình UBTVQH xem xét
cho ý kiến ủy ban vẫn trình báo cao thẩm tra và nêu rõ về các nội dung không
tán thành để UBTVQH xem xét, quyết định. Khi dự án bị Uỷ ban thường vụ
Quốc hội cho ý kiến chưa trình ra Quốc hội thì cơ quan trình dự án phải chuẩn
bị lại, xem xét lại quy trình phân tích chính sách, soạn thảo lại dự án và tiếp
tục xin ý kiến của các cơ quan có thẩm quyền; hoặc có quyền rút khỏi chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh.
+ Tán thành cơ bản về các nội dung của dự án nhưng đề nghị xem xét
các điều kiện bảo đảm thực hiện hoặc sửa đổi về kỹ thuật câu chữ cho phù
hợp và dự án được tiếp tục chỉnh lý, hoàn thiện để trình xem xét thông qua.
+ Tán thành một số nội dung và yêu cầu cơ quan soạn thảo nghiên cứu
sửa đổi một số nội dung, bao gồm cả kỹ thuật lập pháp hoặc những vấn đề về
thủ tục. Đây là vấn đề thường gặp nhất mà rất ít khi có dự án trình đến các cơ
quan của Quốc hội thẩm tra lại được sự ủng hộ nhất trí hoàn toàn về nội dung
cũng như hình thức của văn bản. Bởi vì, về phía cơ quan soạn thảo bao giờ
cũng muốn có những quy định thuận lợi cho hoạt động của mình hoặc vì lợi
19
ích cục bộ nên có những quy định không phù hợp với hệ thống pháp luật hiện
hành. Do đó, sau khi tiến hành thẩm tra bao giờ cũng có bước phối hợp giữa
cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra, cơ quan tham gia thẩm tra, dự án được
trình UBTVQH cho ý kiến thì cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra và Uỷ ban
pháp luật (trong trường hợp Uỷ ban pháp luật là cơ quan tham gia thẩm tra)
phải tổ chức họp để tiếp thu ý kiến của các thành viên UBTVQH để chỉnh lý
dự án.
- Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội nước CHDCND Lào.
Báo cáo thẩm tra dự án luật, pháp lệnh là một văn bản do các cơ quan
thẩm tra về dự án được thẩm tra dưới hình thức quy định, có tính chất bắt
buộc nhằm bảo đảm cho quy trình xây dựng luật, pháp lệnh được tiến hành
chặt chẽ, khoa học và có hiệu quả.
Về mục đích với việc thể hiện quan điểm của cơ quan thẩm tra là cơ
quan được Quốc hội giao phụ trách những lĩnh vực chuyên môn thì báo cáo
thẩm tra chính là văn bản đánh giá chất lượng của dự án luật, pháp lệnh cả về
nội dung và hình thức và một số trường hợp nêu ra những vấn đề (về lý luận,
về pháp luật, về thực tiễn) cùng những giải pháp nhất định để Quốc hội,
UBTVQH có cơ sở xem xét, thảo luận và thông qua dự án. Báo cáo thẩm tra
còn có sự kiểm tra trước nhằm phát hiện những vi phạm, khiếm khuyết hạn
chế với dự báo, phòng ngừa những điểm sai trái có thể có trong dự thảo.
Hoạt động thẩm tra của Uỷ ban pháp luật của Quốc hội có những tính
chất tương tự như hoạt động thẩm định của Bộ Tư pháp. Tuy nhiên hai hoạt
động này có sự khác nhau và có thể phân biệt qua đặc trưng về chủ thể, đối
tượng, nội dung vị trí và vai trò của mỗi hoạt động quy trình xây dựng pháp
luật. Hoạt động thẩm định và thẩm tra mặc dù có những điểm khác nhau
nhưng chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau: hoạt động thẩm định là tiền
đề có tác dụng hỗ trợ cho hoạt động thẩm tra. Nếu hoạt động thẩm định dự án
20
luật, pháp lệnh có chất lượng trước khi trình ủy ban thẩm tra thì sẽ giảm bớt
thời gian và công sức cho cơ quan thẩm tra, góp phần nâng cao chất lượng
của dự án luật, pháp lệnh – có thể hiểu thẩm tra của ủy ban thực hiện một loạt
các thao tác như xem xét, thẩm tra, khảo sát, điều tra, nghiên cứu, hỏi, chất
vấn, thẩm vấn và phối hợp hoạt động với các cơ quan hữu quan đưa ra các dự
án luật, pháp lệnh hoặc các dự án khác trên cơ sở đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, các điều kiện kinh tế – xã hội của đất nước, bảo đảm khi dự án
được thông qua có chất lượng, bảo đảm điều chỉnh các quan hệ xã hội mà dự
luật pháp lệnh hướng tới, thúc đẩy các quan hệ kinh tế – xã hội phát triển tạo
điều kiện thuận lợi cho công cuộc hoàn thiện hệ thống pháp luật xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.
- Nội dung cơ bản của báo cáo thẩm tra:
Cơ quan thẩm tra tiến hành thẩm tra về tất cả các mặt của dự án luật, dự
án pháp lệnh, dự án nghị quyết, phải tập trung vào những nội dung sau đây:
+ Sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh, nghị quyết, đối tượng phạm vi
điều chỉnh;
+ Sự phù hợp của nội dung dự án với đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp của dự án và tính thống nhất của văn bản
với hệ thống pháp luật;
+ Việc tuân thủ thủ tục và trình tự soạn thảo.
+ Tính khả thi của dự án;
- Hình thức báo cáo thẩm tra:
+ Nếu căn cứ vào chủ thể của cơ quan thẩm tra:
Báo cáo thẩm tra của cơ quan thẩm tra;
21
Báo cáo thẩm tra của cơ quan tham gia thẩm tra (về những nội dung
có liên quan tới lĩnh vực ủy ban phụ trách);
Báo cáo của Uỷ ban pháp luật (với tư cách tham gia thẩm tra nhằm
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật).
+ Nếu căn cứ theo mức độ thẩm tra.
Báo cáo thẩm tra sơ bộ do Thường trực ủy ban tiến hành.
Báo cáo thẩm tra chính thức do toàn thể ủy ban tiến hành.
Như vậy, báo cáo thẩm tra là văn bản pháp lý quan trọng thể hiện chất
lượng thẩm tra của ủy ban. Chất lượng thẩm tra có liên quan đến chất lượng
các dự án luật, pháp lệnh và ảnh hưởng rất lớn đến quy trình xem xét, thông
qua luật tại kỳ họp Quốc hội.
Báo cáo thẩm tra nó không những có giá trị như một văn bản phản biện
đối với cơ quan trình dự án luật mà còn tác động trực tiếp đến các đại biểu
Quốc hội trong quá trình phân tích, xem xét thông qua dự án luật, bảo đảm
cho quá trình thông qua dự án luật nhanh hơn, có chất lượng cao hơn. Bảo
đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật được
với các dự án luật, pháp lệnh trước khi trình Quốc hội và UBTVQH thông qua
có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là trong điều kiện đang xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Một hệ thống pháp luật hợp hiến, hợp pháp và thống nhất, trong đó các
văn bản pháp luật tuân theo và không được trái với quy định của Hiến pháp và
các đạo luật sẽ bảo đảm được tính tối cao của Hiến pháp và các đạo luật; bảo
đảm được vị trí của Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập
pháp. Ở nước CHDCND Lào, quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân
dân bầu ra Quốc hội, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, đại diện cho ý chí của nhân dân trong cả nước.
22
Thực hiện quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân trao cho, Quốc hội thực
hiện quyền lập hiến và lập pháp. Tuy nhiên, quyền lập hiến và lập pháp của
Quốc hội chỉ có ý nghĩa khi các văn bản pháp luật của các cơ quan nhà nước
phải được ban hành trên cơ sở căn cứ vào quy định của Hiến pháp và các đạo
luật, đồng thời không được trái với các quy định của Hiến pháp và các đạo
luật. Việc bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống
pháp luật sẽ bảo đảm trật tự, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật, bảo
đảm cho mỗi quy phạm pháp luật đều được xuất phát từ ý chí của Quốc hội,
cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân và như vậy sẽ bảo đảm được các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân tránh trường hợp mỗi địa phương,
mỗi ngành ban hành mỗi loại văn bản khác nhau, không phù hợp với các điều
luật, đối lập với lợi ích chung của cả nước.
Một hệ thống pháp luật hợp hiến, hợp pháp và thống nhất, trong đó các
văn bản pháp luật không có sự chồng chéo, mâu thuẫn nhau các quy định
trong mỗi văn bản pháp luật đều rõ ràng, chính xác, sẽ bảo đảm cho việc nhận
thức và thực hiện pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất trên toàn quốc.
Một hệ thống pháp luật không đồng bộ, mâu thuẫn nhau trong các văn bản
pháp luật sẽ gây khó khăn cho việc thực hiện pháp luật của công dân và việc
áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, việc
đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật không có nghĩa là các văn bản
của các cơ quan nhà nước ở các địa phương đều phải như nhau, không tính
đến hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của mỗi địa phương các địa phương có thể
ban hành các văn bản phù hợp với hoàn cảnh điều kiện ở mỗi địa phương
nhưng phải trên cơ sở quy định của các văn bản của cơ quan nhà nước cấp
trên và không được trái với chúng, việc bảo đảm tính thống nhất của hệ thống
pháp luật là điều kiện quan trọng để bảo đảm pháp chế XHCN, trật tự pháp
luật, bảo đảm công bằng và ổn định xã hội trong toàn quốc.
23
Quốc hội có quyền ban hành luật, bộ luật cũng có nghĩa là luật hoặc bộ
luật do Quốc hội ban hành phải bảo đảm phù hợp với Hiến pháp cả về nội
dung và hình thức. Để bảo đảm cho Quốc hội có một dự án luật, bộ luật tương
đối hoàn chỉnh trước khi thông qua thì các cơ quan hữu quan phải tuân thủ
đầy đủ quy trình từ xây dựng chính sách, soạn thảo, thẩm định, trình thẩm tra
cho ý kiến và chỉnh lý hoàn thiện dự thảo trước khi thông qua.
Luật, pháp lệnh ở CHDCND Lào được giao cho nhiều cơ quan khác
nhau soạn thảo và được thể hiện theo nhiều cách, quan niệm và chuẩn mực kỹ
thuật cũng khác nhau, Bộ Tư pháp là cơ quan được giao chủ trì soạn thảo một
số lĩnh vực tư pháp, chương trình xây dựng luật, pháp lệnh đồng thời được
giao thẩm định các văn bản do các Bộ, ngành khác chủ trì soạn thảo. Tuy
nhiên, mặc dù đã có Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thẩm định các dự
án luật, pháp lệnh do các Bộ, ngành dự thảo để Chính phủ xem xét, quyết
định về các nội dung của dự án trước khi trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội xem xét, thông qua nhưng xu hướng chung thì Bộ, ngành nào được
giao soạn thảo văn bản thuộc lĩnh vực của mình cũng đều có xu hướng cục
bộ, muốn bảo vệ lợi ích của Bộ, ngành mình. Vì thế, cần phải có một cơ quan
của Quốc hội thực hiện việc thẩm tra hoặc tham gia thẩm tra để bảo đảm tính
hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống. Chức năng này theo quy
định của pháp luật, Quốc hội giao cho Uỷ ban pháp luật.
Để đánh giá về một hệ thống pháp luật cần phải dựa vào nhiều loại tiêu
chuẩn khác nhau trong đó có những tiêu chuẩn quan trọng như tính toàn diện,
tính đồng bộ, tính phù hợp và trình độ kỹ thuật xây dựng văn bản, một hệ
thống văn bản pháp luật hợp hiến, hợp pháp và có tính thống nhất phải bảo
đảm được các yêu cầu sau đây:
- Đó là hệ thống pháp luật đồng bộ. Trong hệ thống pháp luật đó, các
văn bản quy phạm pháp luật không mâu thuẫn chồng chéo nhau mà tồn tại
24
theo thứ bậc và có liên quan chặt chẽ với nhau. Các quy phạm pháp luật do cơ
quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp và không được trái với các
văn bản do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành; các văn bản quy phạm dưới
luật khi được ban hành phải căn cứ vào các văn bản luật. Không được trái với
quy định của Hiến pháp và luật. Mọi lĩnh vực quan hệ xã hội quan trọng và cơ
bản đều được các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh, không có khoảng
trống, không có sự chồng chéo mâu thuẫn trong từng văn bản, trong mỗi
ngành luật và giữa các ngành với nhau.
- Tính thống nhất của hệ thống pháp luật không chỉ đòi hỏi yêu cầu
thống nhất về mặt nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn đòi
hỏi cả yêu cầu thống nhất về mặt hình thức thể hiện, về kỹ thuật soạn thảo văn
bản, các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành phải đáp ứng những quy định quy phạm pháp luật theo quy định của
luật pháp. Các quy định trong mỗi văn bản quy phạm pháp luật phải được
biểu hiện bằng ngôn ngữ diễn đạt phải đơn giản, phổ thông dễ hiểu, tránh
trường hợp các quy phạm pháp luật có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
hoặc được diễn đạt quá rườm rà.
- Tính hợp hiến của hệ thống pháp luật còn đòi hỏi văn bản pháp luật
trong hệ thống pháp luật phải được ban hành theo đúng thẩm quyền và trình
tự ban hành văn bản do pháp luật quy định. Đối với Hiến pháp và các văn bản
luật thì phải có Quốc hội (cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp
ban hành). Thủ tục soạn thảo, thông qua công bố Hiến pháp phải theo một
trình tự được quy định rất chặt chẽ (so với việc thông qua qua các văn bản
luật) do Quốc hội quy định. UBTVQH có thẩm quyền ban hành pháp lệnh,
nghị quyết, chủ tịch nước ban hành văn bản theo đúng thẩm quyền không chỉ
thể hiện ở yêu cầu về mặt hình thức văn bản mà còn đòi hỏi ở yêu cầu về nội
dung đối với mỗi loại văn bản, ví dụ như: những vấn đề liên quan đến quyền
25
và nghĩa vụ cơ bản của công dân phải do Hiến pháp và pháp luật quy định,
hoặc việc ban hành mới, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế là thẩm quyền mà
Hiến pháp giao cho Quốc hội quy định (tức là phải dưới hình thức văn bản
luật).
- Tính hợp hiến của hệ thống pháp luật còn đòi hỏi văn bản pháp luật
bảo đảm định hướng chính trị. Chính trị là nền tảng của pháp luật, thông qua
pháp luật là một biện pháp chính trị, là chính trị. Chính vì vậy trong quá trình
ban hành văn bản quy phạm pháp luật từ việc quyết định chương trình đến
việc ban hành từng đạo luật pháp lệnh, Quốc hội đều có sự chỉ đạo của Ban
Chấp hành Trung ương hoặc Bộ Chính trị để bảo đảm cho các văn bản này đi
đúng định hướng. Do đó, khi tiến hành thẩm tra các dự án. Uỷ ban pháp luật
đúng phải luôn luôn quán triệt yêu cầu này.
Trên đây là một số yêu cầu cơ bản phải có để xác định một hệ thống
pháp luật là hợp hiến, hợp pháp và thống nhất. Đồng thời, chúng tôi cũng cho
rằng đối với một hệ thống pháp luật hoàn thiện thì ngoài yêu cầu hợp hiến,
hợp pháp và thống nhất ra thì còn có những yêu cầu cơ bản khác như: yêu cầu
về tính toàn diện của hệ thống pháp luật (đòi hỏi mọi lĩnh vực quan hệ xã hội
phải được pháp luật điều chỉnh trên cơ sở xác định một cách toàn diện, đầy đủ
những nhu cầu xã hội cần điều chỉnh bằng pháp luật có tính đến những lĩnh
vực ưu tiên): yêu cầu về tính phù hợp, hài hòa của hệ thống pháp luật (thể
hiện sự tương quan giữa trình độ của hệ thống pháp luật với trình độ phát
triển của kinh tế – xã hội, không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển
đó). Việc xác định rõ những yêu cầu đối với một hệ thống pháp luật được coi
là hợp hiến, hợp pháp và thống nhất có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
trách nhiệm và những công việc cần phải làm của cơ quan có trách nhiệm,
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của hệ thống pháp luật.